Thời Thế, Thiện, Ác, và... Con Người


Vương Mộng Long - K20

 

 

 


Một ngày cuối tháng Ba năm 1970 Thượng Sĩ Woodell ghé Cư Xá Trần Quí Cáp- Pleiku đón tôi vào Bệnh Viện 71 Dă-Chiến Hoa-Kỳ để ghi tên xin khám bệnh. Hôm sau, tôi chính thức nhập viện để được giải phẫu một vết thương.      

 

Đúng lư ra, hôm đó, tôi phải lên đường về tŕnh diện Tổng Y Viện Cộng-Ḥa theo quyết định của Bác Sĩ Trung, Giám-Đốc Quân Y Viện Pleiku. Chỉ v́ sáu tháng trước đây, vết thương trên vai trái của tôi đă được mổ một lần. Lần đó bác sĩ chỉ lấy ra được hai mảnh đạn nhỏ, c̣n mảnh đạn lớn v́ ở quá sâu lại dính với xương vai, nên tôi được xuất viện về đơn vị, chờ ít lâu, sẽ di chuyển xuống vùng sườn trái, khiến cả một vùng cơ bắp sưng tấy, và đang làm độc. Ban Giám Đốc Quân Y Viện Pleiku đă làm thủ tục chuyển tôi về Tổng Y Viện Cộng-Ḥa v́ nơi đây có nhiều phương tiện chữa trị hơn. Tôi về đơn vị tŕnh bày việc này cho trung tá liên đoàn trưởng, lúc đó cũng có mặt ông trung tá cố vấn trưởng liên đoàn. Ông trung tá Hoa-Kỳ nêu ư kiến, giới thiệu tôi vào Bệnh Viện 71 Dă-Chiến Hoa-Kỳ trước, nếu chữa không xong, họ sẽ chuyển tôi ra Hạm Đội 7.

 

Bệnh viện 71 Dă Chiến nằm trong một thung lũng, bên cạnh con đường nhựa nối liền phi trường Cù-Hanh và Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn II. Bệnh viện này là nơi tiếp nhận thương binh Mỹ từ các chiến trường Cao-Nguyên Vùng 2 chuyển về. Từ đây thương binh được cấp cứu, điều trị sơ khởi, sau đó tuỳ theo t́nh trạng nặng nhẹ, họ sẽ được chuyển về Sài-G̣n hay chuyển ra Hạm Đội 7.

 

Thay quần áo xong, tôi được đưa vào pḥng Quang Tuyến X rồi chuyển sang pḥng chẩn bệnh.Nơi đây đă có mặt một nữ y sĩ trung tá già da đen. Bà y sĩ trung tá này chính là trưởng khoa giải phẫu của Bệnh Viện 71 Dă-Chiến. H́nh dáng của bà ta thật là cao lớn và thô kệch, nhưng giọng nói của bà lại vô cùng ấm áp dịu dàng. Rất từ tốn, bà tự tay đo, và ghi trên hồ sơ, nhịp tim, mạch của tôi. Rồi bà bước ra cửa, nói nhỏ với cô điều dưỡng vài lời. Một   phút sau ông đại úy bác sĩ phụ trách ca mổ của tôi có mặt. Ông y sĩ đại úy này da trắng, cũng hơi lớn tuổi, và mang kiếng trắng. Hai vị thày thuốc luân phiên quan sát hai tấm h́nh X Ray, rồi sờ nắn vùng đang sưng tấy bên nách tôi. Khi ngón tay của họ nắn bóp trên chỗ sưng, tôi cảm như nơi đó là một quả xoài đă chín nhũn, chứ chẳng thấy đau đớn ǵ cả. Công việc chẩn bệnh chấm dứt, tôi ngồi chờ người dẫn sang pḥng mổ.

 

Chợt ngoài băi đáp có tiếng động cơ của trực thăng tản thương. Hai điều dưỡng viên chạy ra khiêng chiếc cáng, trên đó là một thương binh băng kín nửa người phần dưới. Theo sau chiếc cáng là một sĩ quan Mỹ và một sĩ quan Việt-Nam. Người sĩ quan Việt-Nam đó là Đại-Úy Phạm Văn Tư Khóa 19 Vơ Bị, tôi quen biết. Anh Tư là dân T́nh-Báo, đang tăng phái ngắn ngày cho ban thẩm vấn đặc biệt của Mỹ tại Hàm-Rồng. Thấy bệnh nhân là một người Việt-Nam, nên tôi thắc mắc hỏi anh Tư:  

 

- Ủa! Sao Niên Trưởng không đưa người của Niên Trưởng vào Quân Y Viện Pleiku mà lại đưa vào đây?         

- Có phải người của “moa” đâu? Việt-Cộng đó!           

- Việt-Cộng à?          

- Thằng Việt-Cộng này vướng Claymore ngoài rào trại Dak-Séang. Mỹ bắt được, đem về Camp Enari, giao cho Pḥng 2 Sư Đoàn 4 (Hoa-Kỳ )        

- Từ Camp Enari về đây có vài ba cây số sao không dùng xe mà phải xử dụng tới trực thăng?         

- “Moa” thấy đùi của anh ta bị quấn “garô” sưng to quá, sợ xảy ra nội xuất huyết th́ chết, nên đề nghị với Mỹ lấy máy bay của sư đoàn, đưa anh ta về đây.

 

Nh́n mặt người nằm trên cáng, tôi đoán chừng hắn cũng cỡ tuổi của tôi và anh Tư thôi.

          

- Hắn thuộc đơn vị nào vậy?          

- Tụi “moa” vừa kư nhận đă phải đưa tới đây ngay. Chưa hỏi được câu nào.          

- Bộ anh ta đi đánh nhau không mang theo giấy tờ ǵ sao?          

- Có chứ! Nhưng tài liệu ḿnh c̣n để trên bàn. Việc cứu người là trọng, phải lo trước. Chiều nay ḿnh sẽ nghiên cứu tài liệu cũng chưa muộn.          

- Ừ nhỉ! Dù ǵ th́ hắn ta cũng là người Việt-Nam, chỉ không cùng chiến tuyến với chúng ḿnh.          

- “Toa” biết không? Trên đường đi, hắn cứ luôn mồm gọi “Xuân ơi! Xuân ơi!” Chắc hắn yêu thương người mang tên Xuân này lắm . 

 

Tôi gật đầu, tán đồng,          

- Dù là Quốc-Gia hay Cộng-Sản, th́ con người nào cũng có một trái tim, biết yêu thương, và biết giận hờn.          

 

Một năm trước đây, trong trận Dak-Tô (5/1969), tôi đă trải qua t́nh cảnh tương tự như người cán binh Cộng-Sản này. Ngày đó, vào giờ phút tuyệt vọng nhất, trái tim tôi chỉ c̣n h́nh bóng người mà tôi yêu thương nhất. Tôi đă gọi tên người này nhiều lần trước khi bị ngất đi.

 

Tên tù binh được chuyển vào pḥng X Ray rồi sang pḥng chẩn bệnh. Hai Quân-Cảnh Hoa-Kỳ được gửi tới canh gác trước pḥng chẩn bệnh. Đại Úy Tư bắt tay tôi, rồi cùng viên sĩ quan Mỹ rời bệnh viện.

          

Khi tôi và tên tù binh được đẩy vào pḥng giải phẫu th́ trên bàn mổ đang diễn ra một ca phẫu thuật khá ồn ào. Một nam bác sĩ cùng hai nữ y tá cố gắng và kiên nhẫn lắm mới lấy được cái đầu đạn đồng A.K 47 ra khỏi đùi trên của một anh lính Hoa-Kỳ. Anh lính này da trắng, c̣n rất trẻ, tuổi chừng mười chín hai mươi là cùng. Anh chàng bị cột chặt nửa người dưới và hai chân xuống bàn mổ, để tránh dăy dụa, gây trở ngại cho bác sĩ.

 

Chắc việc mổ xẻ làm cho người trẻ tuổi đau đớn lắm, nên anh ta không ngớt khóc lóc, kêu la. Ông bác sĩ và hai cô y tá cứ phải luôn miệng, dỗ dành, an ủi anh. Trước cảnh này tôi cũng thấy tội nghiệp. Mỗi khi hoàn tất một pha mổ, toán phục dịch vệ sinh lại nhanh tay thay cái khăn bàn mới, rồi đẩy vào pḥng một khay đựng dụng cụ giải phẫu khác đă tẩy trùng. Ca mổ của anh lính Hoa-Kỳ chấm dứt th́ tới phiên anh tù binh Cộng-Sản.  Mỗi bên đùi của tên tù binh này bị hai viên ch́ Claymore ghim sâu tới xương. Bác sĩ phải đánh thuốc tê từng chân, mổ lấy đạn ch́ từ từng vết thương một. Do đó, thời gian hoàn thành công việc này khá dài.

   

Nh́n những giọt mồ hôi chảy thành ḍng trên má hắn, tôi nghĩ hắn đang nén cơn đau.  Trong suốt nửa giờ đồng hồ, hắn chỉ rên nho nhỏ trong miệng, trừ hai lần bác sĩ gắp đạn ra khỏi đùi phải th́ y chịu không nổi, buột miệng hét lên:          

 

“ Ối! Ối! Đau! Đau quá!... Ư!... Ư!... ư… ư…”

          

Với ca mổ này, cô điều dưỡng da trắng cũng tận t́nh săn sóc tên Việt-Cộng, không khác ǵ đă làm đối với anh lính Mỹ trong ca mổ trước. Cô dịu dàng lau đi những giọt mồ hôi trên mặt người tù. Dù biết rằng người được chăm sóc không hiểu cô nói ǵ, nhưng cô cứ dỗ dành:      

 

“Don't worry! Don't worry! You will be Okay!”

 

Qua cử chỉ dịu dàng và giọng nói êm như ru của cô, không ai dám nghi ngờ rằng cô đang đóng kịch. Bốn viên ch́ đă được lấy ra rồi. Vết thương cũng được may vá và băng bó xong. Y tá chuyển người tù sang chiếc xe lăn, cạnh chiếc xe lăn của anh lính Mỹ.

 

Là bệnh nhân cuối cùng, tôi leo lên bàn mổ mà nửa người bên trái nặng như đeo ch́. Tôi bị cởi trần, nằm hơi nghiêng về bên trái. Cô y tá vừa lau sạch đám bọt oxygen trên vùng sườn trái của tôi, th́ ông bác sĩ bắt đầu dùng mười đầu ngón tay ấn nhè nhẹ quanh quanh, thăm ḍ. Rồi thật từ từ, ông dùng iode vàng xoa trên vùng đang mưng mủ, rộng dần ra thành một bề mặt cỡ ḷng bàn tay. Ông y sĩ đại úy chích cho tôi ba mũi thuốc tê, rồi huyên thuyên cùng tôi đôi chuyện nắng mưa. Vài phút sau, ông mới bắt đầu ra tay.  Dưới tay ông, lưỡi dao sắc như nước, nhanh như chớp, cắt ngọt hai nhát chéo chữ “X” xuyên da, thịt, chạm tới xương sườn của tôi.  Sau đó, cứ thủng thỉnh, ông xẻ dọc, rồi xẻ ngang, như người ta đang băm một cái bánh mềm. Tới khi thịt da trên cái diện tích cỡ ḷng bàn tay đó bị bấy ra rồi, ông bác sĩ mới dùng một lưỡi dao cong như lưỡi hái, mạnh tay cạo từng lọn thịt bầm màu xanh lẫn với máu mủ, cho rơi xuống một cái thau nhôm do cô y tá hứng.V́ nằm nghiêng về bên trái, tôi thấy cái thau nhôm chứa lổn nhổn những cục thịt pha máu đỏ, mủ xanh, mủ vàng, tanh hôi vô cùng.

          

Tôi chợt nghĩ, nếu như tôi cứ cứ ỷ y, không chịu nhập viện, chắc chỉ sau một thời gian ngắn nữa thôi, cả vùng sườn bên trái của tôi sẽ thối rữa thành mạch lươn, hết phương cứu chữa.Khi lưỡi dao đục khoét lớp da thịt bên ngoài, tôi chưa thấy đau đớn chút nào, tới lúc lưỡi dao cạo trên xương nghe, “Két! Két! Cột! Cột!” th́ điếng người. Ngay cả khi ở ngoài mặt trận, bị mảnh đạn ghim vào, tôi cũng không thấy đau như thế này. Toàn thân tôi run lên bần bật như đang cơn sốt rét. Tôi bật người lên, oằn người xuống, đồng bộ với những nhát dao đang cào, nạo xương sườn của tôi. Tôi cắn chặt hai hàm răng vào nhau. H́nh như môi dưới của tôi bị răng tôi cắn chảy máu mất rồi? Mồ hôi trên mặt tôi chảy như tắm, rớt ṛng ṛng trên tấm nhựa trắng trải bàn mổ. Tôi nghĩ, lúc đó có lẽ mặt tôi đă xám xịt như chàm?  Nhưng tôi vẫn c̣n tỉnh táo lắm. Tôi biết, lúc này, có hai người đồng cảnh ngộ, một bạn, một địch, đang chăm chú theo dơi, đánh giá sức chịu đựng của một người lính Việt-Nam Cộng-Ḥa. Một giọt nước mắt, một tiếng kêu la của tôi sẽ nằm trong trí nhớ của họ suốt đời.

 

Tôi nhắm mắt, nghĩ tới cảnh những thương binh Việt-Nam Cộng-Ḥa khác đă từng lên bàn mổ, bị cưa chân, cưa tay, chắc họ phải chịu đau đớn vạn lần hơn tôi. Tôi tự an ủi rằng, ḿnh c̣n may mắn hơn những người này rất nhiều...         

 

Rồi tôi hồi tưởng lại truyện Tam Quốc Chí đọc ngày c̣n bé, với huyền thoại Tướng Quân Quan Vân Trường cứ ung dung ngồi uống rượu, ngâm thơ không màng tới việc Hoa Đà đang xẻ thịt, cạo xương ông để rút mũi tên tẩm thuốc độc đang ghim trên vai ông ta ra. Ngày xưa làm ǵ có thuốc tê, thuốc mê? Vậy mà Quan Công không hé chút đau đớn nào, th́ ông quả là người có sức chịu đựng phi thường. Càng nghĩ, tôi càng phục vị anh hùng thời Tam Quốc này quá!

 

Bỗng nhiên bác sĩ ngừng tay dao, đưa tay chụp cái ḱm. Ông ngoáy mũi ḱm vào cạnh sườn tôi, kẹp chặt một vật, rồi giựt mạnh! Theo phản xạ, tôi vội oằn ḿnh, ưỡn người lên, nương theo hướng lôi kéo của mũi ḱm.          

 

“Bục!”   thân ḿnh tôi như bị móc lên cao, rồi rơi xuống mặt bàn. Tôi có cảm giác như vừa bị ông bác sĩ giựt đứt một phần thân thể. Đau thấu xương, đau tới ù tai, hoa mắt luôn! Quá sức chịu đựng, tôi xón đái ra quần mà không hay!

 

“Here it is!”

 

Ông bác sĩ vừa cười, vừa giơ cái mũi ḱm cho tôi thấy một cục thịt to bằng đầu ngón tay cái, máu đỏ bầy nhầy. Đó là cái mảnh 82 ly vừa bị gắp ra từ khe hở giữa hai cái sương sườn. Thả cục đạn xuống cái khay trên bàn, ông bác sĩ lại tiếp tục cào nạo. Tay chân tôi bủn rủn không c̣n hơi sức. Tôi mệt lả người, nằm im như cái xác. Hồi lâu sau, ông bác sĩ ngừng tay, hất hàm ra dấu cho cô điều dưỡng đứng chờ bên tủ thuốc. Hiểu ư, cô điều dưỡng bưng ra, đặt trên bàn một hộp nhựa chứa hai cái lọ. Bác sĩ nhanh tay lau sạch máu trên vết mổ, rồi mở nắp cái lọ, rút ra một sợi bấc tẩm thuốc bột trụ sinh màu vàng như nghệ.          

 

Với cái kẹp inox, ông khéo léo nhét hết hai lọ băng bấc đèn màu nghệ vào đầy vết mổ. Xong xuôi, cô y tá dán miệng vết thương bằng một tấm băng hai lớp chứa bông g̣n ở giữa, rộng bằng bàn tay. Bên ngoài miếng băng này, cô c̣n quấn thêm một lớp băng cứu thương quanh ngực tôi để cho tôi bớt đau. Ông bác sĩ và hai cô y tá đều mang băng che miệng, tôi không thấy miệng họ cười, mà chỉ thấy mắt họ cười, khi ca mổ vừa hoàn tất.

 

Những ǵ xảy ra trong pḥng giải phẫu buổi trưa hôm đó đă cho tôi thấy cái ư nghĩa cao quư của ngành y. Dưới mắt của người thầy thuốc, việc cứu người là mục đích tối thượng. Mạng sống của mỗi con người đều quan trọng như nhau: Dù người đó là bạn hay thù, là da trắng hay da màu, là Cộng-Sản hay Quốc-Gia.  

       

Cô điều dưỡng vừa đẩy cái khay dụng cụ đi khuất th́ bà y sĩ trung tá trưởng khoa bước vào. Bà nói đôi lời với ông bác sĩ, rồi cúi xuống bế tôi gọn trên đôi cánh tay to lớn của bà. Giọng nói của bà bên tai tôi, dịu dàng như giọng của một hiền mẫu:  “Oh! My baby! My baby! You will be Okay! My baby...”

     

Anh lính Mỹ và tên cán binh Việt-Cộng cũng sững người, trố mắt. Bà bác sĩ bế tôi đi trước, hai cái xe lăn của anh lính Mỹ và tên cán binh Cộng-Sản được y tá đẩy theo sau.

          

Ra tới pḥng hồi lực, bà đặt tôi xuống giường rồi lẳng lặng đi ra. Lúc sau bà quay lại, trên tay có gói Salem và cái kẹp diêm cây. Bà để gói thuốc lá và diêm quẹt trên đầu giường tôi, rồi dơ ngón tay trỏ điểm điểm một ṿng, ngụ ư món quà này dành cho cả ba người. Giường tôi nằm ở giữa, bên trái là anh bạn Đồng-Minh, bên phải là tên cán binh Cộng-Sản. Chỉ có đầu giường tôi bị treo lủng lẳng dây nhợ chuyền nước biển pha thuốc trụ sinh. C̣n giường hai bên không bị vướng vít ǵ, v́ họ đă được chích Penicillin rồi.

         

Tôi đốt một điếu Salem đưa cho anh lính Mỹ. Anh ta lắc đầu, nhỏ nhẹ:   

 

- Thank you!

 

Tôi đưa điếu thuốc lên môi, kéo một hơi dài, nhả khói.   Tôi trao bao thuốc cho tên Việt-Cộng,

 

- Này hút đi! Salem đầu lọc nhẹ lắm!         

- Không thèm! nh́n tôi với ánh mắt lừ lừ, gờm gờm, hắn ta gằn giọng. Tôi tỉnh như ruồi,          

- Không hút th́ thôi! Tớ hút một ḿnh.          

- Thuốc của đế quốc, không thèm hút!          

- Thông cảm đi! Ở đây không có thuốc lào. Chỉ có thuốc thơm đế quốc thôi. Không hút th́ nằm đó mà ngửi khói. 

 

Tới chiều, chúng tôi được cung cấp mỗi người một khay thức ăn, gồm một bánh ḿ kẹp thịt ḅ, một hộp sữa tươi, và một chùm nho. Tôi và chú GI ăn uống rất ư là tự nhiên, c̣n tên cán binh Bắc-Việt th́ nằm quay mặt vào tường không thèm chạm tới cái khay.

 

Trước khi quay gót đem theo cái khay của tôi, cô điều dưỡng nh́n tên bộ đội một lúc, rồi dịu giọng,          

- Take it! It's good for you!          

Tôi chêm thêm,          

- Ăn đi chứ! Không ăn th́ chết đói! Muốn ǵ th́ cũng phải sống trước đă! Ăn đi!          

Cô y tá nh́n tôi, đồng t́nh,         

- May you tell him to take it?          

Tôi nghiêm mặt, hù cho anh cán binh sợ thêm.          

- Thôi ăn đi! Anh không ăn, cô ấy dẹp mất th́ đói đấy! 

 

Anh chàng h́nh như cũng đói lắm rồi? Sau một phút ngập ngừng, chàng đưa tay cầm kẹp bánh ḿ, rồi vội quay mặt vào tường.

          

Buổi tối, trời trở lạnh, anh lính Mỹ nổi cơn, la hét, chửi bới om x̣m. Cô y tá trực phải tới ngồi ở cuối giường, an ủi dỗ dành, rồi đọc truyện cho anh ta nghe. Tôi mồi một điếu Salem, đưa cho tên Việt-Cộng,  

 

- Hút đi! Không nguy hiểm tới tính mạng đâu mà sợ.      

Lần này th́ hắn ta không từ chối nữa.          

- Ừ! Có thế chứ! Này! V́ sao bị thương và bị “tó” vậy? tôi bắt đầu gạ gẫm.          

- Đang điều nghiên mục tiêu th́ bị vướng ḿn.          

- E mấy?          

- Hăm Tám (28) 

        

Tôi đă biết E 28 là tên của Trung Đoàn 28 Mặt Trận B3 Cộng-Sản Bắc-Việt, nên khai thác tiếp,          

- Năm ngoái tớ có đụng E 28 ở Dak-Tô. Trận đó E 28 chết gần hết, cậu c̣n sống sót là may lắm đó         

- Mới bổ sung về E 28 hai tháng thôi.          

- Cấp chức ǵ?          

- Trung úy Đặc-Công.         

- Quê ở đâu?          

- Hải ... Rương          

- Làng nào?          

- Hỏi ǵ mà lắm thế?          

- Thôi không hỏi nữa!

        

Thấy hắn sắp quạu, tôi không thèm nói chuyện thêm. Tôi xoay người lại, nằm ngửa, quay mặt sang anh bạn Đồng-Minh. Cậu bé đă ngáy kḥ kḥ.

 

Đêm vào khuya, tôi bị vết mổ hành, chỉ nhắm mắt, chập chờn. Thêm vào đấy, cứ ba tiếng đồng hồ, y tá lại đánh thức tôi dậy, nhét hai viên trụ sinh vào mồm bắt nuốt. Từ sau lần bị thương thứ nh́, cơ thể tôi không thể tiếp nhận Penicillin, nên kỳ này bác sĩ cho tôi uống Erythromycin với liều lượng cao gấp đôi để pḥng ngừa vết mổ làm độc.

 

H́nh như tên tù binh có tâm sự, không ngủ được. Chắc anh ta đang suy tính điều ǵ gay go lắm? Lâu lâu hắn lại mở mền, hé mắt quan sát quanh pḥng. Có lúc hắn gượng gạo ngồi dậy thử đứng hai chân trên nền nhà, nhưng thấy không vững, y đành ngồi phịch xuống nệm, thở dài.  Mấy lần y mở miệng gọi tôi:          

“Này! Này!”

 

Tôi khoát tay ra dấu cho hắn ta im tiếng, đừng làm ồn lúc đêm khuya. Quá nửa đêm, ba, bốn y tá vào pḥng hồi sức, chuyển anh lính Mỹ ra xe, chở đi.

         

Lợi dụng lúc căn pḥng chộn rộn, ồn ào, anh cán binh hỏi nhỏ:  

        

- Các anh có đem tôi đi bắn bỏ không?          

Tôi ngạc nhiên         

- Cái ǵ mà bắn bỏ? Ai nói với anh điều đó?        

Anh cán binh trả lời với vẻ mặt hoàn toàn thật thà,

- Chính ủy nói mà! Chính ủy nói, nếu để các anh bắt, các anh sẽ đem xử bắn. Tôi ph́ cười.  

- Ai mà bắn anh làm ǵ? Tuyên truyền bậy bạ thế mà anh cũng tin!

          

Anh Việt-Cộng ngẩn người, ra chiều suy nghĩ, rồi lẩm bẩm:         

“Chẳng lẽ chính ủy nói sai?” tiếng anh ta nhỏ như thể là, anh ta nói, cho chính ḿnh anh ta nghe thôi.          

 

- Này! Có phải Xuân là vợ anh không? tôi hỏi ḍ.          

 

- Đúng! Xuân là vợ tôi đấy! Xuân vừa đẻ đứa con gái đầu ḷng th́ tôi có lệnh đi B. Không biết kiếp này tôi có c̣n gặp lại Xuân và Bé Ty không?

 

Nghe tâm sự của anh ta, tôi không khỏi mủi ḷng. Hai người ngừng tṛ chuyện khi cô y tá trở về pḥng cho tôi uống thuốc. Ngày kế tiếp, sau bữa ăn sáng, hai Quân-Cảnh gác cửa pḥng rút đi, Đại Úy Phạm Văn Tư và viên sĩ quan Pḥng Nh́ Sư-Đoàn 4 Hoa-Kỳ lại xuất hiện. Anh Tư bắt tay tôi, rồi ngồi xuống cạnh giường bệnh của tên tù Phiến Cộng.          

 

- Hết lo chết rồi nhé! Giờ th́ ḿnh đi thôi!    

      

Viên đại úy Mỹ cũng cúi xuống, vỗ vai người tù, xí xố vài câu hỏi thăm. Sau đó, hai sĩ quan Việt, Mỹ đỡ tên tù Cộng-Sản lên ghế lăn. Tôi đưa bao Salem c̣n hơn nửa cho tên cán binh.          

 

- Này! Cầm lấy! Tôi cũng người Hải-Dương...          

 

Anh trung úy Việt-Cộng rụt rè cầm bao thuốc lá nhét vào túi. Rồi, anh ta nắm lấy bàn tay phải của tôi, lắc lắc vài cái.          

 

- Các anh đă cứu mạng tôi. Người ta nói rằng các anh độc ác lắm. Nhưng thật ra... các anh có độc ác đâu? Lúc này ánh mắt anh ta không c̣n vẻ gờm gờm, hằn học nữa. Tới cửa pḥng, anh ta dơ tay vẫy tôi lần cuối.

 

Tới trưa, tôi được chuyền thêm một bịch nước biển pha trụ sinh rồi rời bệnh viện lúc hai giờ chiều, theo chế độ điều trị ngoại trú.          

 

Bà bác sĩ trưởng khoa dúi vào tay tôi cái bao nylon, trong đó chứa cục đạn bằng gang màu đen đă được chùi rửa sạch.          

 

“Don't throw it away! Keep it for memory!”   bà dặn ḍ.    

     

Bà không bắt tay tôi, mà xoay lưng đi về văn pḥng.  

       

“Take care! Good bye! My son!”  

 

phút chia tay, h́nh như bà tránh nh́n tôi, giọng nói của bà run run.          

 

Khi đỡ tôi lên xe, cô y tá mới nói nhỏ vào tai tôi: “Her son was a Ranger like you!”

 

Hai ngày sau tôi trở lại bệnh viện để thay băng th́ cô y tá quen báo cho tôi biết rằng bà y sĩ trung tá trưởng khoa vừa lên đường về nước v́ bà đă măn nhiệm kỳ phục vụ ở Việt-Nam.      

    

Nhớ tới bà, ḷng tôi chợt dâng lên một cảm giác lâng lâng, ngọt ngào.    

      

Thế là bà đă về quê! Bà đă xa rời chốn hiểm nguy. Bà sẽ về đoàn tụ với người con trai của bà; anh ấy cũng là một “Ranger” như tôi. Bà cũng giống mẹ tôi: những lúc xa con, thấy anh lính nào cỡ tuổi con ḿnh, cũng thấy thương, như là thương con ḿnh

 

 * * *

 

Cuối tháng Chín năm 1974 Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân xuống Đức-Lập tăng cường cho Tiểu-Khu Quảng-Đức để tham dự cuộc hành quân khai thông Liên Tỉnh Lộ 8 B. Thiếu Tá Phạm Văn Tư (lúc này là Trưởng Pḥng 2 Tiểu-Khu) lại gặp tôi lần nữa. Nhớ chuyện năm nào ở Bệnh Viện 71 Dă-Chiến, tôi hỏi anh Tư.

 

- Ngày đó, v́ cớ ǵ mà anh cứu thằng trung úy Đặc-Công Việt-Cộng?          

- Đạo lư làm người mà Long! “Moa” cứu hắn, chỉ v́ hắn sắp chết. Vả lại, hắn đâu phải là kẻ thù của chúng ta? Hắn chỉ là kẻ địch của chúng ta thôi. Tôi biểu đồng t́nh.  

- Đúng! Kẻ thù là người có ân oán với ḿnh. Những tên cán binh đang đánh nhau với ḿnh th́ có thù oán ǵ với ḿnh đâu?  Tôi hỏi tiếp.          

- Sau này anh có c̣n gặp lại y không?          

- Không. V́ khai thác xong th́ tụi này chuyển giao anh ta cho Pḥng Nh́ Quân-Đoàn II ngay. Giữ lâu làm ǵ?

Tôi nhắc anh Tư.         

- Anh có nhớ chuyện thằng Vi-Xi đó cứ gọi tên Xuân lúc hôn mê không? Và anh có biết Xuân là ai không?       

- “Moa” không hỏi, mà cũng quên khuấy chuyện này rồi.         

- Xuân là tên vợ hắn. Đứa con gái hắn vừa chào đời, th́ hắn có lệnh vào Nam.          

Nghe vậy, anh Tư bèn đưa bàn tay phải lên ngang ngực, dơ ngón trỏ ra nhịp nhịp.          

- Ừ há! Chắc ngày trao đổi tù binh năm 1973 hắn đă về đoàn tụ với gia đ́nh ngoài Bắc rồi.          

Tôi chợt nhớ, tên cán binh ấy là người Hải-Dương, nên buột miệng.         

- Thằng đó là người cùng quê với tôi đấy.          

Anh Tư gật gù.          

- Có khi hai người là bà con cũng nên?          

Tôi cũng gật gù theo.          

- Biết đâu chừng lại là anh em, họ hàng. Tôi có một bà d́ và hai ông bác c̣n ở ngoài Bắc. Nếu như hắn là con của những người này, th́ quả là “cốt nhục tương tàn”. Anh Tư phụ họa.          

- Những thằng địch đang cầm súng chỉ là nạn nhân bị tụi đầu sỏ cầm quyền lợi dụng máu xương thôi. Mấy thằng Cộng-Sản “cội” đang ăn trên, ngồi trốc ở ngoài Hà-Nội mới là nguyên nhân gây ra cuộc chiến tranh “nồi da xáo thịt” này. Tụi đó mới chính là kẻ thù của chúng ḿnh!

 

 * * *

 

Đầu năm 1976, nghĩa là đúng sáu năm, sau ngày Đại Úy Phạm Văn Tư áp giải viên trung úy Đặc-Công Việt-Cộng tới Bệnh Viện 71 Dă-Chiến Hoa -Kỳ th́ tôi và anh Tư đă thành hai trong số vài trăm tù nhân cấp thiếu tá của khu K 3 trại Tam-Hiệp, Biên-Ḥa.          

 

Thời kỳ này, giờ khắc trôi từ từ như đang đợi chờ ngày bầu cử Quốc-Hội nước Việt-Nam Thống-Nhất. Chúng tôi c̣n ở trong Nam, chưa bị đưa ra Bắc, chưa bị cưỡng bách làm các công tác lao động nặng.          

 

Riêng anh Phạm Văn Tư và người cùng Khóa 19 Vơ-Bị của anh là Trần Văn Bé được trại tuyển dụng làm thợ đóng bàn ghế trên ban chỉ huy. Tám giờ sáng, vệ binh vào mở cổng, dẫn hai anh đi làm công tác. Năm giờ chiều, hai anh tự động trở về K 3, không có ai dẫn độ. Anh Trần Văn Bé là người ở cùng Đại Đội B với tôi trong Trường Vơ-Bị thời sinh viên sĩ quan. Anh Bé cũng là người đă huấn luyện tôi những ngày đầu đời lính, nên chúng tôi không lạ ǵ nhau. Chiều chiều, anh Tư và anh Bé thường rủ tôi tới Lán 2, nơi có cái bàn gỗ của Thi Sĩ Trương Minh Dũng để hút thuốc lào và tán gẫu. Anh Trương Minh Dũng là bạn cùng Khóa 5 Thủ- Đức với Trung Tá Hoàng Kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi đă gặp anh Dũng vài lần khi chúng tôi mới tới tăng phái cho tỉnh Quảng-Đức (9/1974). Lúc đó anh Dũng đang giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu này. Bây giờ th́ ông Thi Sĩ Tham Mưu Trưởng Tiểu-Khu ngày xưa đă mang biệt danh rất hợp thời là “Dũng Điếu Cày”.   

     

Anh Tư biết tôi ghét thuốc lào, nên mỗi ngày anh đều vấn cho tôi vài điếu thuốc rê Cẩm-Lệ. Buổi trưa một ngày tháng Hai năm 1976, có tiếng súng liên thanh nổ ṛn ră một tràng dài ngoài hàng rào. Tiếng súng ngừng lại vài giây, rồi tiếp tục, nhưng lơi đi, từng phát một, như ai đó đang thực tập bắn bia. Trên con đường nhựa bao quanh các khu cách ly, vệ binh chạy rầm rập nối đuôi nhau. Chúng vừa lên đạn “lách cách!”  vừa gọi nhau ơi ới:          

 

“Báo động! Báo động! Tù trốn! Tù trốn!”          

 

Cổng chính của tất cả các khu giam giữ tù cải tạo liền bị đóng kín, khóa lại. Cḥi gác nào cũng đầy lính canh, súng chĩa vào sân. Tù nhớn nhác nh́n nhau ngơ ngác. Rồi cửa hông được mở cho hai vệ binh gh́m súng A.K đi vào K 3 để kiểm tra. Tù cải tạo bị đuổi về lán. Vệ binh vào từng nhà, đếm đầu, nhận mặt từng người, với sự xác nhận của lán trưởng. Kiểm tra xong, trong sân trại sinh hoạt đă trở lại, nhưng không c̣n cái không khí ồn ào náo nhiệt thường ngày. Tù cải tạo vẫn tụm năm, túm ba, nhưng không phải để đánh cờ, chơi bóng chuyền, hay tập thể dục dưỡng sinh, mà để ŕ rầm với nhau về chuyện mới xảy ra lúc buổi trưa. Chẳng ai biết vị sĩ quan nào của Việt-Nam Cộng-Ḥa đă mạo hiểm làm nên sự kiện này. Trong sân trại, tiếng chim se sẻ nói chuyện với nhau nhiều hơn là tiếng người ta.          

 

Khoảng hai giờ chiều, loa phóng thanh trên cḥi cao ra lệnh cho các lán trưởng lên văn pḥng nhận lệnh. Khi trở về, lán trưởng Lán 24 của tôi là Thiếu Tá Trần Thành Trai tập họp tất cả lán viên, rồi tuyên bố: “Trưa nay có hai cải tạo viên trốn trại. Tên Phạm Văn Tư bị bắt lại. Tên Trần Văn Bé c̣n tại đào. Các anh đừng hoang mang, nghe lời dụ dỗ của bọn phản động mà trốn trại, sẽ mang họa vào thân.”          

 

Chẳng rơ câu tuyên bố này là do Lán Trưởng Trần Thành Trai ứng khẩu, hay anh ta đă sao y nguyên bản lời của cán bộ? Tôi ra sân bóng chuyền t́m gặp vài người quen để hỏi thăm tin tức của hai người đàn anh Khóa 19. Một anh lán trưởng tiết lộ: Khi anh ta lên họp trên ban chỉ huy trại th́ nghe vệ binh nói với nhau rằng anh Phạm Văn Tư bị bắn trọng thương, nhưng vẫn c̣n bị bỏ nằm trong hàng rào kẽm gai, v́ khu vực đó có ḿn nên vệ binh không chịu chui vào lôi anh Tư ra. Xế chiều, anh bạn Bắc Hải ngoắc tôi ra góc sân th́ thầm.  

 

- Anh Bé thoát rồi! C̣n anh Tư th́ bị bắn nát bấy cả hai đùi và hai cánh tay. Người bắn anh Tư là “Thượng Sĩ Buồn” đó! Anh Tư thiệt là số xui. Thằng Thượng Sĩ Buồn đi đái, gặp ngay lúc anh Tư đang bị kẽm gai móc vào lưng áo, cách cầu tiêu có vài thước thôi. Nó chạy vào lấy khẩu A.K 47 nhắm hông và đùi của anh Tư, bắn hết một băng đạn ba mươi viên. Rồi nó ráp băng đạn thứ nh́, t́ súng trên hàng rào, cứ nhắm tay, chân của anh Tư mà tiếp tục bóp c̣ từng viên một, cho tới viên cuối cùng. Chân tay anh Tư đă nát bấy, nên anh ấy chỉ c̣n nước nằm kêu la đau đớn chờ chết. Măi tới ba giờ chiều chúng nó mới cho gọi mấy anh cải tạo viên bên K 1 chui vào hàng rào, lôi anh Tư ra. Họ khiêng anh Tư về bệnh xá, thằng thiếu úy trưởng trại không cho băng bó, nó c̣n bắn thêm ba, bốn phát K 54 vào bụng anh Tư, rồi bắt khiêng anh Tư bỏ trên miếng ván nằm trong cái nhà kho cũ của trại. Anh Tư khát quá, xin uống nước, anh em đi lấy nước cho anh, th́ thằng Thượng Sĩ Buồn ngăn lại, không cho uống. Sau đó, nó đuổi mấy anh ấy về lán. Nói xong, Hải buột miệng chửi thề:      

   

- Đù Má! Cái thằng Thượng Sĩ Buồn này độc ác dữ!  

 

“Thượng Sĩ Buồn” là biệt danh của tên Việt-Cộng quản giáo K 3. Tên này tuổi dưới ba mươi, mặt mày sáng sủa như một thư sinh. Không rơ tên thật của hắn là ǵ, nhưng anh em trong trại thường gọi hắn là “Thượng Sĩ Buồn”. Mà cũng đúng! Lúc nào mặt y cũng phảng phất nét u sầu, như đang mang tâm sự không vui, như đang nhớ thương ai. Tôi nhớ hồi c̣n ở bên K 1, ông “Ba Gà Mổ”, tức ông lán trưởng Thiếu Tá Nguyễn Văn Lộc đă từng chỉ cho tôi thấy mặt một cán bộ Việt-Cộng “hiền hết xẩy” nhân dịp tôi theo ông Lộc lên khiêng gạo trên văn pḥng trại. Ông “Ba Gà Mổ” có vẻ biết rành rẽ tên cán binh này lắm.        

  

- Anh quản giáo này quê ở măi ngoài Bắc-Thái lận! Ảnh mới vào Nam sau “ngày giải phóng”. Ảnh hiền hết xẩy! Cuối năm 1975 tôi được chuyển từ K 1 sang K 3. Khi thấy người phụ trách K3 chính là anh cán bộ “hiền hết xẩy” tôi cũng mừng.

 

Sáng sáng, Thượng Sĩ Buồn đứng nơi góc trại nh́n các anh tù tập thể dục dưỡng sinh. Chiều chiều, Thượng Sĩ Buồn rảo quanh trại đôi lần, thủng thẳng tản bộ trên con đường ṃn sát hàng rào. Lâu lâu hắn dừng chân ân cần hỏi thăm sức khỏe của những tù nhân đang túm năm, tụm ba đánh cờ tướng hay đang bàn chuyện gẫu. Hắn rất sốt sắng liên lạc với cán bộ hậu cần giúp mua hàng cho anh em trong trại, mỗi khi được nhờ. Nói chung, hắn ta được ḷng nhiều người. Không ai nghi ngờ ḷng tốt của hắn cả.

 

Có một vị tù cải tạo nào đó đă “phịa” ra cái lư lịch đầy màu sắc tiểu thuyết của Thượng Sĩ Buồn, rồi chuyền tai nhau: Nào là, hắn ta vốn là sinh viên đại học Y-Khoa, ly khai vào “bưng” nhân Tết Mậu-Thân, ngày trở lại Sài-G̣n th́ người yêu đă lấy chồng! Hoặc, cho hắn là con nhà địa chủ, cha mẹ chết hết trong thời cải cách ruộng đất, v́ thế hắn buồn!

 

Chiều hôm đó Thượng Sĩ Buồn vẫn thủng thẳng tản bộ trên con đường ṃn quanh trại. Nhưng không có người tù cải tạo nào dám nh́n anh ta cả. V́ ai cũng biết rằng, anh ta chính là người đă lạnh lùng bóp c̣, nhắm bắn từng viên A.K 47 trên thân thể một người cùng màu da, cùng nguồn cội với anh ta. Giờ đây, anh ta đă lộ rơ nguyên h́nh một tên cuồng sát máu lạnh núp đàng sau một khuôn mặt điển trai. Cũng từ hôm sau, cho tới ngày tôi lên tàu ra Bắc (tháng 7/1976), tôi không c̣n trông thấy Thượng Sĩ Buồn xuất hiện trong ṿng rào K 3 nữa. H́nh như hắn được chuyển sang phụ trách khu K 4? 

 

Tối đó tôi mở ba lô, véo một cục từ bánh thuốc rê đầy ắp mà anh Phạm Văn Tư đă đưa cho tôi chiều hôm trước. Tay tôi vân vê những sợi thuốc, trí óc tôi hiện lên khuôn mặt vừa nghiêm trang, vừa buồn rầu của người Niên Trưởng. Lúc đưa “rê” thuốc cho tôi, giọng anh thực từ tốn, nhưng vô cùng dứt khoát, anh nói.

 

- Từ mai, “moa” bỏ thuốc! “Toa” cầm nguyên bánh Cẩm-Lệ này về, rồi tự tay vấn lấy mà hút! “Moa” chán cái việc suốt ngày ngồi vấn vấn, vê vê này rồi! Chẳng làm nên tích sự ǵ cả! 

 

Chuyện xảy ra trưa nay, đă cho tôi hiểu rằng, thực sự, người đàn anh của tôi đâu đă chán thuốc rê? Anh cho tôi cả bánh Cẩm-Lệ c̣n mới toanh, và tuyên bố “bỏ thuốc”, chỉ v́ anh phải bắt đầu một cuộc phiêu lưu ít người dám làm: Trốn trại! Thật vậy, có ít người dám làm điều này lắm! Chỉ v́, trốn trại chẳng phải chuyện đùa! Mà trốn trại, chính là đem sinh mạng của ḿnh ra đánh đổi lấy Tự-Do.

 

Hai ông đàn anh của tôi đều là dân T́nh-Báo, do đó, dù thân thiết cách mấy, tôi cũng không hay biết mảy may mưu đồ của hai ông.

 

Tôi cũng chợt nhận ra một điều trái khoáy, oái oăm, đó là chuyện ngày xưa Đại Úy Phạm Văn Tư v́ “Đạo Làm Người”  mà cứu mạng một tên Việt-Cộng sắp chết v́ nội xuất huyết trên những vết thương ở đùi. Rồi chỉ sáu năm sau, người tù cải tạo Phạm Văn Tư lại bị những tên Việt-Cộng khác bắn nát tứ chi, không băng bó, vứt trong xó nhà, để mặc cho máu chảy tới cạn kiệt. Không có ai làm “garô” cho anh; không ai lưu tâm tới chuyện hai đùi, hai tay anh đang bị nội xuất huyết, hay ngoại xuất huyết cả; chắc chắn anh sẽ chết dần với nỗi đau đớn tột cùng. Cảnh này cũng thật là trái ngược với h́nh ảnh cô y tá Hoa-Kỳ tận tâm chăm sóc một tù binh bị thương, không cùng màu da và ngôn ngữ với cô, vừa luôn miệng dỗ dành:


“Don't worry! Don't worry! You will be Okay!”

 

Ngày xưa, khi nhân loại c̣n dă man, có chuyện người chiến thắng đă đem địch quân ra tùng xẻo, hoặc trói kẻ thù lại, cột dây cho ngựa kéo lê tới chết.


Ngày nay, dù thế giới đă đổi thay, nhưng cung cách đối xử với người dưới ngựa của Việt-Cộng cũng không văn minh hơn chút nào.


Tôi đang suy nghĩ miên man, th́ anh bạn Nguyễn Phong Cảnh ló đầu vào cửa sổ ngoắc tay,


- Lẹ lên! Lẹ lên!


Vừa chui lọt thân ḿnh qua cái cửa sổ, tôi đă bị anh Cảnh lôi đi như chạy giặc. Cảnh dẫn tôi men theo bờ rào, đi về hướng nhà bếp, tới góc cuối của K 3, cách cái cḥi gác hai lớp kẽm gai. Lúc đó trên cḥi không có lính canh. Hai đứa ngồi núp ḿnh, nghe ngóng. Từ căn nhà tôn bên kia, cách tôi bốn lớp kẽm gai và hai khoảng đất trống, rơ ràng là tiếng la rú đau đớn của anh Tư đang vọng ra.


“Ối!...Ối! ...Ối!...ôi!...ôi!...ôi!..ư...ư...ư..”


Tiếng la rú lanh lảnh, đứt quăng, quằn quại, từng đợt rợn người, của một sinh vật sắp chết đă phá vỡ cái yên tĩnh của một vùng không gian vào lúc trời chạng vạng. Chắc chắn trong suốt cuộc chiến tranh hai mươi năm vừa qua, khó có thương binh nào phải lâm vào t́nh trạng đau đớn khủng khiếp như t́nh trạng hiện thời của người thất trận Phạm Văn Tư.

 

Tôi nghĩ rằng, nếu có gom góp hết những đau đớn mà tôi đă từng trải, qua ba lần bị thương, cũng chẳng thấm ǵ với cái đau mà người đàn anh của tôi đang gánh chịu giờ phút này.

 

Bạn cùng lán của tôi, Thiếu Tá Nguyễn Phong Cảnh, là một sĩ quan thuần túy tham mưu, không quen với cảnh máu đổ, thịt rơi ngoài trận tiền, nên chỉ qua vài phút chứng kiến cảnh thương tâm này, anh Cảnh đă chịu đựng không nổi. Anh ̣a lên khóc tức tưởi, rồi ù té chạy về hướng sân bóng chuyền. Tôi vẫn ngồi sát bờ rào, theo dơi tiếp. Tiếng rú hạ thấp xuống thành tiếng rên, “Hừ!... Hừ!...hừ! ...hừ!...” Rồi h́nh như trong khi rên, anh Tư đă ú ớ gọi tên ai đó:
“Hừ!... Hừ!...Hừ!..Hường...ơi!...Hư...ường ...ơi!...ực!... ực!...ực!...”


Cuối cùng, chen lẫn với những tiếng nấc, bên kia rào chỉ c̣n những tiếng, “Ư! Ử!...Ư! Ử!...ư! ử!...”  nhỏ dần.

 

Mấy chục năm sau, mỗi khi nhớ lại chuyện này, hai mắt tôi vẫn thấy nóng lên và mờ đi, tim tôi vẫn c̣n chùng xuống như một con tàu vỡ, đang bị nước tràn vào, đang tṛng trành ch́m dần xuống đáy biển khơi.


Mấy phút sau, h́nh như anh Tư đă kiệt sức, không rên được nữa. Thấy không nghe thêm được ǵ, tôi đành lầm lũi trở về nhà giam. Trong khu K 3, ngoại trừ những hôm có văn nghệ hay chiếu phim, th́ sau tám giờ tối, cổng khóa, không c̣n vệ binh đi tuần tra trong ṿng rào nữa.


Và cũng từ khi có kẻng báo ngủ (chín giờ tối) th́ trên cḥi canh, vệ binh bắt đầu các phiên gác đôi. Từ khi tắt đèn cho tới khuya, lâu lâu tiếng gào thét, la hét của anh Tư lại theo gió vọng về. Có lẽ tới gần hai giờ sáng mới hoàn toàn không c̣n tiếng rú đau đớn của anh Tư nữa.

 

Suốt đêm đó tôi cứ giả đ̣ mắc tiểu, lâu lâu lại đi ra sát bờ rào nghe ngóng. Cũng đêm hôm đó, h́nh như có nhiều người trong khu K 3 cùng mang tâm trạng như tôi. Trong số này, ngoài Nguyễn Lành, Tạ Mạnh Huy và Ngô Văn Niếu ra, c̣n vài anh Vơ-Bị bên Lán 17. Họ cũng thay phiên nhau ra hàng rào... đứng một lúc, nghe ngóng ... rồi đi vào.


Chúng tôi như chim cùng đàn, một con bị bắn chết, những con khác chỉ biết bay ḷng ṿng trên cao, cất tiếng kêu thương. Mờ sáng ngày kế tiếp, có sáu anh tù cải tạo được gọi lên văn pḥng để đi chôn xác anh Tư.

 

Tuần sau, anh Trần Văn Bé bị Việt-Cộng bắt trở lại, và đem về nhốt trong connex đặt trên ban chỉ huy trại. Cùng thời gian này, một anh tù trốn trại khác cũng bị giải về đây nhốt chung với anh Bé. Anh bạn này là Đại-Úy Biệt Động Quân Phạm Hữu Thịnh. Anh Thịnh đă cùng anh Thiếu Tá Quách Hồng Quang, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 44 Biệt Động Quân chui rào, t́m cách thoát đi từ Trại Hóc-Môn. Anh Quang bị vệ binh bắn chết ngay tại hàng rào, c̣n anh Thịnh th́ bị bắt khi vừa chui ra khỏi lán. Anh Quách Hồng Quang là bạn cùng đơn vị với tôi thời chúng tôi c̣n là đại đội trưởng ở Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân. C̣n anh Thịnh lại là dân cùng ngành T́nh-Báo với anh Tư và anh Bé.

 

Giữa tháng Tư năm 1976, anh Bé và anh Thịnh bị đưa ra ṭa án của trại để xử tội. Hôm đó là một ngày nắng gắt. Khoảng hơn mười giờ sáng, khi loa phóng thanh truyền về trại âm thanh của những loạt đạn A.K kết thúc mạng sống của hai người thua trận, th́ trời đang nắng bỗng tối sầm, một cơn giông kéo tới, bụi đất mù mịt. Tiếp theo, là một trận mưa rào xối xả, sầm sập trên mái tôn. Nước mưa vừa bốc thành hơi ngùn ngụt, vừa tuôn xuống đất ào ào. Nhưng chỉ vài phút sau, đột ngột, mưa ngừng. Cảnh vật lại trở về t́nh trạng cũ.

 

Hiện tượng khác thường này khiến người ta liên tưởng tới sự hiện diện của Đấng Vô H́nh ở trên cao, đang theo dơi các hoạt động của con người dưới trần gian. Có phải cái chết oan ức của hai vị sĩ quan Việt-Nam Cộng-Ḥa đă động tới ḷng Trời? Khiến Trời phải nổi cơn giông phẫn nộ hay không? Tôi th́ tin tưởng rằng, lúc cơn giông nổi lên, chính là lúc Thượng- Đế đưa bàn tay thương yêu của Người ra, để dắt d́u linh hồn các bạn tôi tới bến bờ Tự-Do.

 

Từ phút đó cho tới chiều tối, trong sân tập họp của khu K 3, tù cải tạo lại tụ nhau từng nhóm, th́ thầm đọc kinh cầu nguyện. Những anh tù đại diện có mặt trong phiên ṭa, khi về trại, đă kể lại, việc chôn cất hai người bại trận cũng diễn ra rất gọn, v́ một ngày trước khi có phiên ṭa này, th́ hai cái huyệt để chôn người bị xử tử đă được ban chỉ huy trại cho người đào sẵn sàng rồi. Vậy là, chỉ trong một thời gian ngắn ngủi sau khi mất nước, bốn người bạn của tôi đă phải trả giá cho Tự-Do bằng chính sinh mạng của họ.


Sau ngày Ba Mươi tháng Tư năm 1975, thời thế đă đổi thay. Cái Thiện đă nhường chỗ cho cái Ác. Tự-Do, Bác-Ái, Công-Bằng chỉ c̣n là kỷ niệm.

 


Vương Mộng Long - K20

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính