Vài nét về
Thi sĩ Thy Lan Thảo
Ảnh chụp đầu năm 1969 tại
photo Hậu, đường Trần Hưng Đạo Saì Gòn
Tiểu
sử.
Thi sĩ Thy Lan Thảo sinh quán tại làng Tân Niên Trung, tỉnh Gò Công. Con
út của một gia đình giáo chức có 6 anh chị em.
- Thời thơ bé: có đi học
- Thời chinh chiến: có đi lính
- Thời cộng sản: có ở tù
Anh đã trải qua 4 trại tù cộng sản: trại cải tạo Huyện Tây (Gò Công), Mỹ
Phước Tây (Mỹ Tho), Hà Tây (Hà Sơn Bình), Nam Hà (Hà Nam Ninh). Rời khỏi
trại Nam Hà ngày 29 tháng 6 năm 1983.
Định cư tại Houston theo diện HO.14.
Tác phẩm.
Đã xuất bản các tác phẩm:
- Thơ Thy Lan Thảo (2003)
- Thơ in chung: Lai Láng Giòng Phù Sa (2001, Những đóa Hoa Nở Muộn
(2002), 25 Năm Thi Ca Hải Ngoại (2003).
- Vết Khắc Nửa đời (2004)
- Chút Tình Chút ý (2005)
- Dấu Bước Chân đời (2007)
- Ray Rứt Chút Tình (2008)
- Vết Hằn Kỷ Niệm (2009)
- Nhớ Thương In Vết (2011)
Liên lạc:
thuylanvy@yahoo.com
Chuyện hai người tù gặp lại
Thanh Khâm
Sau cái ngày của Tháng Tư Đen năm 1975. anh em đồng đội của chúng tôi bị
gảy súng,vì bị bức tử một cách oan nghiệt. Bị tan hàng rã ngủ, bị bạn thù
trở mặt.Tưởng không còn sống để gặp nhau nữa, như những bạn bè đã hi sinh
trước và sau cuộc chiến Việt Nam. Nhưng cũng đau thương không ít cho những
người còn sống sót. Do một số lớn bị tù đày, một số trốn bỏ đi tìm tự do,
có người bỏ thây bỏ mạng trên đường vượt biên, vượt biển hoặc trong nhà tù
Cộng sản. Kể ra cũng có nhiều cái nghiệt ngã không ngờ, mang đầy đầy tủi
nhục và cay đắng. Như tình cảnh của người còn sống bị kẹt lại, thì bị vào
tù ngục, còn người chết thì bị quật mồ quật mã, xóa sạch và san bằng nghĩa
trang.
Còn cảnh của chúng tôi khi gặp lại nhau cũng đau thương không ít, tại nơi
các trại tù cải tạo tập trung của CSVN trên đất Bắc. Như trại tù Sơn La,
Nghĩa Lộ ở Hoàng Liên Sơn. Trại tù Hà Tây của tỉnh Hà Sơn Bình Trại tù Nam
Hà của tỉnh Hà Nam Ninh. Hoặc trại tù Tân Kỳ, Thanh Phong Thanh Hóa. Trại
tù Tiên Lĩnh ở miền Trung. Trại tù Z30D, Long Khánh ở miền Nam. Nếu đem kể
tên hết trại tù do Cộng sản dựng ra sau cái ngày 30/4/75, làm sao mà kể
cho hết. Ngày đó, CSVN đã xây nhà tù mọc lên như nấm,.khắp mọi nơi trên
toàn cõi.Việt Nam... Cũng vì thế mà nhà văn Nga lưu vong Solzhenitzyn có
phát biểu, khi miền Nam lọt vào tay Cộng sản: “Toàn thể Việt Nam sẽ thành
trại tập trung” Nhà văn này có nhiều kinh nghiệm đối với Cộng sản không
riêng gì CSVN.
Dù trong vòng lao lý, dù có tan hàng rã ngủ, nhưng trong lòng mỗi người
anh em đồng đội, đồng ngũ vẫn giữ một lòng son sắt, gắn bó với tình nghĩa
huynh đệ chi binh như thuở nào. Dù bất cứ trong tình huống bi đát đến đâu
vẫn tình nghĩa một lòng và tưởng nhớ mến thương nhau... Cũng do tình nghĩa
cao quý như thế nên chúng tôi còn tìm gặp lại nhau..
Như trường hợp của tôi và anh Nguyễn Sơn,tức nhà thơ Thy Lan Thảo, gặp lại
nhau hôm nay. Chúng tôi đã từng gặp nhau trong trại tù Hà Tây, Hà Sơn Bình
và trại tù Nam Hà, Hà Nam Ninh, Bắc Việt.Nam. Chúng tôi bị giam giữ ở trại
Hà Tây cũng khá lâu, tính ra trong vòng 4 năm. Kể từ năm 1979, sau khi
CSVN bị Trung Quốc dạy cho bài học thứ nhất, tức đánh CSVN có không gian
và thời gian, tức chỉ đánh 6 tỉnh phía Bắc nằm giáp sát biên giới Hoa Việt
và thời gian 3 tháng, mục đích lấy lại những gì Trung Quốc viện trợ cho
Việt Nam. Do đó CSVN phải di tản tù cải tạo từ miền rừng sâu núi thẩm
Hoàng Liên Sơn,đem về giam giữ tại các trại tù trong vùng đồng bằng sông
Hồng. Do đó tôi và Sơn mới có dịp gặp nhau một thời gian.ở Hà Tây và Nam
Hà.
Vào tháng ba năm 1983, tù cải tạo ở trại Hà Tây bị chuyển về trại tù Nam
Hà. Sơn và tôi cũng bị chuyển về giam ở trại tù Nam Hà một thời gian. Rồi
Sơn cũng được thả về ngày 29 tháng 6 năm 1983. Còn tôi vẫn còn bị giam
tiếp đến 11 tháng giêng năm 1986 mới được phóng thích,cũng tử nơi nhà tù
Nam Hà này..
Giờ này, Sơn và tôi cũng may mắn được gặp lại với nỗi niềm nữa mừng nữa
tủi. Tôi hình dung lại những năm tháng ở trại tù Hà Tây. Nhất là khi thấy
những người bạn trẻ như Sơn, khiến lòng tôi cảm mến và quí trọng. Cảm mến
cái tác phong anh hùng, đầy sĩ khí qua hình dáng của những người lính trẻ
trong QLVNCH. Mặc dù, còn rất trẻ, bị tù đày, nhưng tinh thần rất vững
chắc. Do cái hào khí oai hùng của người lính miền Nam được giáo dục tốt,
được tôi luyện kỷ như thép súng. Tương tự như tinh thần bất khuất đầy khí
tiết, un đúc trong huyết quản của từng người lính VNCH, đã vì lý tưởng Tư
Do, vì Tổ quốc Việt Nam,và vì miền Nam thân yêu, đã thể hiện một cách rạng
ngời, qua tấm gương trung liệt của những vị anh hùng miền Nam, như Nguyễn
khoa Nam, Lê văn Hưng, Trần văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ ngọc Cẩn.. Dù có bị
bức tử, dù có bị tù đày như thế, nhưng tinh thần và khí tiết của người
lính miền Nam vẫn còn bất cứ trong tình huống nào.
Nhớ lại ngày ở tù về, trở lại đất miền Nam, Sơn về quê quán ở đất Gò Công.
Còn tôi khi trở về phải tạm trú ở Sài Gòn. Cả hai chúng tôi, cũng như một
số tù cải tạo khác, được CSVN thả về, phải làm “phó thường dân Nam Bộ” một
thời gian khá lâu do bị quản chế, mới được trao trả quyền công dân, nhưng
cũng cảm thấy khó sống.! Kể ra lúc đó, ai muốn làm công dân của một nuớc
theo chế độ Cộng sản như Việt Nam cũng khó lắm thay! Cũng do thù hận, kỳ
thị vì tư tưởng ý thức hệ vẫn còn. Đồng thời cũng do cái tư tưỏng ngạo mạn
công thần xem đồng bào mình như cỏ rác.. Bởi thế, nên buộc lòng chúng tôi
đành cam phải bỏ xứ mà ra đi.. Nên Sơn đã viết cho một người bạn của Sơn
những dòng như sau đây:
Giặc thả tao về bơ vơ tay trắng
Mẹ
chị cưu mang an ủi bước đời
Mày
chạy xe lam hằng ngày kiếm sống
Bạn
bè cùng khổ gặp lại cũng vui
.........Uống với tao cạn ly này để nhớ
Đã
một thời bằng hữu sống bên nhau
Mai
mốt tao đi điều tao lo sợ
Sống
ly hương rất tủi nhục nghẹn ngào
Rựơu Gò Công ai đong nấy uống
Tao
mời mầy bởi biết khó tương phùng
(Viết cho thằng bạn, thơ Thy Lan Thảo)
Chúng tôi ngỡ không bao giờ có dịp gặp lại nhau, đời con người mấy ai học
được chữ ngờ. Thế mà, chúng tôi cũng còn cái may mắn hơn một số bạn bè ở
lại. Chúng tôi gặp lại nhau do một sự tình cờ, nơi quê lạ xứ người. Ôi đời
con người chuyện ly tan, ly xứ, hoặc tương phùng tái ngộ, tôi tin là do
định mệnh, hoặc do cái duyên tiền định đã an bày. Hồi tưởng lại, biết làm
sao kể hết. những đớn đau xa cách bất hạnh, do lo sợ và tù đày, từng xảy
ra hàng ngày, cho cuộc đời.của con người, tức con người Việt Nam, phải
sống và cam chịu dưới chế độ bạo tàn của CSVN..
Lần này, tôi gặp lại Sơn trên đất tạm dung, với niềm đau thất thổ ly hương
và cùng nhau kể lại những ngày đau tùi của quá khứ tù đày. Chúng tôi gặp
nhau qua “Chút Tình Chút Ý”. Chúng tôi gặp nhau qua thi phẩm của Nguyễn
Sơn xuất bản ở Hoa Kỳ năm 2005. Qua điện thoại gọi nhau, Sơn cũng nhắc lại
một thời quá khứ bị lưu đày nơi trại tù Hà Tây và Nam Hà. Tôi hình dung
nhớ lại Sơn còn có biệt danh biệt hiệu do bạn bè đặt cho lúc trong tù, là
Sơn Mỏng. Vì Sơn có thân hình mảnh mai, ốm yếu, nhưng trẻ trung vui tính
và đẹp trai, nên bè bạn ai cũng rất mến Sơn...
Chút tình Chút Ý.
Cũng từ lâu, tôi có nghe nhà báo Việt Hùng, chủ nhiệm tạp chí Phương Đông
ở Boston, Massachusetts, có gọi nhắc tôi, nhà thơ Thy Lan Thảo có ý muốn
gặp. Cũng may mắn tôi có số điện thoại của nhà thơ, nên đã gọi thăm, mới
biết ra Thy Lan Thảo là Nguyễn Sơn, là người bạn trẻ, là một trong số
những người lính trẻ của QLVNCH, từng bị CSVN giam giữ chung cùng trại tù
Hà Tây với tôi năm nào.
Ôi! may mắn thay! Nỗi vui mừng làm sao kể xiết. Có biết bao là kỷ niêm vui
buồn được nhắc lại, kể lại trong những ngày bị tù đày trên quê hương mình.
Tôi ngỡ như là trong giấc mộng chiêm bao. Vì từ lâu,tưởng chừng đời chúng
tôi như đã chết rồi. Cũng may, sau những năm lưu đày tủi hận, chúng tôi
còn sống sót đến hôm nay, lại gặp nhau trên xứ người, để cùng kể cho nhau
nghe những chuyện buồn của một thời quá khứ..
Thy Lan Thảo cũng có gửi tặng tôi quyển thơ có tựa đề “Chút tình chút ý”
với những dòng chữ do tự tay tác giả viết tặng “Để kỷ niệm những ngày
tháng ở trại tù Hà Tây và Nam Hà.”
Tôi nhận được tập thơ “Chút tình chút ý”, tôi chợt có cảm nghĩ, mình cũng
nên ghi lại đôi dòng về người bạn trẻ tùng là đồng đội, đồng cảnh năm xưa,
mà mãi cho đến giờ này vẫn còn giữ được tình nghĩa huynh đệ chi binh trong
lòng. Ngoài ra, còn chan chứa những nỗi niềm thất thổ ly hương do cái tình
đồng đội, đồng hương, đồng nghiệp do cùng làm thơ làm văn, ghi lại những
nỗi niềm thương tiếc của một thời.qua ở quê nhà
Được biết rõ thêm, Thy Lan Thảo sinh quán ở làng Tân Niên Trung, tỉnh Gò
Công. Là con út trong một gia đình giáo chức thời VNCH. Nói đến Gò Công,
đối với tôi không có gì xa lạ. Do tôi có môt thời gian, từng làm công tác
bình định xây dựng trong khu vực tỉnh Gò Gông, gần khu Cầu Nổi. Có lúc tái
thiết cầu Cần Đước, Cầu Ông Thìn trên đường từ Chợ Lợn đi Cần Giuộc xuống
Gò Công. Như vậy, Thy Lan Thảo cũng là người cùng quê với nữ ca sĩ Phương
Dung, từng nỗi danh với lời ái mộ của bà con thường gọi là “Con nhạn trắng
Gò Công”.
Gò Công cũng là vùng đất của lịch sử miền Nam, vùng đất của những vị anh
hùng dân tộc như Võ Tánh,Trương Định.. Của những bậc nữ lưu danh tiếng như
Hoàng Thái Hậu Từ Dũ, và Nam Phưong Hoàng Hậu. Gò Công từng nổi tiếng là
vùng đất của địa linh nhận kiệt..
Nói đến Gò Công là vùng đất mà tôi từng lưu lại những công tác xây dựng
như tái tạo các cầu đường trong vùng. Những kỷ niệm cùng đồng bào trong
vùng Cần Giuộc, Cần Đước, Hoà Đồng, Hòa Tân, Hòa Lạc.. Nhất là vùng Cần
Đước với hương vị mặn mà của các món đặc sản ở vùng này,như gạo Nàng Hương
chợ Đào, cùng mắm còng trộn với thơm Bến Lức, hòa lẫn với tình nghĩa đồng
bào và quê hương ngày đó thật là thắm thiết mặn nồng..
Khi gặp Sơn và biết Sơn là dân Gò Công, tôi có cảm tình quí mến Sơn như đã
có “chút tình chút ý” với Gò Công ngày nào. Được gặp Sơn, qua những dòng
thơ Thy Lan Thảo đã viết, dù là trong mơ, dù là bị thất thổ ly hương,
nhưng trong tiềm thức, trong tư tưởng vẫn một lòng hoài vọng về hướng quê
nhà nơi đất Gò Công
Quê hương ngàn dậm lòng ghi khắc
Hai
chữ Gò Công - âm thật êm
(Nỗi
nhớ trong mơ, thơ Thy Lan Thảo)
hoặc:
Chị ơi đất lạ lòng cô quạnh
Em
nhớ Gò Công, nén thở dài
(Lòng vẫn không nguôi, thơ Thy Lan Thảo)
Khi đọc thơ Thy Lan Thảo, thấy nhà thơ tuy trẻ, tuy làm lính xa nhà, tuy
bị tù đày khổ sai biệt xứ, nhưng trong lòng vẫn luôn luôn gắn bó với gia
đình, do lòng hiếu đạo,đã thương nhớ từng cọng rau tấc đất, cùng với những
giây phút êm đềm thắm thiết đậm đà của tình mẹ cha, nơi quê cha đất tổ,
qua những câu trong bài “Rau càng cua” như:
Đất Hà Tây rau càng cua chẳng có
Nằm
mơ thấy mẹ cắp rổ hái rau
Chợt
thức giấc nghe như mình nghẹt thở
Mẹ
thương con- ôi lai láng rạt rào
.........
Dĩa rau càng cua rưới thêm dầu giấm
Nước
tương dầm với ớt vậy mà ngon
Mẹ
với ba ảnh hình con ghi đậm
Nước
mắt quê hương trong dạ héo mòn!
Hoặc khi biết lũ giặc chuyển tù ra đất Bắc, lòng như tuyệt vọng:
Chuyển tù ra Bắc như đời ta hết
Mẹ
tuổi già đâu thể đến thăm con
Hai
năm trong Nam mẹ gắng thăm tìm
Sáu
năm đất Bắc mẹ thương mõi mòn..
(Rau càng cua, thơ Thy Lan Thảo)
Sau ngày 30/4/75, nhớ lại những ngày đầu vào trại tù ở miền Nam trước khi
bị đưa ra Bắc:
Ta ở đây dù chỉ một năm
Mỹ
Phước Tây triền miên cực khổ
Ta
nghe đầy lời chửi của bọn coi tù
Lũ
côn đồ có trái tim bằng đất..
(Về thăm lại Mỹ Phước Tây, thơ Thy Lan Thảo)
Rồi cờ gảy tao lưu đày ra Bắc
Mấy
lần đau tường rũ xác thiên thu
Trong tuổi thanh xuân nhọc nhằn héo hắt
Nhớ
lời cổ nhân: “nhất nhật tại tù”
(Viết cho thằng bạn, thơ Thy Lan Thảo)
Và cuộc đời bị lưu đày của nhà thơ cứ tiếp diễn trên đất Bắc Việt Nam::
Từng trại tù- Tết chầm chậm trôi qua
Xuân
Hà Tây- bụng đói mắt nở hoa
Tường chớn chở kẽm gai rào mấy lớp
Chiến hữu xưa gượng cười quên tiếng khóc
Mắt
đỏ nhìn thâm thẩm hướng trời Nam.
Dù biết bị lưu đày trong tuyệt vọng, nhưng tình nghĩa xưa mãi mãi vẫn còn.
Mày hơn năm năm trại Kiến Hòa
Tao
trại Hà Tây chuyển Nam Hà
Mày
vượt biên giả từ lũ quỷ
Cùng
đường tao cam chịu xót xa
........
(Viết cho thằng em, thơ Thy Lan Thảo)
Nhớ lúc chuyển trại, đến trại tù Nam Hà:
Đất đá Nam Hà bước máu loang
Trừng trừng mắt gửi sắc hao mòn
Phía
sau chút khói hoàng hôn đó
Là
gửi tấm lòng với nước non
Nằm trong hổn trận đành yên chịu
Rừng
núi Nam Hà ngăn lối đi...
(Đá dựng Nam Hà, thơ Thy Lan Thảo)
Cảnh lưu đày này cứ ngỡ sẽ mục gông trong nhà tù khám lạnh, nhưng cũng
may, nhờ thời thế xoay vần, thời cuộc biến đổi, giặc Cộng cùng đường hết
lối. Do kinh tế kiệt quệ và bị kẻ thù bao vây phong tỏa cấm vận, buộc lòng
chúng phải thả tù ra cứu đảng để mong được sống còn. Cũng nhờ thế mà mạng
của tù cải tạo còn, nếu không thì cũng toi mạng với chủ trương của CSVN
“trước sau như một” tức “trước nhốt sau giam”, “ở mãi không về” hoặc “kiên
trì cải tạo và cải tạo lâu dài” và “Rượt đuổi người đi và cầm tù người ở
lại”... Tất cả những câu, những khẩu hiệu đểu giả này là những ngón sở
trường sở đoản của CSVN.
Sau 8 năm ra tù, trở về Gò Công nhớ lại bạn bè:
Bạn cùng khóa bao nhiêu thằng nằm xuống
Bao
nhiêu thằng oan ngục chịu tù gông
Sau
ngục tù tao trở về hết muốn
Sống
ươn hèn- thà vùi xác biển Đông
(Nghĩ về bạn, thơ Thy Lan Thảo)
Đọc thơ Thy Lan Thảo với những dòng thơ trích dẫn như trên ta mới thấy
được cái nỗi đau của những người tù cải tạo bị Cộng sản trả thù một cách
hèn hạ. Nổi đau nhục này khó lòng mà hàn gắn, khó mà quên đi một cách dễ
dàng, Vì nó đã trở thành một nổi đau chung của dân tộc, của lịch sử. Nó đã
trở thành những kỷ niệm khó bôi xóa hết trong lòng. Đó là những kỷ niệm
khó quên, đối với đời người, với những người tù cải tạo, bởi thế:
Đừng trách tại sao nhắc hoài kỷ niệm
Bởi
lòng ta kỷ niệm quý hơn vàng
(Nghĩ về bạn, thơ Thy Lan Thảo)
Những kỷ niệm đau buồn trong cuộc đời bất hạnh của những người tù cải tạo
là những niềm đau sâu đậm đã trở thành một vết hằn sâu trong tim óc của
từng người, từng nạn nhân của Cộng sản. Do đó, thơ Thy Lan Thảo cũng đã
nói lên được nỗi đau chung của thời đại, của thời thất thổ lưu vong của
chúng ta.
Những ai chưa từng là nạn nhân của cảnh tù đày của Cộng sản, đọc thơ Thy
Lan Thảo trong thi tập Chút ý chút tình, cũng hiểu được cái nỗi đau của
tác giả,từng là người tù cải tạo tập trung trong trại tù Cộng sản, khi bị
lưu đày trên đất Bắc
Tao đi dưới sắc cờ tanh máu
Chiến bại thân hèn nhục khổ sai
Tám
năm sống kiếp tù “cải tạo”
Oan
khuất đời ta nhục đọa đày
(Tấm
lòng gửi bạn, thơ Thy Lan Thảo)
Thy Lan Thảo làm thơ và có lúc cũng mượn rượu để giải sầu, để giải bày cái
đau cái hận sau cái ngày bị tan hàng rã ngủ. Mục đích nói lên cái nỗi đau
chung, cái nỗi đau oan nghiệt của người lính sau ngày tàn cuộc chiến.bị
Cộng sản trả thù và ngược đãi
Rượu đế Gò Công trong sùi bọt
Nhậu
để quên tuổi thuở dập bầm
(Viết cho thằng em, thơ Thy Lan Thảo)
Hết phần đọc thơ
Trong pham vi nhỏ hẹp của bài viết này, khi đọc thơ Thy Lan Thảo, tôi chỉ
cố gắng chủ yếu muốn ập trung vào những nỗi đạu nỗi nhục của thân phận của
người lính bị gảy súng, bị làm thân chiến bại, bị tù đày khổ sai biệt xứ
do người Cộng sản trả thù sau cuộc chiến Việt Nam. Chưa nói đến, chưa kể
đến những nỗi lòng tha thiết với tình cảm, tình yêu thơ mộng, với mái tóc,
với vành môi khoé mắt, mà Thy Lan Thảo cũng từng đã viết qua thơ trong thi
phẩm “Chút ý Chút tình” như:
Không son phấn vẫn ý thơ tròn nụ
Mái
tóc ngày xưa, mái tóc bây giờ
Bạn
bè em bốn phương trời lữ thứ
Em
ngoan hiền mắt vẫn đẹp vẫn mơ
(Ngọt nụ xuân đời, thơ Thy Lan Thảo)
Do đó người viết chỉ kể riêng rẽ về chuyện tù đày.Giờ này nhớ lại có biết
bao kỷ nệm trong lao tù giữa nhà thơ và tôi, cùng anh em đồng đội.từng là
chiến hữu trong QLVNCH. Tôi nhớ khi tôi gặp Nguyễn Sơn là người tù năm
xưa,tức nhà thơ Thy Lan Thảo hôm nay, xuyên qua những dòng thơ chan chứa
nặng tình nặng ý. Thy Lan Thảo đã gói ghém trọn vẹn những nỗi lòng, nỗi
nhớ, nỗi đau của nhà thơ đem trang trải hết trên những dòng thơ mang nặng
“Chút ý chút tình”. Nên tôi đọc thơ Thy Lan Thảo như cảm thông thấy có
mình ở trong đó Thy Lan Thảo cũng thể hiện cho người đọc thơ thấy tấm lòng
của người con chí hiếu, nguời anh, người em có nghĩa tình. Kể cả cái tình
nghĩa cao quý với bạn bè bằng hữu, dù trong mọi tình huống, hoặc cảnh ngộ
của một khoảng đời, từ lúc ở quê nhà hay ra hải ngoại tạm dung.
Thy Lan Thảo là nhà thơ người miền Nam, cũng đã vận dụng khéo léo qua cách
dùng từ miền Nam trong những bài thơ của anh, cũng tạo nên những cái duyên
dáng, tự nhiên, đáng mến, như “ai đong nấy uống”, “dập bầm” “bụng phình
chưa” “Khều chân”..v..v.. Nói tóm lại những dòng thơ Thy Lan Thảo cũng
phong phú tình cảm cùng âm điệu nhẹ nhàng qua những sáng tác đã thể hiện
trong thi tập “Chút ý chút tình” Tất cả cũng đã tạo nên những ý và tứ thơ
rất hợp với tâm tình của một người mặc áo lính làm thơ. Mục đích để nói
lên tâm sự, để kể chuyên của đời mình, hoà lẫn với nỗi đau chung của bằng
hữu và của quê hương...
Nhân khi viết vội những dòng lưu niệm này, tôi cũng cảm thấy vui vui, khi
gặp lại người bạn trẻ năm xưa, một trong số những người lính trẻ của VNCH,
từng là tù cải tạo bị giam giữ chung nhau ở trại tù Hà Tây và Nam Hà.
Nguyễn Sơn ơi! hồi tưởng lại những năm tháng tù đày, khổ sai biệt xứ, đói
khát và tủi nhục, nhưng chúng ta còn sống sót đến ngày nay, để gặp nhau
lần này, cũng là phúc đức của Ông bà Tổ tiên ban cho nhiều lắm rồi.! Xin
cảm ơn Thượng Đế.! Xin cảm ơn những người bạn đã chết để cho chúng ta còn
sống đến hôm nay!. Nỗi vui này biết làm sao kể hết, nói sao cho trọn, cho
đầy.
Tôi cũng cảm ơn nhà thơ Thy Lan Thảo đã gửi tặng tôi thi tập này, để cùng
nhớ lại những ngày đau tủi bị lù đày khổ sai biệt xứ trên quê hương mình.
Cũng là dịp để “ôn cố tri tân” trước cái thảm cảnh người mình, sĩ nhục
hành hạ đánh đập mình. Trước cảnh dối trá bằng những thủ đoạn nói lời giả
nhân giả nghĩa, để đánh lừa mình và dối gạt đồng bào mình.như hiện nay.
Đồng thời cũng là dịp nhớ lại thời gian bị lưu đày khổ sai trên đất Bắc
Việt Nam. Coi như là một bài học cho thế hệ con em chúng ta biết qua, mục
đích để rút kinh nghiệm, một kinh nghiệm xương máu và nước mắt của cha anh
từng gánh chịu dưới chế độ bạo ngược của Cộng sản Việt Nam./
Austin, mùa hè năm 2008
Phạm Thành Tính
|