Cuộc chạy trốn Cộng-sản kinh hoàng trong lịch sử Việt Nam

 

Trúc Giang MN

 

 

 

 

1*. Mở bài

 

Tổng thống Joe Biden quyết định rút quân đội Mỹ ra khỏi Afghanistan vào ngày 11-9-2021. Tuy nhiên, trên thực tế, những quân nhân Mỹ sau cùng đă rời khỏi nước nầy vào ngày 31-8-2021.

 

Khi quân Taliban vào tới thủ đô Kabul, th́ cuộc di tản công dân Mỹ và những người Afghanistan liên hệ được thực hiện. Không có một kế hoạch tĩ mĩ đă chuẩn bị từ trước, như thời Việt Nam Cộng Ḥa. Quân đội Afghanistan cũng không có kế hoạch di tản. Có thể suy đoán là quân đội nầy không xứng đáng để được đưa sang Mỹ, v́ đó là quân đội ăn tiền của Mỹ, làm việc cho Mỹ mà trong ḷng không ưa Mỹ. Đó là một quân đội bệ rạc, tham nhũng, bè phái, không có tinh thần chiến đấu để bảo vệ những công tŕnh quư báu mà Hoa Kỳ đă đổ công sức và tiền bạc ra thực hiện cho người dân Afghanistan.

 

Trái lại, vào năm 1975, từ nhiều tháng trước khi quân Cộng Sản Bắc Việt vào chiếm Sài G̣n, Hoa Kỳ có hai chiến dịch đă được soạn thảo kỹ lưỡng. Những phương tiện và thời gian được xác định tỉ mỉ, rơ ràng từng bước một. Mục đích di tản công dân Mỹ và những người Việt Nam được xem là sẽ bị nguy hiểm (At Risk Vietnameses) dưới chế độ Cộng Sản.

 

Đó là hai chiến dịch: “Gió lốc” (Operation Frequent Wind) và Chiến dịch di tản trẻ sơ sinh (Operation Babylift). Đă có 50,493 người, trong đó có 2,548 trẻ mồ côi được di tản từ phi trường Tân Sơn Nhất. 

 

2*. ‘Nếu cái cột điện có chân th́ nó cũng chạy sang Mỹ’. 

 

2.1. Thuyền nhân Việt Nam

 

Những ngày trước 30-4-1975, người dân miền Nam đă t́m mọi cách để chạy nạn Cộng Sản.

 

Ở sứ quán Hoa Kỳ, hàng ngàn người hỗn loạn, t́m cách vào ṭa đại sứ với hy vọng được người Mỹ cho phương tiện di tản.

 

Ở bến tàu Sài G̣n, chật nức cả người, họ t́m mọi cách để xuống những chiếc tàu dân sự đưa ra khỏi nước. Chiếc tàu Việt Nam Thương Tín, là tàu lớn nhất, đă đưa 650 người tỵ nạn ra khơi.

 

Ḍng người vượt biển đă tạo ra sự kiện thuyền nhân (Boat People) làm kích động thương tâm cả thế giới, v́ những việc chết trên biển, v́ hải tặc Thái Lan hành hạ thân xác và giết chết. 

 

2.2. Ra đi bán chính thức

 

Người Việt và Việt gốc Hoa trà trộn vào chương tŕnh ra đi bán chính thức, do nhà Nước Việt Cộng tổ chức, mục đích đuổi người Hoa ra khỏi Việt Nam, gọi là « nạn kiều » trong vụ tranh chấp Việt-Trung năm 1979. Cụ thể là cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979.

 

2.3. Chương tŕnh HO.

 

HO là Humanitarian Operation, chiến dịch của Hoa Kỳ nhằm mục đích đưa những cựu tù nhân cải tạo sang Mỹ.

 

2.4. Chương tŕnh ODP

 

Người Việt Nam cũng không muốn sống trên quê hương của ḿnh dưới chế độ Cộng Sản, nên Hoa Kỳ mở chương tŕnh ODP để tiếp nhận người Việt vào nước Mỹ. ODP tiếng Anh là Orderly Departure Program.

 

Nói về chạy nạn Cộng Sản, th́ trong lịch sử Việt Nam cũng đă có đoàn người rời Hà Nội, di cư vào miền Nam để được sống tự do.

 

Ngày 9-11-1989, người Đông Đức đă đập nát bức tường ô nhục Bá Linh (Berlin Wall) để chạy sang Tây Đức, t́m tự do. Đó cũng là chạy trốn Cộng Sản rất kinh hoàng.

 

3*. Chiến dịch “Gió lốc” (Operation Frequent Wind)

  

3.1. Vài nét tổng quát về Chiến dịch Frequent Wind

 

Chiến dịch Gió lốc (Operation Frequent Wind) là một cuộc di tản bằng phi cơ và tàu thuyền của Hoa Kỳ, và của Việt Nam Cộng Ḥa, diễn ra từ ngày 29 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.

 

Có 50,493 người, trong đó có 2,548 trẻ mồ côi được di tản từ phi trường Tân Sơn Nhất. Các phi công đă bay tổng cộng 1,054 giờ, với 682 chuyến bay trong chiến dịch. Đă có hơn 7,000 người được di tản bằng trực thăng tại nhiều địa điểm khác nhau ở Sài G̣n.

 

3.2. 4 phương án của chiến dịch:

1. Phương án 1. Di tản bằng phi cơ dân sự tại phi trường Tân Sơn Nhất.

2. Phương án 2. Di tản bằng phi cơ quân sự

3. Phương án 3. Di tản bằng tàu thuyền từ cảng Sài G̣n

4. Phương án 4. Di tản bằng trực thăng, bóc người đưa đến các chiến hạm ngoài khơi.

 

3.3. Giai đoạn chuẩn bị

 

 

            Khu trục hạm USS Kirk     HKMH USS Hancock (CV / CVA-19)

 

Đây là một chiến dịch được chuẩn bị trước rất tỉ mỉ. Cả một hạm đội gồm 50 chiến hạm được huy động từ nhiều tháng trước ngày 30-4-1975.

 

Đầu tháng 3 năm 1975, khu trục hạm USS Kirk được lệnh nhổ neo từ căn cứ San Diego, để đi hộ tống hàng không mẫu hạm USS Hancock. Hàng không mẫu hạm Hancock được lệnh cặp bến Hawaii, để đưa những chiến đấu cơ lên bờ, dành chỗ trống cho những trực thăng vận tải của TQLC/HK, bốc người từ Sài G̣n đáp xuống hàng không mẫu hạm. Rồi hàng không mẫu hạm USS Hancock trực chỉ đến Biển Đông.

 

 

         USS Donald Cook (DDG-75)    HKMH USS Midway (CVA/CV-41) 

 

Chiếc USS Kirk bắt đầu vào cuộc, với Chiến dịch Eagle Pull để di tản 300 người Mỹ rời khỏi Phnom Penh. Campuchia thất thủ ngày 17-4-1975. Sau đó, chiếc USS Kirk xuôi xuống phía nam, hướng về Singapore để cùng với khu trục hạm USS Cook hộ tống hàng không mẫu hạm Midway, thả neo chờ tham gia chiến dịch Frequent Wind từ Việt Nam.

 

3.4. Kế hoạch bí mật, không chỉ cứu những con tàu.

Chiến dịch Frequent Wind do ông Richard L. Armitage phụ trách. Ông nguyên là một sĩ quan HQ/HK, lúc đó là đặc phái viên của Bộ QP/HK, thực hiện nhiệm vụ lập kế hoạch di tản những chiến hạm của HQ/VNCH, cụ thể là giải cứu những chiến hạm và kỹ thuật công nghệ được trang bị trên những chiến hạm đó. Nếu không giải cứu được th́ phá hủy, để không bị lọt vào tay CSBV, làm chiến lợi phẩm. Nhiệm vụ chính của ông Armitage là cứu những con tàu, không để lọt vào tay VC.


Khu trục hạm USS Kirk cùng thủy thủ đoàn 200 người, được lệnh đến đảo Côn Sơn, là nơi được chọn để tập trung tàu bè và người di tản tại đó.

 

Một vài tuần lễ trước ngày 30-4-1975, ông Armitage đă có mặt tại văn pḥng của người bạn thân là đại tá Đỗ Kiểm, Tư lệnh phó HQ/VNCH. Hai người lập kế hoạch giải cứu những chiến hạm của HQ/VNCH.

 

Đại tá Kiểm cho ông Armitage biết rằng, muốn đưa những con tàu rời VN, th́ phải cần thủy thủ đoàn, nhưng thủy thủ VN sẽ không đi, nếu gia đ́nh của họ không được đi theo. Kế hoạch cứu thoát những con tàu đưa đến việc di tản người lánh nạn Cộng Sản. Ông Armitage không báo cáo với thượng cấp về việc nầy, v́ lo ngại chính quyền Mỹ có thể không giải cứu họ.


Cả hai ông, đại tá Kiểm và Armitage không ước lượng được con số người di tản là bao nhiêu.

 

Ngày 28-4-1975, phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích và bị 5 phi cơ A-37 do Việt Cộng điều khiển, đă ném bom, nên di tản bằng phi cơ cánh cố định chấm dứt, và phương án Operation Frequent Wind, di tản bằng trực thăng bắt đầu.

 

3.5.  Chiến hạm USS Kirk bắt đầu tiếp nhận trực thăng di tản.


 

Ông Nguyễn Cao Kỳ và Ngô Quang Trưởng đến chiến hạm ngày 29-4-1975* Trực thăng bị xô xuống biển, dành chỗ trống cho trực thăng đáp.

 

Khu trục hạm USS Kirk là mục tiêu cho trực thăng đáp xuống.


Từ sáng sớm ngày 29-4-1975, USS Kirk loan báo, có một sân đáp dành cho trực thăng trên boong, nhưng suốt buổi sáng không có trực thăng nào đến cả. Măi đến xế chiều, một trực thăng UH-1 của KQ/VNCH dẫn theo 16 chiếc UH-1, 1 chiếc CH-47 Chinook khổng lồ có 2 chong chóng, và 1 chiếc vũ trang Cobra, cùng với 200 người di tản đă có mặt trên chiếc Kirk. Trong số UH-1, có 1 chiếc của Air America , là hăng hàng không của CIA.

 

3.6. Hỗn loạn ở Côn Sơn

Ngày 1-5-1975, chiếc Kirk đă có mặt ở Côn Sơn từ hừng sáng. Đă có 30 tàu HQ/VNCH, hàng chục tàu đánh cá và tàu chở hàng, đầy khẳm những người tỵ nạn ở khu tập trung nầy.


Ông Kent Chipman, một người thợ máy, lúc đó 21 tuổi, thuật lại: “Những con tàu nhồi nhét đầy người, tôi không thể xem bên dưới ḷng tàu, nhưng trên boong tàu th́ chật cứng, người san sát nhau”.

 

Một tài liệu lịch sử cho rằng có khoảng 30,000 người.

 

Một số tàu không c̣n chạy được, nên họ cùng lôi kéo nhau đi, v́ trên tàu có người chạy nạn Cộng Sản. Một chiếc quá khẳm nên đang ch́m. Nhiều người trên tàu nhảy xuống biển. Một trung úy HQ/VNCH nổ lực giúp hành khách rời khỏi chiếc tàu đang ch́m. Hành khách được chuyển sang tàu kế bên bằng một tấm ván gỗ hẹp. Cảnh hỗn loạn xảy ra.

 

Một người đàn ông ra tay đánh ngă một phụ nữ phía trước anh ta, cô bị rơi xuống biển, và được cứu vớt.


“Người trung úy VN không hề lưỡng lự, anh ta đến ngay sau anh chàng đó, rút súng bắn một phát vào đầu giết chết anh ta, rồi đá xác qua một bên, tiếp tục cứu người. Cú bắn thật kinh hoàng, nhưng ngăn chặn được hỗn loạn”. Ông Stephen Burwinkel, người y tá trên chiếc Kirk thuật lại như thế.

 

3.7. Các chiến hạm Hải quân Việt Nam Cộng Ḥa tự giải giới.

Đến thứ ba, ngày 6-5-1975, toàn thể hạm đội di tản của HQ/VNCH gần đến cảng Subic ( Philippines ).


Lệnh ban ra: “Tất cả những chiến hạm phải tự giải giới hoàn toàn”. Tàu chiến Mỹ cho những Cano cặp vào những chiếc tàu nầy để hốt hết súng ống, đạn dược.

 

Trên đường đi, thủy thủ và y tá Mỹ cung cấp nước uống, thức ăn, thuốc men và khám bịnh cho người tỵ nạn.


Trên đại dương, ở hải phận quốc tế, chiếc tàu nào đăng kư ở quốc gia nào, mang cờ nước nào, th́ được xem như là lănh thổ của quốc gia đó. V́ thế, một đứa trẻ được sinh ra trên tàu, th́ có quyền xin được mang quốc tịch của quốc gia của chiếc tàu.

 

Qua 6 ngày trên biển, trong 30,000 người tỵ nạn, đă có 3 người thiệt mạng và được thủy táng, v́ Philippines không cho phép mang xác chết lên nước họ.
Khi đoàn tàu đến gần Philippines th́ thuyền trưởng chiếc Kirk, nhận được một tin không tốt lành ǵ. Đó là chính phủ của Tổng thống Ferdinand Marcos e ngại rằng sự hiện diện của tàu HQ/VNCH có thể gây khó khăn về ngoại giao của họ, đối với chính quyền CSVN. Hạm trưởng Jacobs của chiếc Kirk kể lại: “Chính phủ Philippines không cho phép chúng tôi vào cảng Subic và đề nghị những con tàu nên trở về Việt Nam”.

 

Đại tá Đỗ Kiểm và ông Armitage đưa ra một giải pháp buộc Tổng thống Ferdinand Marcos phải chấp nhận. Đó là cờ VNCH được hạ xuống và trương cờ Mỹ lên, chứng tỏ những con tàu nầy là của Hoa Kỳ.


Mà thật, những con tàu nầy là của HK. Cơ sở lư luận là, trong chiến tranh, tàu HK được trao cho VNCH như là một khoản cho mượn để chống Cộng Sản, nhưng bây giờ chiến tranh kết thúc, HK thu hồi những chiếc tàu nầy trở lại. Thế là một cuộc t́m kiếm khó khăn, làm sao có đủ 30 lá cờ Mỹ trong lúc ở trên mặt biển.

 

Buổi lễ hạ cờ đầy tiếng khóc.

 

Hàng chục ngàn người VN trên các con tàu bắt đầu hát quốc ca. Cờ VNCH hạ xuống trong những tiếng bật khóc. Khóc. Và khóc… Chưa bao giờ có một buổi lễ hạ cờ đầy xúc động đến như thế.


Lănh thổ VNCH cuối cùng đă mất thật sự. Cái đau gậm nhấm khôn nguôi của người Việt miền Nam là mất nước. Những người c̣n lương tri th́ không nên quên nỗi nhục đó.

 

4*.  Chiến dịch di tản trẻ sơ sinh mồ côi  (Operation Babylift)

4.1. Chiến dịch

 

 

 

Operation Babylift là chiến dịch nhân đạo di tản trẻ em mồ côi với quy mô lớn của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam, diễn ra từ ngày 3 đến ngày 26 tháng 4 năm 1975.

 

Ngày 2-4-1975, Tổng thống Hoa Kỳ, Gerald Ford, tuyên bố là chính phủ Hoa Kỳ sẽ bắt đầu di tản trẻ em mồ côi từ Sài G̣n bằng một số tiền 2 triệu USD, qua một quỹ ngoại quốc đặc biệt giúp đỡ trẻ em. 30 chuyến máy bay vận tải C-5A Galaxy, được dự định để thực hiện chiến dịch này.

 

4.2. Hoàn cảnh buộc phải di tản trẻ mồ côi.

 

«Các em đă bị cha mẹ bỏ một lần rồi, không thể bị bỏ lần thứ hai, cho nên việc di tản trẻ mồ côi là đầy ḷng nhân đạo”. 

 

Những người ngoại quốc làm công tác thiện nguyện chăm sóc trẻ mồ côi quan niệm như thế.

 

Những trẻ mang tên là trẻ “mồ côi”, thật ra là đă có cha hoặc mẹ c̣n sống, nhưng v́ hoàn cảnh nào đó, họ đă từ bỏ các em, đưa vào cô nhi viện, mang tên trẻ mồ côi.

 

Một số những người chăm sóc các em là những người ngoại quốc vào VN làm công tác thiện nguyện cho các nhà thờ, và các tổ chức từ thiện nước ngoài. Họ phải rời VN trong hoàn cảnh vô cùng hỗn độn của những ngày gần cuối tháng 4 năm 1975, hàng chục ngàn gia đ́nh VN đang chờ di tản. Trẻ mồ côi cũng không thể bị bỏ rơi trong hoàn cảnh hỗn độn đó được. Có thể chết v́ không có ai chăm sóc.

 

Những người thiện nguyện HK đă nổ lực vận động, đưa các em ra khỏi VN để tiếp tục được chăm sóc và nuôi dưỡng. Các em đă bị cha mẹ bỏ một lần rồi, không thể bị bỏ lần thứ hai, cho nên việc di tản trẻ mồ côi là đầy ḷng nhân đạo.

 

4.3. Nhân vật điển h́nh là bà Betty Tisdale

   

 

 

 Bà Betty Tisdale được vinh danh ngày Thứ Sáu 30-4-2010 tại hội trường báo Người Việt

 

Bà Betty Tisdale, là người Mỹ thiện nguyện chăm sóc trẻ mồ côi, đă nổ lực chạy đôn chạy đáo để hoàn thành thủ tục làm hồ sơ xuất cảnh cho 219 trẻ sơ sinh rời VN. Bà Tisdale thuật lại: “Tôi chạy đến bịnh viện Nhi đồng, xin 225 mẫu giấy khai sanh, rồi điền vào ngày giờ và nơi sanh một cách nhanh chóng. Tôi hoàn toàn không biết những em bé nầy là con của ai, sinh ra lúc nào, nơi nào. Những ngón tay của tôi cứ viết đại, để tạo ra những bản khai sanh. Tôi tức tốc đến gặp đại sứ Graham Martin xin phương tiện di tản cho các em. Đại sứ bằng ḷng với điều kiện các thủ tục giấy tờ phải được chính phủ VN chấp thuận.”

 

Ông Edward Daly, chủ tịch World Aiways đang có mặt ở VN, trong lúc đó, th́ con gái của ông là một thiện nguyện viên đang ở Colorado, đánh điện xin ông giúp đỡ cho trẻ mồ côi được ra đi.

 

Khi doanh nhân Hoa Kỳ Robert Macauley nghe tin, là phải cần ít nhất 1 tuần để di tản các trẻ em mồ côi c̣n sống sót, ông đă mướn cả chiếc Boeing 747 của hăng Pan Am, và tổ chức để cho 300 trẻ em mồ côi có thể ra khỏi nước, trả tiền cho chuyến đi này bằng cách cầm ngôi nhà của ông.

 

Thật là một người Mỹ có ḷng nhân đạo vô cùng vĩ đại.  

 

Chiến dịch Babylift được thực hiện trong 3 tuần lễ, từ ngày 3-4-1975 đến ngày 26-4-1975. Tổng cộng có 26 chuyến bay, đă đưa 2,548 trẻ mồ côi đến Hoa Kỳ. Sau đó, các em được các gia đ́nh Mỹ nhận làm con nuôi.

 

4.4. Bắt đầu bằng tang tóc.

 

 

          Trẻ mồ côi trên chiếc Lockheed Martin C-5A bị tai nạn


Chiếc Lockheed Martin C-5A Galaxy, được xem là phi cơ vận tải lớn nhất thế giới, đă từng chở xe tăng và cầu quân sự nặng 70 tấn. Từ căn cứ không quân Clark (Philippines), C-5A được phái đến Sài G̣n, trong nhiệm vụ di tản trẻ thơ, bắt đầu từ ngày 4-4-1975.

 

Ngày 4-4-1975, lúc 4:15 chiều, sau khi 328 trẻ em và người lớn, trong đó có nhân viên sứ quán Mỹ và nhiều nhân viên của các đơn vị Mỹ, được đưa lên máy bay. Chiếc C-5A bắt đầu rời đường băng.


Khoảng 12 phút sau, cách phi trường Tân Sơn Nhất 64km, th́ một biến cố xảy ra. Cửa sau, nằm dưới bụng phi cơ, là nơi đưa hành lư lên tàu, đă bung ra và bị thổi bay mất. Hành khách bị gió mạnh xô ngă, nhiều người bị thương. Một nhân viên phi hành ngồi gần cửa bị hút bay ra khỏi phi cơ. Những người c̣n lại bất tĩnh do thiếu dưỡng khí. Hai phi công chính và phụ không c̣n điều khiển được phi cơ, nên quyết định trở lại Sài G̣n.

 

C-5A không phải là phi cơ chở hành khách, cho nên những mặt nạ tiếp dưỡng khí không được thiết kế cho trẻ em, v́ thế, các em được bế lên cao để gắn mặt nạ dưỡng khí vào. Linda Adam, một y tá quân y kể lại như thế.

 

Trên đường trở về, khi c̣n cách Sài G̣n 5km, phi cơ mất độ cao, lao ḿnh ầm ầm xuống cánh đồng lúa ngập nước, đụng phải con đê, găy làm 4 khúc, và b́nh xăng phát cháy.

 

Trên cánh đồng lúa thuộc khu vực Cát Lái, cảnh tang tóc với những xác người nằm vương văi trên bùn đất.


153 người thiệt mạng, trong đó có:


98 trẻ em. 34 nhân viên bộ QP/HK. 5 dân sự. 11 nhân viên KQ/HK. Và những y tá của nhiều quốc gia.


175 người sống sót.

 

Có nhiều giả thuyết về lư do xảy ra tai nạn: Cho rằng bị phá hoại do những người thân Cộng muốn phá kế hoạch di tản trẻ thơ. Do lỗi thiết kế của công ty Lockheed, và cho rằng phi cơ không được bảo tŕ chu đáo.

 

Người chị của một y tá thiệt mạng, đại diện cho các nạn nhân, đâm đơn kiện tập thể, đ̣i công ty Lockheed bồi thường 200 triệu USD. Việc điều tra được tiến hành, và cho măi tới năm 1990 vẫn chưa có kết quả.

 

5*. Những “di sản” của chiến dịch Babylift

 

5.1. Không có hồ sơ về lư lịch cá nhân.

Ngày 5-4-1976, tờ Time cho biết, nhiều trẻ em hoàn toàn không có hồ sơ về lư lịch cá nhân, đó là những con người không có họ và tên, không có giấy tờ chứng minh ngày và nơi sinh, quốc tịch…cho nên không thực hiện hồ sơ con nuôi.
Cục di trú và nhập tịch cho biết, có 1,671 em hợp lệ, và 353 không hợp lệ.

 

5.2. Bi kịch gia đ́nh

Nhiều trường hợp đau ḷng khó xử xảy ra.


- Bà Hà Thị Vơ

Người đă từng đưa 3 đứa con đi theo chương tŕnh Babylift, khi đến Mỹ, đưa đơn kiện, khi nhận ra đứa con út 3 tuổi tại một gia đ́nh nhận con nuôi, bà đ̣i con lại. Cậu bé không nhận bà, khiến cho nhà chức trách bác bỏ yêu cầu của bà.


- Bà Doăn Thị Hoàng An

Bà An ở bang Montana, nhận ḿnh là mẹ ruột của cậu bé Ben, 4 tuổi, được vợ chồng Johnny và Bonnie Nelson nhận làm con nuôi từ chương tŕnh Babylift.
Khi ra toà, cậu bé Ben không nhận bà Hoàng An, không có phản ứng trước những cử chỉ triều mến và thương yêu của bà Hoàng An, dù vậy, ṭa phán quyết cậu Ben thuộc về bà mẹ Việt Nam .


Thế là vợ chồng Nelson tiếp tục đưa đơn kiện lên toà thượng thẩm.

 

6*. Trở về cố hương

 

6.1. Trẻ mồ côi trở về Việt Nam trong vai trung tá Mỹ

 

 

 

Năm 2011, Kimberly Mitchell trở về cố hương với tư cách một nữ Trung Tá Hải Quân Hoa Kỳ. Cô thăm Sài G̣n và Đà Nẵng trong chuyến đi một tuần lễ.

 

Chuyến thăm tại trại mồ côi Thánh Tâm, nay là một tu viện, được coi là phần xúc động nhất của chuyến đi. Tại tu viện, Mitchell gặp “Sơ” Mary Trần Thị Hưởng, là người đă từng làm việc trong thời gian tiếp nhận em bé vào cô nhi viện, trong danh sách số 899. Với cái tên là Trần Thị Ngọc Bích, nghĩa là viên ngọc quư (Precious Pearl). 

 

Nữ quân nhân pḥng Xă Hội TQLC mang con tới đây, con mới có 4 tháng tuổi, và họ đặt tên con là Trần Thị Ngọc Bích. Họ nói mẹ con đă chết trên Đại Lộ Kinh Hoàng, con được một người lính VNCH cứu sống.

 

“Đây là chuyến thăm của một đời người, nghĩa là một lần duy nhất. Tôi chắc chắn sẽ không chờ 40 năm nữa để quay trở lại”, Mitchell thuật lại.

 

6.2. Câu chuyện của cô bé trong cái nón lá trên đại lộ Kinh hoàng, Mùa Hè đỏ lửa năm 1972.

 

 

1). Em bé trong chiếc nón lá


Hồi tháng 5 năm 1972, Thiếu úy Thủy Quân Lục Chiến Trần Khắc Báo đang hành quân trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” trong Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Ông gặp người lính Quân Cụ, đang ôm chiếc nón lá, trong đó có bé gái, dáng điệu mệt mỏi, kiệt sức, đang thất thểu chạy qua cầu Mỹ Chánh trên đường di tản khi tỉnh Quảng Trị lọt vào tay CSBV.

 

Người lính Quân Cụ giao chiếc nón lá đựng em bé cho Thiếu úy Báo, và cho biết, ông gặp bé gái đang trường trên bụng mẹ t́m vú để bú, nhưng người mẹ đă chết rồi.

 

Thiếu úy Trần Khắc Báo lúc đó là sĩ quan độc thân 24 tuổi. Ông đặt tên bé gái là Trần Thị Ngọc Bích và giao lại cho Pḥng Xă Hội của đơn vị.

 

Pḥng Xă Hội đưa em bé đến Cô Nhi Viện Thánh Tâm, Đà Nẵng để các d́ phước chăm sóc. 

 

2). Em bé mồ côi gặp may mắn

 

 

 

The record books at the Sacred Heart orphanage list baby #899: Tran Thi Ngoc Bich. (Kimberly Mitchell) 22-11-1971

 

Em bé Trần Thị Ngọc Bích được Pḥng Xă Hội Lữ đoàn TQLC đem đến Cô Nhi Viện Thánh Tâm, Đà Nẵng, giao cho các d́ phước chăm sóc. Số hồ sơ của em là 899, ngày 22-11-1971.


Một hôm, ông Trung sĩ Hoa Kỳ thuộc binh chủng Không Quân, phục vụ tại phi trường Đà Nẵng, tên là James Mitchell, đến Cô Nhi Viện xin nhận một em bé làm con nuôi. Em Trần Thị Ngọc Bích may mắn lọt vào mắt xanh của ông James Mitchell, và trở thành thành viên của gia đ́nh ông từ đó. Ông Mitchell cho biết, đất nước Việt Nam bị chiến tranh tàn phá, đổ nát. Ông muốn đưa một người ra khỏi Việt Nam để có đời sống tốt đẹp hơn. Đó là lư do ông xin con nuôi.

 

Sau khi rời khỏi binh chủng Không Quân, ông James Mitchell trở về Hoa Kỳ vào cuối năm 1972. Ông quyết định mang theo đứa con nuôi Trần Thị Ngọc Bích, lúc đó em mới được 6 tháng tuổi.

 

Hai ông bà Mitchell đặt tên Mỹ cho em là Kimberly Mitchell. Em ở tại trang trại của gia đ́nh tại Solon Springs, bang Wisconsin. Kimberly Mitchell lớn lên tại đây và được bố mẹ nuôi rất thương yêu, coi như con ruột. Em được đi học, tham gia thể thao và vào hội thanh niên. Lớn lên em vừa đi học vừa phụ giúp cha mẹ nuôi ḅ sữa và làm phó mát.


Khi đă có trí khôn, Kimberly Mitchell nhận thấy ḿnh không phải người Mỹ như bố mẹ, không phải con lai, không phải người Tàu. Cô không biết ḿnh là người nước nào và cứ mang cái thắc mắc đó măi. 

 

Một hôm, Kimberly Mitchell hỏi bố:

“Con muốn biết con người ǵ, nguồn gốc con ở đâu? Tại sao con lại là con bố mẹ?”

 

Bố nuôi James giải thích cho cô:

“Con là người Việt Nam, bố mẹ xin con từ trong viện mồ côi ở Đà Nẵng, Việt Nam. Nếu con muốn t́m nguồn cội của con, con có thể về Đà Nẵng, may ra t́m được tông tích của gia đ́nh con.”

 

Thế rồi sau đó, Kimberly Mitchell có chuyến về Việt Nam trong vai một Trung tá Hải Quân Hoa Kỳ. Tại tu viện, trước kia là Cô Nhi Viện Thánh Tâm, Sơ Mary Hưởng cho biết cô tên là Trần Thị Bích Ngọc (Precious Pearl), như đă nói trên.

 

3). Gặp lại cố nhân

 

 

Hồi tháng 3/1975, đơn vị TQLC của ông bị thất thủ, và ông Báo bị bắt làm tù binh. 

 

Măi đến năm 1981 ông được thả về (6 năm). Dưới chế độ Cộng Sản, ông Trần Khắc Báo đạp xích lô để nuôi gia đ́nh.

 

Tháng 9/1994 ông được sang Mỹ theo diện HO, định cư tại thành phố Albuquerque, bang New Mexico.

 

Ông Báo cho biết: “Sau khi ra tù Việt Cộng, tôi cũng cố t́m hiểu xem em bé Trần Thị Ngọc Bích nay ra sao, kể cả người lính Quân Cụ năm xưa, nhưng tất cả đều bặt vô âm tín. 

 

Hồi tháng 5 năm 2012, một hôm t́nh cờ tôi đọc được một bài viết của tác giả Trúc Giang trên tờ Việt Báo Hải Ngoại số 66 phát hành tại New Jersey, tác giả kể lại câu chuyện cô bé mồ côi trở về Việt Nam trong vai trung tá Hoa Kỳ. Cô đến thăm Cô Nhi Viện Thánh Tâm ở Đà Nẵng, và được biết tên ḿnh là Trần Thị Ngọc Bích”. 

 

Sau đó, ông nhờ người bạn tên là Đào Thị Lệ làm việc trong New York Life, có chồng người Mỹ, và có em cũng ở trong Hải Quân Hoa Kỳ, liên lạc t́m kiếm Mitchell. Và chính cô Đào Thị Lệ là người đầu tiên trực tiếp nói chuyện với Trần Thị Ngọc Bích đang làm việc tại Ngũ Giác Đài.

 

4). Cuộc gặp gỡ đầy xúc động

 

 

 

Cuộc hội ngộ, theo ông Báo cho biết, hoàn toàn do cô Kimberly Mitchell quyết định, địa điểm là trụ sở Hội Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia New Mexico vào Thứ Sáu, ngày 29-8-2012. 

 

Mitchell quyết định tổ chức một cuộc hội ngộ trước các cơ quan truyền thông. Cô xin phép đơn vị và mời được 7 đài truyền h́nh cùng một số phóng viên báo chí từ Washington, D.C. cũng như nhiều nơi về tham dự.

 

Ông Báo ngỏ ư ra phi trường đón nhưng cô Mitchell không muốn gia đ́nh ra phi trường cũng như không đến khách sạn tiếp đón. 

 

Cô muốn dành giây phút thật cảm động và ư nghĩa này trước mặt mọi người, đặc biệt là trước mặt các cơ quan truyền thông, và cô muốn ông Báo mặc bộ quân phục TQLC như khi ông tiếp nhận cô, và đưa đến Pḥng Xă Hội Sư Đoàn TQLC cách nay 41 năm.

 

Tại pḥng họp, gia đ́nh ông Trần Khắc Báo gồm vợ và con gái cùng bà Đào Thị Lệ đều có mặt. 

 

Khi ông Chủ Tịch Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia hỏi cô Kimberly Mitchell:

“Cô đến đây t́m ai?”

 

Cô trả lời:

“Tôi muốn t́m ông Trần Khắc Báo.”

 

Vị Chủ Tịch quay sang ông Báo đang mặc quân phục và giới thiệu:

“Đây là ông Trần Khắc Báo.”

 

Lập tức, Kimberly Mitchell Trần Thị Ngọc Bích tiến lại ôm lấy ông Báo và cả hai cùng khóc nức nở.

 

Giây phút xúc động qua đi, cô Kimberly hỏi ông Trần Ngọc Báo:

“Ông là người đă cứu mạng tôi, tôi mới có ngày hôm nay, tôi xin cám ơn ông, và bây giờ ông muốn ǵ ở tôi?”

 

Ông Trần Khắc Báo nói :

“Thực sự bây giờ tôi chỉ muốn cô nói với tôi một lời bằng tiếng Việt, cô hăy kêu tôi là “Tía”. V́ tất cả các con tôi đều gọi tôi bằng Tía, tôi xem cô cũng như con tôi, tôi chỉ mong điều đó.”

 

Và Kimberly Mitchell đă gọi “Tía”.

 

Ông Trần Khắc Báo nói:

“Bấy giờ tôi thực sự măn nguyện.”

 

Trong cuộc hội ngộ, trả lời câu hỏi của các phóng viên Hoa Kỳ, nữ Trung Tá Kimberly Mitchell cho biết, cô có ba cái may. 

 

Cái may thứ nhất là cô được t́m thấy và mang tới trại mồ côi. Cái may thứ hai là được ông bà James Mitchell bước vào trại mồ côi và nói với các Sơ rằng, ông muốn nhận em bé này làm con nuôi.” Và cái may thứ ba là nhờ bài báo của Trúc Giang mà cô gặp lại được ân nhân đă cứu mạng.

 

6.3. Phim Người con gái Đà Nẳng (The daughter from Da Nang)

 


1). Phim tài liệu 

Phim tài liệu The daughter from Da Nang được đề nghị lănh giải Oscar về loại phim tài liệu. Phim đă chiếm nhiều giải nhất trong các Đại Hội Điện Ảnh (Film Festival) Hoa Kỳ năm 2002: Sundane Film Festival, San Francisco International, Ojai Film Festival, Durango, Colorado, Texas, New Jersey International, Nashville, Cleveland.

 

2). Nội dung phim

 

Vào những ngày sau cùng của cuộc chiến VN, chính phủ Gerald Ford đă bỏ ra 2 triệu USD để mở chiến dịch Babylift. Gần 3,000 trẻ mồ côi từ VN sang Hoa Kỳ , Canada , Pháp và Úc để làm con nuôi.


Cuộc di tản bắt đầu bằng một tai nạn kinh hồn làm chết hàng trăm trẻ em.

 

Cuốn phim xoay chung quanh cuộc đời của Heidi Bub và trong chuyến đi t́m mẹ ruột sau 22 năm.

 

3). Nhân vật Heidi Bub

Heidi Bub sinh năm 1968 tại Đà Nẳng, con của bà Mai Thị Kim và một quân nhân Hoa Kỳ.


Chồng bà Kim là Đỗ Hữu Vinh, từ năm 1964, đă bỏ vợ và 3 con ở lại Đà Nẳng, chui vào mật khu theo Việt Cộng chống Mỹ.


Bà Kim vào làm công nhân trong căn cứ Mỹ ở Đà Nẳng. Ở đó, bà đụng một ông lính Mỹ rồi sanh ra Mai Thị Hiệp (Heidi)


Khi VC đánh vào Đà Nẳng, v́ sợ con lai Mỹ bị VC khủng bố, nên bà đưa con vào Hội Cha Mẹ Nuôi lúc Heidi 6 tuổi.

 

Khi sang Mỹ, Mai Thị Hiệp được bà Ann Neville, một phụ nữ độc thân, khoa trưởng ở một trường đại học, nhận làm con nuôi, tên là Heidi Bub.

 

Bà Ann Neville sinh sống ở bang Tennessee, thánh địa của kỳ thị chủng tộc Ku Klax Klan. Bà che giấu nguồn gốc và cố làm cho Heidi giống 101% như Mỹ để bảo vệ con.


Về vật chất, Heidi không thiếu thốn ǵ cả, nhưng t́nh cảm giữa hai mẹ con rất khô khan cằn cỗi, thiếu hẳn những bộc lộ t́nh thương mẹ con. Bà Ann quá nghiêm khắc. Cuối cùng, bà đuổi Heidi ra khỏi nhà mà không giải thích lư do.

 

Lúc 6 tuổi, Heidi tưởng rằng ḿnh không ngoan nên bị mẹ ruột từ bỏ. Lúc 22 tuổi, cô có mặc cảm, có lẻ ḿnh quá tệ hại nên đă bị mất mẹ hai lần.

 

Năm 22 tuổi, Heidi bắt đầu t́m mẹ ruột. Trong lúc đó, ở VN, bà Mai Thị Kim cũng ra sức t́m lại đứa con.


Năm 1991, mẹ con bắt liên lạc được, qua một nhân viên của sứ quán HK. Heidi bắt đầu học tiếng Việt.


Năm 1997, kư giả Trần Tương Như, người VN đầu tiên mà Heidi tiếp xúc tại Mỹ. Trần Tương Như giúp Heidi trong chuyến về VN gặp lại mẹ ruột.

 

4). Heidi Bub về đến Việt Nam

 

 

         Heidi gặp các anh chị cùng mẹ khác cha và hàng xóm

 

Tại phi trường Đà Nẳng, Heidi gặp lại mẹ ruột và các anh chị cùng mẹ khác cha. Tiếp theo là những tổ chức, như những bữa cơm đại gia đ́nh, viếng thăm hàng xóm, đi chợ…


Chỉ vài ngày sau, Heidi cảm thấy khó chịu, bị sốc v́ khác biệt văn hoá. Biên giới riêng tư của ḿnh bị xâm phạm.


Bà Kim muốn ngủ chung giường với Heidi để tâm sự suốt đêm, không muốn rời con, nhưng đối với Heidi th́ đó là một cuộc tấn công, lấn át không gian cá nhân. Heidi không có th́ giờ để suy nghĩ về những sự việc quá mới, quá xa lạ đối với ḿnh.

 

Heidi thật sự bị sốc khi các anh chị cho rằng cô có bổn phận phải cung cấp tiền bạc và làm đơn bảo lănh cho gia đ́nh sang Mỹ.

 

Heidi nghĩ rằng cô bị bóc lột và bị lợi dụng, nên đă đổi vé máy bay về Mỹ sớm hơn lịch tŕnh ấn định.


Khi về đến Mỹ, cô nhận được thơ của các anh chị khác cha, chủ yếu vẫn là tiền bạc và bảo lănh. Cô cảm thấy không sốt sắng để trả lời những bức thơ đó.

 

7* Kết luận

 

Khi nước Việt Nam Cộng Ḥa sụp đổ, Việt Cộng áp dụng chế độ độc tài rất tàn bạo, là cướp của giết người trong chiến dịch gọi là «Cải tạo công thương nghiệp», nôm na là đánh tư sản. Người giàu làm ăn lương thiện cũng bị cướp của, tịch thu tài sản và cho vào tù.

 

Người dân bị xua đuổi đến những vùng rừng núi, khỉ ho c̣ gáy, gọi là vùng kinh tế mới. Bị bỏ đói nên người dân phải ăn bo bo, một thức ăn của súc vật. Phải ăn độn các thứ khoai. Việt Cộng dùng chế độ kềm kẹp người dân bằng hệ thống công an trị. Ngoài công an khu vực, kiểm soát vài chục gia đ́nh, tổ dân phố mỗi phường được thành lập để người dân ḍm ngó, theo dơi lẫn nhau.

 

Bần cùng hóa nhân dân bằng những đợt đổi tiền. Người giàu, người nghèo ǵ, bất kể số tiền đem đến nạp là bao nhiêu, tất cả đều nhận một số tiền bằng nhau. Gọi là b́nh đẳng xă hội.

 

Người dân bị kềm kẹp chặt chẽ, không dám than phiền, mà chỉ trách ông trời mà thôi. Có câu:

 

Chung quy cũng bởi vua Hùng

Sinh ra một lũ nửa khùng nửa điên

Thằng giàu th́ đă vượt biên

Thằng nghèo ở lại nửa điên nửa khùng

 

Cũng rất may, là người Mỹ và nước Mỹ đă mở rộng ṿng tay nhân đạo, đùm bọc và cho người Việt Nam tỵ nạn Cộng Sản có quyền b́nh đẳng đối với người bản xứ. Cho nên các thế hệ hậu duệ của Việt Nam Cộng Ḥa có cơ hội chiếm được những chức vụ quan trọng trong việc phục vụ nước Mỹ, là quê hương thứ hai yêu mến của người tỵ nạn Việt Nam.

 

 

Trúc Giang

Minnesoata ngày 8-9-2021    

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính