Bốn Đại tá trốn trại tù “cải tạo”
Vơ Hữu Hạnh
Những năm dài tháng tận rồi cũng trôi qua trong nhọc nhằn khổ sở cả thể
xác lẩn tinh thần. Thắm thoát đă hai năm qua ở mảnh đất tận cùng biên
giới phía Bắc Việt Nam này. Hàng ngày chúng tôi phải dậy thật sớm trước
khi tiếng kẻng rùng rợn vang lên giữa đêm giá rét O độ của miền Bắc rẻo
cao này, để xếp hàng làm vệ sinh cá nhân, v́ hể một khi tiếng kèn đă nổi
lên rồi th́ ḿnh sẽ không c̣n là ḿnh nữa,mà là một con trục quay cuồng
trong guồng máy luyện thép khổng lồ.
Thời gian đó các cai tù phân công chúng tôi ra từng cặp một trẻ một già,
một khoẻ một yếu để vác một cây bồ đề dài khoảng 6 thước, chu vi chừng
vài tấc trở lên qua đoạn đường rừng gần 10 cây số, mỗi ngày cặp tù nhân
đó phải vác đủ ba chuyến như thế cho đủ chỉ tiêu. Lúc dó khoảng 4 giờ
chiều, tôi và một anh bạn trẻ đang khiêng một cây Bồ Đề to lớn, đă cố
sức vưọt qua bao nhiêu ngọn đèo,chỉ c̣n một đèo chót là đến nơi đang xây
dựng bệnh xá được xây thêm cho càng ngày càng có thêm bệnh nhân tù.
Trời mưa tầm tă, dưới chân chúng tôi nước chảy thành ḍng như muốn cuốn
trôi mọi thứ, chúng tôi phải hết sức kềm chân cho chặt vừa phải oằn vai
chịu sức nặng đẫm nước của cây tươi vừa đốn hạ. Bỗng nhiên anh bạn gánh
vai sau trợt chân té ngửa, buông rơi cả thân cây to, khiến đầu cây c̣n
lại đập mạnh vào hông phải tôi. Đau đón tôi ngất lịm, chân bị trật cả
gân lẫn xương. Tôi vào bệnh xá dể được một ông y sĩ Trường Sơn, mỗi lần
chữa bệnh, vừa xem cuốn sách châm cứu do Miền Nam ấn hành, vừa châm vào
tôi cây kim dài đă hơ qua ngọn lửa vừa nói:
- Tổ chức châm cứu săn sóc anh đây. Chừng nào anh cảm thấy đau buốt th́
cứ la lên, tôi sẽ t́m huyệt khác đúng hơn!.
Nhờ mỗi ngày chịu trận cho ông y sĩ dỏm này thực tập vài ba tiếng, tôi
mới được ông kư giấy cho “Miễn lao động “ trong ngày ấy.
Ngày hôm trước ngày tôi bị cây to đè ngang hông, khi tôi khiêng cây dến
đoạn đường Nghĩa Lộ, vừa đói vừa khát, kiệt sức tôi ngă vật xuống bên
lềđường. Hai cán bộ bảo vệ trẻ thương hại mới đỡ tôi dậy, nhưng ngay lúc
đó cán bộ phó trại, ngựi mập lùn đi ngang qua, không cho đỡ tôi lại c̣n
đay nghiến: “-Các đồng chí không việc ǵ mà phải đỡ hộ họ!” Rồi anh cán
bộ phó trại quay sang chúng tôi sang sảng: “ Tôi biết rơ ở trong Nam,
mỗi tuần các anh hầm thuốc Bắc một đứa trẻ từ một tuổi để bồi dưỡng,
đúng là quân man di mọi rợ không có tính người! V́ thế anh nào cũng béo
tốt như ri, lao động một chút không bằng ai mà cũng giả vờ té xỉu..nhất
là mấy anh tỉnh trưởng!!!”
Nh́n vẻ mặt anh ta đỏ gay, gân cổ lên mà nói to ra vẻ rất hiểu biết, để
gây thêm căm thù, chúng tôi bổng thấy thương hại sự ấu trĩ của họ hơn là
oán ghét. C̣n lạ ǵ một anh chăn trâu suốt đời không được học hành giáo
dục, chỉ biết lặp lại nhai lại y khuôn những ǵ Đảng nói và nhồi sọ cho
họ, gây căm thù giai cấp càng nhiều càng tốt. Họ có biết đâu lúc đó tại
các thành phố lớn Hà Nội, Sài G̣n, hàng ngày các bác sĩ cán bộ được lệnh
“Kế Hoạch Hóa Gia Đ́nh”, để hợp pháp giết non hàng ngàn thai nhi vô tội.
Chúng tôi vẫn tiếp tục lê gót sống những ngày tù khoắc khoải, th́ một
hôm nọ, trời vừa hửng sáng là trại bị bọn cán bộ, lính bảo vệ trang bị
súng ống chĩa vào các lán trạ́ tù. Ngày hôm đó họ kiểm soát rất gắt gao,
nhân dịp tịch thu tất cả những ǵ chúng tôi có thể để dành ăn chống đói
như đường,sữa, bánh ngọt khô.
Cán bộ phó oang oang cái miệng ḥ hét om ṣm:
- Dzơ dzàng nà các anh ngoan cố phản động không chịu học tập cải tạo tốt
để sớm lên ngườ́ công dân xă hội chủ nghĩa tốt, nhất là mấy bọn đại tá
các anh đă phụ ṇng tin tưởng khoan hồng của Bác, Đảng và Chính phủ, các
anh có biết chuyện ǵ xảy ra sáng nay không?
Ai nấy đều rơ nhưng vẫn im lặng như không. Các lán trại đă tung tin rất
nhanh về việc 4 ông đại tá đă trốn trại làm nức ḷng nhũng trại viên c̣n
lại. Họ vừa mừng vừa lo và van vái thầm cầu xin cho các vị đó được mau
thoát đến đất Lào và biết đâu đến bờ Tự Do đất Thái.
Họ đi theo đội h́nh như sau:
- Đại Tá Thành, trung đoàn trưởng, trưởng toán trốn trại, mở đường.
- Kế đó là Đại tá Nguyễn Văn Thi, binh chủng Pháo Binh, người giữ địa
bàn định hướng.
- Người đi giữa mang thực phẩm cho toán là Đại tá Đỗ Trọng Huề, cựu giám
đốc QuốcGia Nghĩa Tử, cố vấn văn hóa cho tổng thống Thiệu.
- Và người giữ mặt hậu là Đại tá Quế, chỉ huy trưởng căn cứ không quân
Pleiku.
Mỗi ngày trôi qua là thêm một ngày củng cố ḷng tin cho mọi người. Các
cán bộ điên cuồng như ác thú lùng sục tất cả núi đồi. các đội tù đi lấy
cát, đá, vôi ở Bến Phà Ô Lâu cũng như các đội lao động nặng lên rừng đốn
gỗ đều được lệnh tạm đ́nh chỉ. Chỉ riêng 4 đội tăng gia và hái chè là
c̣n hoạt động cầm chừng dưới sự giám sát gấp đôi của những chú bộ đội
phúng phính trong bộ đồ “ Cứt Ngựa “.Các giờ giài lao 10 phút thựng lệ
đều bị cắt bỏ, chỉ tiêu tăng gấp đôi để mọi người mệt nhoài không c̣n
thời giờ nghỉ ngơi dù là một phút giây nào. Vài anh tù “ nông cạn” vội
chưởi rủa bốn anh trốn trại, v́ họ mà cả bọn chịu cực khổ thêm. C̣n lại
đa số đều “ phấn khởi hồ hởi “ v́ họ thêm một ngày hi vọng cho những ai
chuẩn bị trốn trại sau đó.
Trại cho thay đổi ngay những người “ anh nuôi “. Những người nầy bị an
ninh điều tra thô bạo. Anh đại tá Vơ Ân bị gọi lên xuống mấy chục bận
mỗi ngày để điều tra manh mối xem ai là người xếp đặt hậu cần cho các
anh trốn một cách bí mật chu đáo mà không ai hay biết.
Bốn anh Đại tá trong đội “Cơ Động” hàng ngày đưọc phân công dùng xe cải
tiến đến Bến Phà Ô Lâu chở vật liệu nặng về xây cất cho trại. Các anh
lợi dụng những chuyến đưọc xuất trại xa như thế đă ngấm ngầm cấu kết với
nhau âm mưu trốn trại qua Lào, với sự giúp đỡ của anh Vơ Ân, phụ trách
nhà bếp trại.
Sau cả tháng mỗi ngày giấu một ít thực phẩm khô, ngày N,giờ G, thừa lúc
mấy anh bảo vệ lơ là, các anh ĐT nhà ta lần lượt biến mất sau mỗi quả
đồi, hẹn nhau tại một điểm tập trung và … chạy trốn!
Các anh đă đi suông sẻ suốt ngày đầu tiên mà không ai hay biết cho đến
chiều tối lúc điểm danh. Đội cơ động bị phát hiện thiếu mất bốn người
khiến cán bộ quản giáo, bộ đội canh gác bấn lọan, bắn súng loạn xạ. Lúc
đó cả trại mới hay có bốn ông “Ḅ Lục” trốn thoát, ít nữa là ngày đầu
tiên, ai nấy vừa lo vừa mừng cho các anh.
Chúng tôi lo lắng v́ noi miền rẻo cao này, mỗi người dân đều là Cộng
Sản, là cán bộ t́nh báo của chúng để quan sát theo dơi chúng tôi sít
sao, v́ thế mà họ không ngại “thả” chúng tôi ra ngoài để lao động khổ
sai v́ vùng này họ cho là an toàn nhất,một con ruồi c̣n khó qua mắt họ.
Nhóm anh Huề, anh Thành, Anh Thi và anh Quế vớí sự trợ giúp hậu cần của
anh Vơ Ân, tưởng đă trốn trại được đến gần biên giới Lào vẫn bị chúng nó
phát hiện sau năm ngày sát biên giới, mà theo lời kể của các anh là “chỉ
cần qua bên kia con sông đang chảy xiết là đến đất Lào rồi”, kể th́ các
anh quá giỏi đă vạch kế hoạch, đi đúng hướng chính xác mục tiêu, thất
bại chẳng qua là.. số mệnh dun rủi mà thôi!
Chúng họ theo đuổi lùng sục các anh tận biên giới, nơi chắc chắn các anh
sẽ đến, quả thật bọn chúng đánh giá không thấp tŕnh độ của các sĩ quan
ta. Khi giải các anh về bọn chúng như bầy quỷ dữ khát máu hung hăng, tha
hồ đánh đập hành hạ các anh chết đi sống lại cho hả cơn giận của chúng.
Riêng anh Thành, trưởng nhóm vượt ngục, bị nhốt riêng rồi thay nhau đánh
đập tra khảo anh từ suốt đêm đến sáng. Càng bị hành hạ, anh càng lớn
tiếng chưởi bới, cho đến khi gà gáy sáng th́ anh không c̣n có thể la
mằng ǵ được nữa v́ chúng nó đă treo cổ anh rồi.
Sau này khi tôi bị biệt giam với các anh Huề, Thi, Vơ Ân, Tâm, Huy,
B́nh, Đức ở khu F, pḥng 7, trại Hà Tây, Tỉnh Hà Sơn B́nh, mỗi khi nhắc
đến anh Thành là mọi người yên lặng rơi lệ, thành kính tưởng niệm một
anh hùng bất khuất, nhất là anh Huề, Thi,Vơ Ân.
Theo lời anh Huề, sau khi chuẩn bị kỷ lưỡng cà mấy tháng trời những địa
điểm tiếp tế các anh đă lần lượt chôn dấu thực phẩm cho những ngày đầu
c̣n ở gần trại th́ các anh bắt đầu đi suốt ngày đêm, tránh gặp dânchúng.
Đến ngày thứ ba và thứ tư qua, bốn anh em mừng rỡ tưởng gần như thoát
nạn rồi. Đường càng xa Yên Bái th́ núi non càng cao dần lên, nhiều nơi
dốc như thẳng đứng khiến anh em khốn khổ vô cùng. Đến sớm ngày thứ tư
th́ anh Thành thoáng thấy từ xa một buôn làng có những cuộn khói bốc lên
từ các mái tranh. Tuy mừng rỡ nhưng anh em bảo nhau đề cao cảnh giác đi
bọc ṿng xa ngôi làng.
Bổng đâu có tiếng rào rào như giông to sắp đến nơi, anh Thi, người định
hướng đi trong rừng giỏi nhất v́ anh là cấp chỉ huy pháo binh, kể chuyện
tiếp:
“Lúc đó mọi người đều ră rời v́ cơn khát nung nấu dày ṿ,nhưng tiếng
động lạ càng lúc càng to dần,mọi người dều thủ dao sẳn bên ḿnh, sẳn
sàng chiến đấu một mất một c̣n với bất cứ ai khám phá ra bọn người đang
quyết tâm đi t́m tự do với bất cứ giá nào.
Tiếng ŕ rào càng phút càng to dần trên đầu, bọn ngướ núp vào kẻ đá
trong lùm cây chờ đợi. Thật bất ngờ! Mọi người há hốc mồm nh́n lên … đó
là một con kỳ đà khổng lồ rất dài đang le chiếc lươi đôi nh́n bọn người
trốn trại nhỏ bé đang ép ḿnh vào kẹt đá.
Ngướ ta thuờng nói “Ra đường gặp kỳ đà cản mũi, ắt việc không thành tựu
được!”. Nhưng lúc đó đối với các anh tù vượt ngục đói khát suy nhược th́
con kỳ đà này là món quà trời thương ban, giúp các anh có thêm sức lực.
Họ đă thấy xa xa con sông to dài tung lên những bọt trắng xóa chứng tỏ
nước chảy rất mạnh. theo bản đồ và la bàn th́ con sông đó có thể là sông
Mekong chảy xuyên qua Trung Cộng, Lào, Kampuchia và Việt Nam, v́ từ trên
đỉnh núi cây lá dày đặc nh́n xuống th́ nó rất rộng và dài vô tận uốn
khúc như con rắn khổng lồ.
Gần bờ sông các làng mạc mọc nhiều, dân cư hay lên rừng đốn củi, săn thú
nên anh em quyết định ngày ngủ dêm đi, di chuyễn dần lên phía Bắc nơi
con sông hẹp hơn để vượt qua. Ai cũng mừng v́ sắp thành công cuộc vượt
ngục hi hữu này, cố làm sao đủ sức vượt sông đến khu rừng tre dày đặc
bên kia xứ Lào.
Khi con người cố gắng hết sức để đạt mục tiêu, cơ thể có khả năng siêu
việt vượt qua tất cả, để một khi đạt hay gần khi gần tới mục tiêu, cơ
thể rũ liệt kiệt sức,các anh em vượt trại mấy ngày đêm nay thấy gần
thành công th́ bỗng dưng bao mệt mơi đổ ụp xuống, tuy nhiên anh em cũng
cố gắng thay phiên nhau trực canh, t́m mọi phuơng cách để vượt sông an
toàn.
Bổng nhiên có tiếng chó sủa càng lúc càng gần càng rộ lên. Th́ ra, dân
bản xứ đi rừng khám phá dâu chân lạ trên con đường ṃn, gần bờ suối cây
lá bị đạp ngă, họ thả chó đánh hơi và báo đồn công an, nghi ngờ có bọn
thổ phỉ buôn lậu thuốc phiện xuyên biên giới.
Tiếng chó sủa dữ dội cùng tiếng súng bao vây các anh, nhữngtiếng quát
tháo rợn người vang lên:
- Ai muốn sống giơ tay khỏi đầu ngay!
Rồi những gương mặt dữ dằn của bầy lang sói độc ác xuất hiện kèm theo
những trận mưa đ̣n tàn bạo, gậy gộc báng súng đánh tới tấp trên đầu, cổ,
mặt mũi, ḿnh mẩy những nạn nhân tù đày ốm đói run rẩy không chút tự vệ.
Giữa trận mưa máu, có tiếng một cụ già:
- Thôi cho tôi xin các ông! Tưởng là bọn thổ phỉ buôn lậu biên
giới, hóa ra là tù “cải tạo” Miền Nam. Họ không thể chống cự, hà tất
phải đánh đập họ đến chết như thế!
Bốn anh em ngất lịm đi trong cơn mưa đ̣n khủng khiếp nhất trên đời. Mặt
mũi ḿnh mẩy họ không c̣n là con ngườii nữa mà là những con vật h́nh thù
méo mó tả toi dươí những trận đ̣n từ những ác quỷ đầy hận thù đội lốt
người thắng trận!
Chiều hôm đó tại lán trại, sau khi nhận điện báo khẩn, trại trưởng huy
động hai đội lao công khẩn trương đục hang vào sựn núi sâu, không ai
biết để làm ǵ, tưởng là nơi để họ cất giấu vũ khí hay chứa thực phẩm
lưong khô, đến khi có những tấm vĩ sắt dựng thành cửa ngục lên th́ ai
nấy đều hiểu ra đó là nơi để giam giữ tù vượt trại. Chúng tôi hoài nghi
có lẽ bốn “Ḅ Lục” đă bị bắt và đang trên đường trở về.
Thật đúng như vậy! Một buổi chiều u ám, từ chân trời có tiếng vó ngựa
tung bụi mờ, giữa bầy quỷ dữ đang ḥ hét trên lưng ngựa cho chiến thắng
vĩ đại là bốn người tù bị lôi xểnh theo sau lưng ngựa, hứng chịu những
trận đ̣n, họ té khụy xuống rồi lại bị lôi dậy lúp xúp chạy theo vó ngựa,
rồi loạng choạng té xuống mặc cho những sợi dây trói chặt quấn lấy thân
thể rách bươm lôi kéo họ như những thanh gổ vô tri giác!
Chúng tôi chết điếng lặng ngựi nép bên đường nh́n họ đi qua sau giờ
chúng tôi lao động cải tạo vể, vô t́nh hay cố ư họ cho chúng tôi thấy
h́nh phạt khủng khiếp của những ai có ư định trốn trại. Chúng tôi để mặc
cho gịng lệ tuôn trào từ những đôi mắt trũng sâu, lăn dài trên đôi g̣
má hốc hác khắc khổ. Anh em chúng tôi đó! Những NGƯỜI HÙNG sau cuộc
chiến! Không thành công đă thành NHÂN! Dù không c̣n ai có thể nhận ra
các anh, v́ các gương mặt đă bị bầm dập tan nát sau trận mưa đ̣n thù.
Sáng hôm sau, anh Thành đă chết cách anh dũng bất khuất! Xin dâng anh
một nén hương ḷng!
Vài hôm sau đó, có lẽ để xoa dịu ḷng căm phẫn nhem nhúm trong tù trại
Yên Bái trại 2, hoặc gây chia rẽ nghi ngờ giữa các anh em tù, hoặc muốn
tỏra rằng Đảng ta luôn khoan hồng nhân đạo,nên trong một buổi học tập
chính trị toàn trại, người ta đem anh Quế tŕnh diện mọi người, đề cao
anh là “thành phần tiến bộ “, biết “ tội lỗi ḿnh làm “, xin tập thể
trại viên nhận anh lại vào hàng ngũ những người cải tạo tốt. C̣n hai anh
Huề và Thi hăy c̣n ngoan cố,chưa xứng đáng được nhân dân tha thứ, c̣n
phải chờ lâu dài. Mọi người khẽ thở dài, không ai có ư kiến ǵ, bởi v́
không ai đoán bọn CS thâm độc mưu mô này sẽ c̣n dùng chiêu thức ǵ nữa.
Ít lâu sau đó, ngày 19/07/1977, hàng ngũ tù Đại tá chúng tôi được lệnh
chuyển sang
trại
Tám ở thâm sơn cùng cốc đầy ao tù nước vàng đặc, nếu lỡ đạp chân xuống
đó sẽ bị nhiễm sốt rét hoặc sốt rét rừng kinh niên. Ngay ngày đầu tiên
khai hoang vùng hoang địa này dể trồng trọt, tôi là bệnh nhân sốt rét
rừng đầu tiên. Cứ khoàng 4, 5 giờ chiều cơn rét kéo tới hành hạ tôi run
lập cập, đắp bao nhiêu mền vẫn không đủ ấm, cái lạnh từ trong xương lạnh
ra, rồi đến 12 gị đêm th́ nóng sốt như lủa đốt như có muôn ngàn ngọn
lửa châm vào đầu ngón chân ḿnh mẩy. Thế mà sáng ra không được nghỉ
ngơi, họ cho là tôi bệnh vờ nên tôi vẫn phải lao động như thường. Như
chưa đủ khốn khổ, người phát thuốc ở trạm xá, vốn là người “ của ta “,
nhưng nhờ “quen biết “ cán bộ, nên bắt chẹt anh em, mỗi lần anh ta bố
thí cho vài viên Quinine, đă bị anh ta liếm hết chất ngọt bọc đường bao
quanh, là đổi lại chúng tôi phải biếu hắn thuốc lào ba số hoặc đồ thăm
nuôi. Thuốc men gia đ́nh chúng tôi gửi nuôi đều bị trại cất giữ hộ, họ
phát “Xuyên Tâm Liên “ để trị bá bệnh!
Vơ Hữu Hạnh