Vinh Danh QLVNCH nhân Kỷ Niệm ngày 19-6

 

 

Kính gởi quư Niên Trưởng, quư Huynh Trưởng và quư Chiến Hữu QLVNCH

Trích Yếu: Kỷ Niệm Ngày Quân Lực và Cuộc Chiến Chính Nghĩa của VNCH.

 

Hằng năm, nhân ngày kỷ niệm 19 tháng 6, nhiều đoàn thể chiến sĩ QLVNCH họp mặt để ôn lại quá khứ, kiểm điểm các công tác đă thực hiện trong thời gian qua và dự trù kế hoạch cho tương lai.

 

1- Để tri ân những chiến hữu đă hy sinh v́ tổ quốc.

2- Để tương thân tương aí, phát triển t́nh huynh đệ chi binh. 

3- Để nuôi dưỡng tinh thần phục quốc và quyết tâm bảo vệ chính nghĩa quốc gia.

4- Để đóng góp vào công tác tái lập tự do, dân chủ, và toàn vẹn lănh thổ cho VN.

 

Diễn tŕnh h́nh thành QLVNCH

 

(1)-Hiệp ước Pháp-Việt ngày 5-6-1948 tại Vịnh Hạ Long công nhận VN là một quốc gia độc lập.

 

(2)-Sau đó Hiệp Ước ngày 8-3-1949 tại điện Elysée,  Pháp giúp VN thành lập quân đội quốc gia.

 

(3)-Hiệp Ước ngày 23-12-1950, Pháp –Việt- Mỹ kư thỏa ước hỗ tương, pḥng thủ, viện trợ quân sự cho Quốc Gia Viêt Nam trở thành tiền đồn chống Cộng v́ Mao Trạch Đông đă chiếm Hoa Lục địa năm 1949 và Tưởng giới Thạch di tản ra đào Đài Loan. 

 

Ngày Quân Lực

 

Thông thường ngày Quân lực là ngày thành lập quân đội hoặc là một ngày đặc biệt để vinh danh quân đội của một quốc gia. Ngày Quân Lực Hoa Kỳ (US Armed Forces Day) được định vào thứ bảy, tuần lễ thứ 3, tháng 5 mỗi năm.

 

Việt Nam Cộng Ḥa định ngày 19 tháng 6, năm 1965 làm Ngày Quân Lực,  là ngày đầu tiên trong lịch sử và pháp chế sử quân đội Việt Nam Cộng Hoà lănh nhận trách nhiệm quản trị quốc gia. Trách nhiệm này, ngày nay sau 48 năm lui binh, chúng ta vẫn c̣n hai vai gánh nặng sơn hà, cho đến khi nhà nước yên “sĩ mới được thung dung”.

 

Quân lực Việt Nam Cộng hoà  được h́nh thành qua các giai đoạn:

(1) Giai đoạn 1946-1949 là giai đoạn lập các lực lượng quân sự gồm có Vệ Binh Nam Việt, Bảo Vệ Quân Trung Việt và Bảo Chính Đoàn Bắc Việt.

 

 (2) Giai đoạn 1949-1955: Chiếu Hiệp Ước Élysée năm 1949, Quốc Gia Việt Nam được thành lập Vệ Binh Quốc Gia với quân số 60,000 người. Các đơn vị Vệ Binh Nam Việt, Bảo Vệ Quân Trung Việt và Bảo Chính Đoàn Bắc Việt được chuyển qua Vệ Binh Quốc Gia. Năm 1949, Mao Trạch Đông chiếm Trung Hoa lục địa và Tưởng Giới Thạch phải di tản ra đảo Đài Loan. Để đối phó với t́nh h́nh khẩn trương, bán đảo Đông Dương có thể bị CS hoá. Hiệp Ước ngày 23-12-1950, Pháp –Việt- Mỹ kư thỏa ước hỗ tương, pḥng thủ, viện trợ quân sự cho Quốc Gia Viêt Nam trở thành tiền đồn chống Cộng tại Đông Nam Á. Quốc Gia Việt Nam ban hành luật động viên và lập các trường huấn luyện Binh Sĩ, Hạ Sĩ Quan và Sĩ Quan, trong đó có Trường Sĩ Quan Nam Định, Trường Sĩ Quan Thủ Đức năm 1951 và di chuyển Trường Sĩ Quan Đập Đá Huế lên Đà lạt. T́nh h́nh chiến sự biến chuyển nhanh chóng. Trung Cộng hỗ trợ Việt Minh mở các trận đánh ở Bắc Việt nên Trường Sĩ Quan Nam Định huấn luyện được một khóa th́ ngưng hoạt động.

 

Trong thời gian 1949- 1955, Vệ Binh Quốc Gia đă tham chiến, càn quét phiến loạn Việt Minh từ Nam chí Bắc. Trong trận đánh Điện Biên Phủ, Việt Minh đă hy sinh hơn 30 ngàn quân để làm áp lực đưa vấn đề VN ra Hội Nghị Geneve. Hiệp Ước Geneve do Thực Dân và Công Sản kư kết ngày 20 tháng 7 năm 1954, chia cắt Việt Nam ra làm hai miền Nam (Quốc Gia), Bắc (Cộng Sản).

 

Năm 1955, chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa được thành lập và quân đội Quốc Gia Việt Nam được đổi danh xưng thành Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa và từ năm 1965 được mệnh danh là Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Quân Lực VNCH từ 60,000 quân năm 1950, tăng quân số đến hơn 1 triệu quân năm 1975.

 

Cộng sản Hà nội, điên cuồng v́ tham vọng lập công với Cộng Sản Quốc Tế và theo di chúc của Hồ Chí Minh, quyết xâm lăng miền Nam để dâng Việt Nam cho Nga Sô và Trung Cộng, dù phải hy sinh đến người Việt cuối cùng.

 

 QLVNCH đă chiến đấu mănh liệt trên mọi chiến trường nhưng đến năm 1975, v́ thiếu phần tăng viện của Thế giới tự do, đành phải lui binh.

 

 Sau 48 năm, người Việt quốc gia hải ngoại cũng như quốc nội vẫn không an ḷng v́ quốc dân c̣n sống trong cảnh lầm than, cơ cực về thể xác và cưỡng bức về tinh thần trong chế độ độc tài đảng trị của Cộng sản Hà nội, một ngụy quyền nổi tiếng “hèn với giặc và độc ác với dân”.

 

Đồng bào quốc gia quốc nội cũng như hải ngoại vẫn hănh diện về cuộc chiến chống CS vô thần v́ đó là một cuộc chiến chính nghĩa (a just war) theo tinh thần thượng vơ được các triết gia quốc tế, kể cả ư kiến hai vị Thánh Augustin (354-430) và Thánh Thomas Aquinas (1225-1274) về các tiêu chuẩn được quốc tế công nhận về chiến tranh chính nghĩa.

 

 (1) VNCH chiến đấu để bảo vệ tự do, dân chủ và phú cường cho toàn dân miền Nam Việt Nam chống lại Cộng sản Hà nội xâm lăng, là một cuộc chiến tự vệ chính đáng (just cause);

 

(2) VNCH là một chính phủ hợp pháp do toàn dân miền Nam tấn phong qua các cuộc bầu cử tự do nên có trách nhiệm bảo vệ sinh mạng, tài sản và các tự do căn bản do Tạo hoá ban cho con người. Chính phủ VNCH có thẩm quyền mời gọi sự hỗ trợ của các quốc gia tự do trợ lực ngăn chặn CS xâm lăng (lawful authority);

 

(3) Bảo vệ chính nghĩa chống quân xâm lăng là nghĩa vụ thiêng liêng của mọi công dân trong một quốc gia tư do (good intention);

 

(4) VNCH tiến hành cuộc chiến chống quân xâm lăng trong tinh thần người Việt cao quư, nhân đạo, về cả quân sự lẫn chính trị (đối xử nhân đạo với tù binh, chiêu hồi các cán binh lầm đường lạc lối, tái lập đời sống an cư lạc nghiệp sau khi quy chánh) (reasonable treatment);

 

(5) Phương tiện và cường độ chiến đấu hợp lư, tương xứng với những thiệt hại về nhân mạng và tài sản do đối phương gây nên hay chiến tranh có giới hạn. VNCH đă không tiến quân ra Bắc Việt để tiêu diệt phiến Cộng (means proportion);

 

 (6) VNCH tôn trọng mạng sống của đồng bào, di tản thường dân ra khỏi trận địa (no innocent people harm). Trong lúc đó, cộng quân tàn sát dân chúng trong các vùng bị chiếm đóng, pháo kích bừa băi vào các vùng đông dân cư, đô thị, trường học hay dùng dân chúng làm bia đỡ đạn cho chúng;

 

(7) VNCH tuân thủ lệnh hưu chiến (International Conventions obeyed). Cộng sản xâm lăng chủ trương vô độc bất trượng phu, vi phạm lệnh hưu chiến như trường hợp Tết Mậu Thân 1968, sát hại hàng chục ngàn thường dân vô tội. Ngoài ra đảng CS Hà nội vi phạm các công ước quốc tế. nhất là vi phạm Hoà Ước Ba Lê năm 1973, xâm lăng VNCH, thanh trừng, bắt bớ giam cầm trái phép dân, quân, cán, chính VNCH.

 

Dù đang ở quê nhà hay hải ngoại, những chiến tích oai hùng của QLVNCH vẫn được đồng bào ca ngợi. Quốc Kỳ và Quân Kỳ VNCH vẫn tung bay trong tâm hồn người Việt quốc gia.

 

Chính nghĩa của chính phủ VNCH và danh dự của QLVNCH ngày càng tỏ rạng.

 

Kỷ Niệm Ngày Quân Lực để ghi ơn những vị anh hùng dân tộc đă vị quốc vong thân, kết chặt thân t́nh, kết tinh chí hướng trong đại nghiệp bảo quốc, an dân.

 

Mong sao cho đồng bào quốc nội sớm được sống yên b́nh trong dân chủ và được hưởng mọi quyền tự do căn bản của con cháu Lạc Hồng.

 

Xin Ơn Trên phù hộ chúng ta

 

Kính thư

 

 

Trần Xuân Thời

Tổng Hội CSV SQTB QLVNCH

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính