Đường vào thiên thu!
Y Vũ
Viết bài này, người kể chuyện không hề có cao vọng nào khác hơn, v́ lẽ
giản dị là ḿnh không phải là một văn tài. Tôi không có mục đích tố giác
hoặc lên án một đoàn thể hay một cá nhân nào. Ai chả có một phút lỗi lầm.
Người viết chỉ làm nhân chứng nhỏ bé trong một giai đoạn lịch sử đau
thương khi đất nước chuyển ḿnh.
Xin dành một phút tưởng niệm các bạn tù đă vĩnh viễn nằm xuống và thành
thật chia sẻ những đau thương mất mát của gia đ́nh các anh chị.
Bên đồi núi trắng sương sa.
Ngày đi năm tháng phôi pha mong chờ.
Chia ly ngăn cách mịt mờ.
Ḷng ta đau xót lững lờ chơi vơi.
Vợ chồng đôi ngă đôi nơi.
Sông sâu cách trở muôn đời hay sao.
Đêm nằm khấn nguyện trời cao.
Biết ai là bạn tâm giao lúc này.
Hàn thuyên hay khó tỏ bày.
Ngậm cay nuốt đắng đọa đày tấm thân.
Thương nàng lệ úa sầu dâng.
Đêm đêm thao thức bâng khuâng đợi chờ.
Ngày đi đâu có ai ngờ.
Tính sai một bước, cuộc đời phôi pha.
Đây Bến Ngọc - sông Hồng Hà.
Thân trai, thương nước nhớ nhà.
Thương đàn trẻ dại, mẹ già cố hương.
Cầu cho đất nước tha hương.
Cho đời thắm đẹp, quê hương màu hồng.
Phương Đoài kết hợp Phương Đông.
T́nh ta kết tục, đoàn viên vợ chồng.
Y Vũ
1977 - Việt Bắc
Nỗi Ḷng Người Vợ (miền Nam)
Thân em như chiếc thuyền nan.
Lướt trên sóng vỡ bạt ngàn trùng dương.
Xa xôi mưa nắng mười sương.
Thuyền trôi ngàn dặm tha phương mịt mờ.
Thương ai tháng đợi năm chờ.
Ngày xanh ṃn mỏi bên bờ nhiễu nhương.
Ngày về nối lại t́nh thương.
Cung đàn lỡ nhịp tơ vương bụi hồng.
T́nh ta xa cách mặn nồng.
Cũng luôn ấp ủ tơ đồng yêu đương.
Nhật Mỹ (Hiền thê Y Vũ)
1977 - Sài G̣n.
Cửa Địa Ngục:
Buổi sáng hôm đó, tôi thức dậy sớm, chuẩn bị đi tŕnh diện cải tạo. Ḷng
ngổn ngang trăm mối tơ ṿ. Chuyến đi lành ít, dữ nhiều. Phải chăng đây là
những giây phút cuối cùng bên vợ dại con thơ. Tương lai mịt mờ, biết ra
sao ngày sau. Vai đeo ba lô, bước chân vào cửa nhà tù thứ nhất để nộp với
hành trang chỉ đủ cho 10 ngày. Vào th́ dễ mà ra th́ thiên gian vạn nan.
Như con cá chui vô trong rọ. Đă qua cái hom bắt cá th́ đành thúc thủ.
Cả một đội Quân hùng Tướng mạnh ngoan ngoăn theo lệnh tập trung cải tạo.
Định mệnh đă an bài. Tôi bước chân vào trường Taberd. Ôi nơi đây ngày mới
đây c̣n là nơi ấp ủ t́nh thương, nào thầy nào tṛ. Mới ngày nào tôi c̣n
đứng trên bục giảng với phấn trắng bảng đen. Nay tự dưng tôi biến thành kẻ
tội đồ, chờ mang đi lưu đày khổ sai chung thân. Cuộc đời là sắc sắc không
không. Nh́n qua khung cửa sổ lầu hai, thấy người qua lại tự do, tôi thèm
hai chữ tự do mà toan nhảy xuống đường. Nhưng với bản chất nhà giáo, tôi
ngại mạo hiểm.
Những cái chết đầu tiên:
Trong hành tŕnh tù cải tạo từ Nam ra Bắc, tôi đă chứng kiến bạn bè kề cận
lặng lẽ vĩnh biệt. Người đầu tiên là anh Tường Thế Bỉnh, anh là Kỹ Sư Công
Nghiệp, Chánh sự vụ sở Kiểm Lâm Cao Nguyên Trung Phần. Anh cùng chung một
đội và pḥng giam với tôi tại Trại Suối Máu, phi trường Biên Ḥa.
Tối hôm đó, khoảng 9 giờ tối tháng 7 năm 1975. Mọi người đă vào chỗ nằm
ngủ. Pḥng không có điện, chỉ có ngọn đèn dầu hôi, tỏa ánh sáng lờ mờ.
Trong pḥng bỗng có tiếng ồn ào xôn xao. Th́ ra anh Bỉnh đă dùng dao cạo
râu tự cắt mạch máu ở cổ tay. Máu chảy lênh láng ra sàn nhà, miệng thở ph́
pḥ. Thế là đă trễ, anh đă vĩnh viễn ra đi. Cạnh anh có Bác Sĩ Hoàng - Bác
sĩ Bệnh Viện Từ Dũ hết ḷng cấp cứu, nhưng cũng đành bó tay. Anh Bỉnh
thường ngày hay trầm ngâm. Mới cách đó 1, 2 tiếng đồng hồ, anh c̣n kiểm
soát nước của đội. Mỗi tù nhân chỉ được quyền dùng 1 lon nước để làm vệ
sinh răng miệng. V́ nước rất hiếm, anh em phải thay phiên nhau chở từ xa
về.
Tâm sự của đa số anh em lúc đó là tuyệt vọng. Hằng ngày chứng kiến xe vận
tải chuyển gạo cho trại tù nên ai cũng lắc đầu. Nhẩm tính biết là không
phải tù chỉ trong 10 ngày mà là chung thân. Nếu anh biết, chỉ 3 tháng sau,
những tù có chuyên môn như anh sẽ được trở về cơ quan cũ, có lẽ anh không
tự sát v́ tuyệt vọng. V́ bề ǵ th́ tù ngoài cũng c̣n dễ thở hơn tù trong,
c̣n được gần vợ con.
Cái chết của một Nhạc Sĩ:
Anh là nhạc sĩ Minh Kỳ, tên thật là Vĩnh Mỹ, gốc người Huế và tính t́nh
hiền lành, vui vẻ. Anh là tác giả của nhiều bài ca nổi tiếng, trong đó có
bài “Nha Trang” và “ Đàn Chim Việt” mà tôi rất thích. Những lời ca giản
dị, dễ thương “...Nơi ấy có người trai vượt sóng cười...?” hay “Hót đi
chim... hót đi chim...” vẫn c̣n đâu đây, vang vọng trong tôi. Hôm ấy là
một chiều mùa Hạ oi bức, cũng tại Trại Suối Máu, Biên Ḥa, một phân trại
cách chỗ tôi ở khoảng 200 mét. Một tiếng nổ long trời lở đất, khiến tôi
tưởng là có biến cố lớn. Người tù nào mà chả mong có một cái ǵ thay đổi,
một sự giải thoát nào đó. Nửa tiếng sau đă có tin anh Minh Kỳ tử nạn cùng
một số anh em khác vừa chết vừa bị thương. Con số nạn nhân khoảng mấy chục
người. Sau một ngày lao động, anh em tù tụ tập lại chuyện tṛ. Một trái nổ
phóng vào từ phía ngoài hàng rào kẽm gai. Có người nói, v́ mua bán trao
đổi không ṣng phẳng ǵ đó giữa lính canh và tù cải tạo nên bộ đội ném
trái nổ vô. Lại có tin là vệ binh bắn M79 hay lựu đạn giết hại tù cải tạo
để trả thù cho người thân đă bị chết trong chiến tranh Việt Nam. Trung
Ương có cho 1 phái đoàn xuống điều tra, nhưng kết quả ra sao th́ không rơ.
Bị chôn sống:
Ngoài một số anh em lao động khai quang đó đây trên các đồng cỏ trong phi
trường Biên Ḥa bị trúng trái nổ, c̣n những tai nạn khác do đất bị sụp lở.
Trại phát động kế hoạch đào ao thả cá và đào giếng lấy nước. Anh em tù bảo
nhau, bọn cai tù có kế hoạch : tù tự đào hố chôn tù. Khi có biến, chúng
chỉ cần lùa tù xuống những cái hố đă đào sẵn, thả trái nổ hay xả súng bắn.
Sau đó lấp đất là hoàn tất các mồ chôn tập thể một cách gọn nhẹ. Không
biết ư kiến đó đúng hay không, nhưng chả cần chờ đợi ǵ lâu, trong khi đào
đất, một số anh em đă bị đất lở, chôn sống. Khi anh em moi lên được th́
chỉ c̣n là những cái xác tím bầm, mềm nhũn, không hồn. Cán bộ cho bắt loa
phóng thanh hát những bài ca cách mạng, khích động cái hào quang giả “Anh
Hùng Lao Động”. Đói không có ǵ ăn, khát không nước uống, một số anh hùng
vẫn tranh nhau mà chết. Cứ hai hay bốn người tù khiêng một cái cáng làm
bằng nứa hoặc tre đan lại để chuyển đất đá do các anh em khác đào xới. Cán
bộ th́ nói : “Có sức người, sỏi đá cũng thành cơm”. Nhưng cơm đâu th́ chả
thấy, v́ có chút cơm nào th́ cán bộ đă ăn hết rồi c̣n đâu đến lượt tù.
Sinh Nam Tử Bắc:
Khoảng cuối tháng 8 tù cải tạo phần lớn được chuyển ra ngoài miền Thượng
Du Bắc Việt để lưu đày. Chỉ trong ṿng 2 tháng đầu giam giữ, hàng trăm tù
cải tạo đă bỏ xác tại ngay quê hương miền Nam. Từ nay, trong cuộc lưu đày
biệt xứ, hàng ngh́n tù b́nh lần lượt bỏ ḿnh nơi xứ khách với đủ cảnh ngộ.
Đêm hôm đó, từng đoàn tù tay xách nách mang hành lư đi giữa 2 hàng vệ binh
cầm súng, cầm đuốc dẫn tù trực chỉ hướng Bến Tàu Tân Cảng.
Đó là những chiếc tàu nhỏ chật chội, hôi thối, dơ bẩn. Từng hàng tù binh
ṃ mẫm leo trên những chiếc cầu gỗ mong manh nhỏ hẹp để đi vào ḷng tàu
sâu thẳm, chỉ chừa một lỗ nhỏ độ một mét vuông lộ thiên. Dưới hầm tàu, anh
em chung sống ngột ngạt với phân và nước tiểu do chính anh em tiểu và đại
tiện ra một cái thùng. Mỗi ngày một lần, khi thùng đầy quá, tràn ra ngoài
sàn, anh em phải hô lên để xin cai tù kéo thùng lên nóc tàu đổ đi. Phân và
nước tiểu, nhất là của những anh em bị tiêu chảy, hôi thối vô cùng.
Nhờ ánh sáng trên trời dội qua lỗ hổng trên nóc tàu, anh em đoán chừng tàu
đă đi vào hướng nào và khoảng thời gian nào trong ngày hay đêm. Chúng tôi
biết ḿnh đang được chở ra ngoài Bắc, dọc theo bờ biển miền Trung. Trước
khi bước lên tàu, chúng tôi phải cúi rạp ḿnh xuống, ḅ nép trên chiếc cầu
ván ọp ẹp. Thỉnh thoảng có bạn tù chẳng may té xuống sông, bị nước xoáy
cuốn đi tức khắc. Chẳng biết giây phút đó, cha mẹ, vợ con, anh em của họ
có linh cảm ǵ khi thân nhân đang cố vùng vẫy trên sông nước. Phần chúng
tôi, không biết giờ này thân nhân có hay rằng chúng tôi đang nằm trong
bụng những khoang tàu đem đi lưu đày miền viễn xứ, nơi xứ lạ quê người ?
Chết v́ thiếu dưỡng khí:
Tàu đưa chúng tôi tới Đồng Hới th́ cập bến. Chúng tôi lên bờ, tiếp tục
cuộc hành tŕnh biệt xứ ra miền Bắc bằng xe lửa.
Có hàng trăm dân chúng đứng bên đường, sẵn sàng dàn chào tù binh bằng
những lời chửi rủa và gạch đá nắm sẵn trên tay. Họ muốn ăn tươi nuốt sống,
biểu dương lực lượng như đàn sói muốn vồ mồi. Cán bộ nói : “Các anh hiện
đang ở trên đất nước Xă Hội Chủ Nghĩa.”
Lần lượt chúng tôi được nhét vào những khoang tàu lửa bụi bặm, chật chội,
hôi thối dùng để chở than và súc vật. Chúng tôi ngồi lê lết dưới sàn tàu,
chặt như nêm cối. Goong tàu đóng kín không một kẽ hở khiến mọi người ngộp
thở, miệng ngáp như những con cá ở trên bờ. Tôi cố gắng ghé mũi vô kẽ hở
của cánh cửa goong tàu, t́m một chút khí để thở. Trời mùa hè miền Bắc nắng
như nung. Mồ hôi toát ra đẫm áo mà không có một chút nước thấm cổ họng.
Đây đó vài bạn tù ngất xỉu và tắt thở. Tiếng bàn tay đập lên thành toa xe
kêu cứu. Nhưng tiếng x́nh xịch của con tàu át cả tiếng la ḥ. Giữa đường,
xe ngừng để cán bộ kiểm điểm nhân số. Chúng tôi được dịp chạy ùa xuống
cánh đồng, ruộng lúa. Thật là sung sướng được thưởng thức những giọt khí
trời quư hóa, ngọt ngào, và những hớp nước giải khát. Bấy giờ là lúc trời
nhá nhem tối, không biết rằng đó là những đầm nước, những vũng nước trên
đầm, đầy những vi trúng sốt rét, kiết lỵ. Thậm chí nhung nhúc cả những con
đỉa đói đang tung tăng bơi lội. Bệnh và chết chóc sẽ tính sau, chỉ biết
bây giờ đang khát và khát... Những xác tù chết th́ được vùi dập đâu đó.
Chả biết sau này gia đ́nh thân nhân có t́m ra được không để mà hốt cốt ?
Tàu ngược miền Bắc Thượng Du Bắc Việt. Chúng tôi tới Yên Bái vào lúc hoàng
hôn. Ôi ! Hoàng hôn của cuộc đời...
Sơn lâm chướng khí & Ma thiêng nước độc:
Tù cải tạo được thả vào trong những khu rừng vắng. Mỗi người được giao cho
một con dao. Một nhóm vào trong rừng, vượt suối để chặt gỗ, tre, nứa chở
về trại để làm nhà, hoặc đi lấy củi. Tù lao động suốt ngày đêm, làm thêm
ngày Chủ Nhật. Kiếp trâu ngựa kể từ đây. Hoàn toàn thiếu đồ ăn thức uống
và thuốc men. Tất cả chỉ được hứa hăo. Thiên đường Cộng Sản là đây.
Cán bộ c̣n viết trong cầu tiêu : “Ngụy tù trong, ta tù ngoài” và dân chúng
quanh vùng hầu hết là dân sắc tộc, hoặc những dân đi kinh tế mới hồi 1954.
Họ sống nghèo nàn, khổ sở. Thân ḿnh gầy g̣ ốm yếu, áo quần rách rưới,
chân đi trần. Như thế th́ lấy đâu mà được lo cho đủ ăn đủ mặc được. Anh em
tù đói quá th́ mang hết chút ít quần áo lén đem đổi chác với dân chúng
trong vùng lấy chút thực phẩm ăn cho đỡ ḷng.
Đi lao động, gặp ǵ th́ nhét hết vô bao tử cho nó đỡ hành hạ. Có một lần,
đi ngang qua quăng đường thấy một cây khế chua đă chặt, tôi ngừng lại điểm
tâm một trái. Khế chua gặp bụng đói, bao tử cồn cào. Chịu không nổi, làm
thêm một trái nữa cho đỡ cồn ruột, trái lại, bụng lại càng xót xa hơn. Và
cứ thế, cái ṿng lẩn quẩn tái diễn... Cóc, nhái, rắn, rết, bọ cạp, cào
cào... Con ǵ nhúc nhích là ta chén liền. Xuống ao rửa tay, bắt được chú
cá con bỏ ngay vào bụng nhai sống. Tôi thèm có một chút đạm. Ai ngờ sau
mấy phút, bụng chuyển dạ, tào tháo đuổi ào ào. Bệnh kiết lỵ tiêu chảy làm
cho con người mệt lả. Gió thổi cũng ngă. Nhu cầu bao tử làm cho trí óc mê
muội. Ao tù, cả ngàn con người ngày nào cũng tắm giặt, thậm chí đem cả
những thùng phân nước tiểu, sau khi tưới cây rau, đem xuống rửa. Trách ǵ
mà bỏ cá vào miệng nhai ngấu nghiến mà không bị bệnh đường ruột cho được.
Không thiếu ǵ anh em tù bị ngộ độc chết khi đi rừng và kiếm được những
củ, trái cây. Nhẹ nhất th́ cũng ngất ngư con tàu đi như ăn những củ sùi,
sắn c̣n sót lại trên đồi. Cán bộ không cho nấu nướng, tù chỉ lột vỏ, đưa
xuống suối rửa hay lấy vạt áo chùi đất cát xong ăn liền. Trại phát mỗi bữa
một chén bo bo, vỏ dai cứng như chất Nylon, ăn vào bao nhiêu ra hết bấy
nhiêu. Như thế sao không kiệt sức cho được.
Càng là những thân thể to lớn như lực sĩ, vơ tướng càng dễ chết. Hai anh
bạn tù nằm cạnh tôi đều đột ngột ra đi.
Trước hết là anh Nguyễn Văn Hai, tục gọi là Hai Cua-rơ v́ anh là cựu tay
đua xe đạp Quốc gia. Tướng tá anh Hai to lớn. Sáng sớm hôm đó, tù được tập
trung lên Hội Trường để được học tập và nghe đọc tên chuyển trại lên Văn
Bàn Hoàng Liên Sơn, một địa danh của địa đầu giới tuyến biên giới
Lào-Trung Cộng-Việt. Lúc tới Hội Trường, anh c̣n khỏe mạnh. Nửa giờ sau
khi về láng trại anh đă mê man bất tỉnh. Khi được cáng đi Bệnh xá, nửa
đường anh Hai đă tắt thở. Lư do v́ đói và lạnh quá, anh không chịu nổi.
Chỗ anh nằm bên tay trái tôi. Người ta đem xác anh vùi dập ở chân núi đầy
cỏ rậm. Mưa rừng, chẳng bao lâu sẽ làm cỏ mọc, cây cối um tùm. Và anh vĩnh
viễn bỏ xác nơi rừng thiêng miền Bắc.
Người khác là anh Lê Trí Hồ. Lúc trước anh là Đại úy Cảnh Sát Tư Pháp Bộ
Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia Saigon. Anh nằm bên tay mặt tôi ở trại Văn Bàn.
Anh bị kiết lỵ cả tuần. Sáng anh c̣n cố đưa quần áo ra suối giặt giũ. Xế
trưa, khi chúng tôi đan liếp tre nứa cạnh nhà th́ anh đă âm thầm yên lặng
ra đi. Đầu giường của anh c̣n để nguyên chén cháo. Anh đă kiệt sức quá
rồi. Một tuần sau, có 2 gói quà của gia đ́nh anh gởi tới trại với đủ loại
thuốc tây. Nhà anh có 2 tiệm thuốc tây ở Saigon. Tối đó, đội tôi phải đốt
đuốc đưa anh vào rừng sâu, đào hố chôn anh. Khi trở về tới trại th́ đêm đă
khuya. Không biết sau này, khi Trung Cộng đánh tràn qua biên giới, không
biết có ai c̣n nhớ được chỗ chôn anh nữa không ? Chứng kiến những cái chết
cô lạnh của các bạn tù, tôi chẳng trông mong ǵ có ngày được thả ? Đêm
ngày tôi chỉ thầm mong và cầu nguyện sao cho được để xác lại miền Nam, th́
cũng là may mắn, hạnh phúc lắm rồi.
Lao Động là chết:
Con số tù trong các trại cải tạo chết càng ngày càng nhiều. Ban đêm những
tiếng cú rúc tiễn đưa những linh hồn vĩnh biệt trần gian.
Có những anh em khi leo trên vách núi, trượt chân té xuống vực sâu và suối
nước. Nước cuốn xác đi bị mất xác luôn. Trời mưa dầm dề, đường đất lầy lội
như mỡ trơn. Cây chặt rồi, anh em phải chuyển về trại. Có cây to và nặng
quá, cả chục anh em phải ghé vai vào hè nhau vác về trại. Chẳng may, một
người té ngă th́ cả toán đều té và bị cây đè, cổ bị gẫy, bể đầu và gẫy
tay, chân, xương sống. Có khi phải chuyển cây từ núi xuống suối và chuyển
qua suối lên bờ, đưa về trại. Anh em phải cột dây rừng vào đ̣n gánh,
khiêng đi như khiêng những cái cột đ́nh. Một hôm, anh em đẵn cây xong. Đến
giờ trưa nghỉ tay ăn cơm trưa. Một bạn tù ngồi dưới chân núi dở bọc cơm ra
ăn trưa. Các bạn khác kéo một thân cây lớn, đẩy xuống triền núi theo vết
ṃn của bờ dốc. Thân cây đổ dốc xuống chân núi kêu rền rĩ, ầm ầm như tiếng
xe tăng hoặc tiếng súng thần công, vang vọng cả một vùng. Anh bạn ngồi ăn
trưa dưới chân núi, bị cây đâm thẳng vào người không kịp né tránh, thân
thể bầm nát, chết không kịp la lên một tiếng.
Cái chết ŕnh rập mọi nơi, có khi tấn công cả một đội nông nghiệp khoảng
100 người. Tất cả lội xuống nước ngập cỏ dại để khai quang. Nào đỉa, nào
muỗi, nào bọ vàng, bọ chét tấn công. Hầu hết anh em bị sốt rét, sốt vàng
da. Ở tù cải tạo th́ lấy đâu mà chữa lành. Cuối cùng th́ mặt bủng, da
vàng, bụng chướng lên mà chết. Ở Văn Bàn có câu : “Ruồi vàng, bọ chó, gió
Than Uyển”. Ruồi vàng tấn công nhanh như cắt. Khi bị chúng chích vào da
th́ sưng lên và nước vàng cứ tiếp tục chảy ra không cầm lại được. Có bạn
tù vào rừng bị ong đốt sưng hết cả mặt, ngất xỉu. Đi dọc đường, qua những
tàng cây, những con vắt tinh khôn phục kích sẵn trên cành, thấy có người
qua liền phóng xuống hút máu. Nếu bắt nó mà vứt đi xa, nó sẽ đánh hơi nóng
thân nhiệt và di chuyển về phía người trở lại. Có lần, tối về trại ngủ,
con vắt hút đầy máu mới nhả ra và lăn ra lớp trải giường. Thường th́ chúng
tôi dùng vài bao cát bằng nylon cắt ra và mang lại thành những quần lót
hoặc tấm trải giường. Vải bao cát có cái lợi là dễ giặt và dai, khó rách.
Tuy nhiên, nếu dùng làm ba lô th́ mấy chú chuột với bộ răng nhọn hoắt cũng
không tha. Chiều đi lao động về, tù đem ra khâu lại. Tối đến chuột lại
chui rúc vào cắn nát. Khổ nhất là chúng chui rúc dưới thùng cầu tiêu, ḿnh
trây trét đầy phân và nước tiểu. Khi chúng ḅ vào túi quần áo lại trây
trét hết vào quần áo, vật dụng cá nhân và chăn màn. Ngoài ra th́ rệp,
gián, kiến, chúng hợp đồng phá hoại khủng bố tù không ngớt. Thân tù chỉ
c̣n có da bọc xương nhưng chúng cũng chiếu cố tối đa. Có lẽ da thịt tù hấp
dẫn lắm sao? Rệp, chí tăng dân số rất mau, dở gối mền lên th́ lúc nhúc như
đậu đen. Mọi thứ được tập trung để hành hạ bọn tù. Tù với tù cũng hành hạ
nhau. Ngày bị áp đảo lao động. Tối đến c̣n phải học tập và tố khổ với nhau
tới khuya. Thật là Trời không dung Đất không tha. Mọi người, mọi nơi, mọi
lúc. Con người muốn điên lên được.
Thỉnh thoảng có người nhà đi thăm tù. Đi cả ngàn cây số khổ cực, vượt đồi
vượt núi, sông suối, nhưng Ngưu Lang - Chức Nữ chỉ được gặp nhau có 5
phút. Mới hỏi được câu “Ở nhà có khỏe không ?” th́ đă được Cán bộ ra lệnh
vào trại. Vợ chồng ngậm ngùi lưu luyến chia tay. Có cặp th́ bà vợ c̣n đem
theo chồng mới lên thăm chồng cũ, yêu cầu kư giấy ly hôn. Một anh bạn mới
đưa đồ thăm nuôi vào trại, chưa kịp coi xem có những ǵ th́ đă ngă lăn ra
chết v́ kiệt sức. Khi được người nhắn tin, vợ anh quay trở lại th́ chồng
đă nằm sâu trong mộ phần. Tội nghiệp chị khóc vật vă, cắt mớ tóc để lại
trên mộ như muốn gửi cả cuộc đời, thân xác được theo chồng vào ḷng đất.
Chị chỉ c̣n biết để lại một mộ bia :
Hiền thê lập mộ”.
Cũng có những trường hợp, trên đường ra Bắc thăm chồng, cha, lúc đi hoặc
trên đường về, hoặc vợ hoặc con ngả bệnh và để xác ở dọc đường. Thật là
trăm nỗi truân chuyên.
Chết nơi rừng lá:
Càng ngày, áp lực Trung Cộng đánh sâu qua biên giới càng mạnh. Tù cải tạo
được lệnh rút dần về Trung Châu - Bắc Việt và sau cùng là rút về miền Nam.
Trước đó vào ngày, tôi nằm mơ thấy các bạn tù đội mồ đứng dậy đuổi tôi về
đến tận thành phố mới thôi. Chúng tôi được báo cho biết : “Các anh sẽ về
trại Thủ Đức Z - 30D Xuân Lộc”. Người chót nằm xuống tại Trại 11B Yên Bái
- Hoàng Liên Sơn có lẽ là linh mục ḍng Đa Minh, Linh Mục Bản. Cha bị bệnh
tiêu chảy kiết lỵ. Vĩnh biệt Cha, người thầy cũ lớp Trung Học Đệ Nhị ở
Vũng Tàu.
Trên đường trở lại miền Nam, đồng bào nô nức đón mừng tiếp tế đồ ăn thức
uống và hô to : “Hăy trả lại chồng cha chúng tôi !” Bộ đội phải nổ súng
giải tán dân chúng tụ tập ngày một đông. Anh em tù ghi vội mấy hàng chữ
vào những mảnh giấy, quẳng ra ngoài khoang xe lửa, báo tin cho gia đ́nh...
Chúng tôi lại tiếp tục cuộc đời tù cải tạo tại Rừng Lá, Thuận Hải. Trại có
kế hoạch xây đập, ngăn nước suối. Chúng tôi phải tải đá xanh, đất, xi măng
y hệt như cảnh nô lệ thời cổ La Mă. Đập đá xây xong rồi, nước dâng lên.
Sau những trận mưa rừng, nước cuồn cuộn xô đẩy xuống chân đập.
Ở Z 30 D, nam tù b́nh được nhốt cạnh trại nữ tù b́nh. Đó là những sơ Công
Giáo, Ni cô Phật Giáo, người vượt biên bị bắt trở lại, Học sinh, Sinh viên
trong các tổ chức chống đối. Nam tù cải tạo đă khổ, nhưng đời sống nữ tù
có lẽ c̣n phức tạp, khổ cực hơn. Nên có những trường hợp, các bà, các cô
như bị mất trí, cởi tung hết quần áo, chạy tới chạy lui. V́ trại giam cạnh
nhau nên đôi khi cũng có những mối t́nh thầm lén trao đổi giữa hai trại.
Sau khi ra khỏi trại, họ thành vợ thành chồng.
Trại cũng gồm cả thành phần tư bản địa chủ. Một buổi đi lao động về, anh
em xuống đập nước tắm. Một ông người Hoa thuộc loại “x́ thẩu” Chợ Lớn,
không biết tính toán độ nước chảy. Ông bơi giỏi, thả trôi từ bên này sang
bên kia sang bên đập nước, cách cửa đập khá xa. Nhưng ông đă tính toán lầm
: nước chảy xiết quá, sức ông không đủ để chống lại sức nước nên bị cuốn
theo những ngọn thác đổ từ bờ xuống bên kia chân đập. Trại cho người ṃ
mẫm măi mới t́m được xác ông trôi dạt, kẹt vào gốc cây bên bờ suối. Chiều
hôm đó, gia đ́nh ông ở Chợ Lớn lên trại lănh xác ông về Saigon.
Cái chết cuối cùng:
Anh thuộc cơ quan Cảnh Sát Đặc Biệt (thuộc Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia
Saigon). Trẻ trung, đẹp trai, hiền lành nhưng số phận hẩm hiu. Cha mẹ mất
sớm, anh phải đi làm rất sớm để nuôi bầy em dại đi học. Anh đâu biết là đi
cải tạo là vĩnh biệt đàn em nhỏ.
Anh được giao cho làm công tác diện rộng, nghĩa là tương đối tự do đi làm
đây đó gần trại mà không cần sự giám sát chặt chẽ của vệ binh. Anh không
có vợ v́ rất thương và lo cho các em. Anh hy sinh cả cuộc đời cho đám em
nhỏ. Dáng dấp anh luôn luôn trầm ngâm tư lự.
Một hôm anh vô rừng lấy củi, đem theo một cái thùng múc nước và cuộn dây
thừng. Xế chiều rồi mà không thấy anh về Trại, các vệ binh, bộ đội được
huy động đi t́m kiếm. Mọi người đều nghĩ rằng anh đă trốn trại. Không biết
giờ này anh ở đâu... Mọi sự t́m kiếm đều vô hiệu. Tôi thầm cầu nguyện và
hy vọng mong cho anh được an toàn và thoát hiểm. Ngày hôm sau, có người
phát giác ra anh treo cổ trên cây ở b́a rừng. Nội tạng, ruột gan bị loài
chim rút rỉa hết.
Tội nghiệp, chắc là anh tuyệt vọng v́ nghĩ rằng : thuộc ngành Cảnh Sát Đặc
Biệt như anh th́ tù măn đời. Cuộc đời kể như hết rồi. Cho đến khi ấy th́
rất hiếm có người nào được thả. Nếu anh chậm quyết định kết liễu đời ḿnh
vài tháng nữa th́ có lẽ không đến nỗi v́ ít tháng sau có tin đồn : Chính
phủ Mỹ sẽ tiếp nhận tù cải tạo từ trong trại và liên tiếp một số đông tù
cải tạo được cho về với gia đ́nh. Do đó, có một số anh em, khi được đọc
tên cho về lại cảm thấy không mấy hài ḷng v́ sợ sẽ không được Mỹ chiếu
cố.
Phần tôi, là người theo tín ngưỡng Công Giáo, tôi vẫn nghĩ rằng : Linh hồn
anh (Anh tên ǵ, tôi không c̣n nhớ được, mong rằng sẽ có các bạn khác bổ
túc), một người anh tuyệt đối hy sinh v́ hạnh phúc của đàn em nhỏ, sẽ được
Thiên Chúa nhân lành cho về chốn nghỉ ngơi. Tôi cũng luôn nhớ đến và cầu
nguyện cho linh hồn anh mỗi kỳ lễ “Tháng Các Linh Hồn”.
Trước khi chấm dứt, tôi xin dành một phút nhớ tới và cầu nguyện cho hương
hồn các bạn tù từ Bắc tới Nam được mỉm cười nơi chín suối. Như 1 nén hương
dâng lên các anh, các chị, các cháu ít nhiều liên quan đến “Người Tù Cải
Tạo”. Cầu cho các Anh, Chị, Các cháu được tiêu diêu nơi miền cực lạc. Và
cũng xin phù trợ cho gia đ́nh chúng tôi, đất nước chúng ta c̣n trải qua
bao đau khổ Trần Thế. Xin cảm ơn nhưng đóng góp phù hợp của các anh chị và
các cháu.
Y Vũ
|