Trường Quốc Học Huế

 

Trần Xuân Thời

 

 

Các trường trung học thường mang tên một danh nhân như Pellerin, Taberd, Puginier, Pétrus Kư, Chu Văn An, Trưng Vương, Gia Long… nhưng đặc biệt một ngôi trường tọa lạc tại đất thần kinh, biểu tượng cho nền giáo dục quốc gia mệnh danh là “Trường Quốc Học” (Collège National) sánh với danh xưng “Quốc Học Viện” vào đời nhà Trần…

 

Quốc Học, trường trung học đầu tiên của Việt Nam, được thành lập năm 1896 năm Thành Thái thứ 8. Tên trường “Quốc Học” cũng thăng trầm theo vận nước nổi trôi. Năm 1907, chính phủ bảo hộ Pháp đă ép Vua Thành Thái thoái vị và phong Vua Duy Tân lên kế vị. Năm 1916 Vua Duy Tân bỏ kinh thành theo nghĩa quân kháng chiến chống Pháp. Người Pháp phong Vua Khải Định kế vị Vua Duy Tân. Vua Khải Định băng hà năm 1925. Vua Bảo Đại nối ngôi và muốn vinh danh tiên đế nên đổi tên trường Quốc Học thành trường Khải Định. Sau năm 1954 trường được đổi tên là Trường Ngô Đ́nh Diệm, nhưng đến năm 1956, dưới thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, châu lại về hiệp phố, danh xưng Quốc Học lại trở về với mái trường xưa.

 

Quốc Học đă đào tạo biết bao nhiêu nam thanh nữ tú phục vụ trong mọi ngành sinh hoạt của quốc gia. Năm nay, lễ kỷ niệm 127 năm (1896-2023) Quốc Học không những sẽ diễn ra tại miền sông Hương núi Ngự, chốn cố đô nghiêm mật mơ màng mà sẽ được cử hành khắp năm châu bốn bể v́ ngày nay đâu đâu cũng in h́nh dấu vết của cựu học sinh Quốc Học.

 

Nếu quan niệm gặp nhau là một cơ duyên, vào chung trường, ngồi chung lớp là một sự tiến bộ và cùng tốt nghiệp ra trường là một sự thành công th́ những cựu học sinh tốt nghiệp Quốc Học đều đă công thành danh toại.

 

Tôi c̣n nhớ vào năm 1958, khoảng cuối hè và đầu thu, tôi nạp đơn vào lớp Đệ Tam Quốc Học. Như truyền thống đă định tất cả ứng viên phải trải qua một kỳ thi nhập học. Tôi không nhớ đă thi những môn ǵ nhưng đây là một loại "contest” đă loại một số học sinh không được nhận vào ngôi trường nổi tiếng nầy.

 

Năm Đệ Tam là năm học tà tà, dưỡng sức cho năm đệ nhị chuẩn bị xông pha trường thi trận bút. Năm Đệ nhị “t́nh h́nh chiến sự” có vẻ gây cấn hơn, chẳng những phải “gạo” bài cho đệ nhất và đệ nhị lục cá nguyệt mà c̣n phải học kỳ cho kỳ thi Tú tài I cuối năm. Thường thường tôi dùng 2/3 th́ giờ để học bài thầy giảng trong chương tŕnh và 1/3 đọc thêm những ǵ không được giảng dạy nhưng có liên quan đến chương tŕnh như thế sẽ khỏi bỡ ngỡ khi đề thi liên hệ đến kiến thức tổng quát. Cũng theo cách học nầy mà tôi trúng tuyển dễ dàng hai kỳ Tú tài I và II.

 

Đă khá lâu nên không nhớ rơ hết các đề thi, duy chỉ có hai đề thi có phần lư thú nên khó quên. Đó là đề thi Tú Tài I-1960 về văn chương VN “Con người do 3 yếu tố tạo thành: Địa phương, giống tộc và thời đại, bạn hăy căn cứ vào văn chương thế kỷ thứ XIX để chứng minh câu nói trên”. Đề thi nầy phỏng theo đề thi “Dissertation litteraire “, kỳ thi BAC I tại Paris, thập niên 1950, về văn chương Pháp, thế kỷ thứ XIX mà tôi đă có dịp đọc qua luận văn bằng Pháp ngữ, chỉ khác là thay v́ luận về văn chương Pháp th́ luận về văn chương Việt Nam thế kỷ thứ XIX. Nền giáo dục Tậy phương có ưu điểm là thường in lại các đề thi và bài giải vế văn học, triết học cũng như toán học... khoa học của các kỳ thi trong quá khứ để giúp học sinh tự luyện thi. Nền giáo dục Viêt Nam thời bấy giờ chưa đạt đến tŕnh độ đó.

 

Khi c̣n học lớp Đệ Tứ, tôi và vá người bạn khác như thường mở các đề toán Géométrie và Algèbre trong sách hoc tṛ (Livre de L’Élève) ra làm thử. Bài nào không giải được th́ mở sách của thầy (Livre du Maitre) ra xem bài giải. Cứ như thế mà giải hết các bài trong sách của Gs Bossé th́ rất dễ dàng giải quyét các nan đề trong pḥng thi.

 

Đề thi triết Tú tài 2-1961 cũng rất gọn gàng và dễ nhớ “Vai tṛ của trí tuệ trong tri giác ngoại giới”. Trong cả hai trường hợp, đọc qua đề thi th́ h́nh như dàn bài đă có sẵn trong trí, tôi viết một mạch 3 giờ liền, đọc lại và nạp bài, ra khỏi pḥng thi, thấy rất thoải mái v́ chẳng những không “bí” mà c̣n viết thao thao bất tuyệt, tự biết thế nào cũng “dính”.

 

Tuy vậy, những lần đi nghe xướng danh cũng rất hồi hộp. Cái hồi hộp lư thú của tuổi học tṛ. Những năm học ở trung học thi cử liên miên khiến cho học sinh phải lo âu thường trực. Càng lo âu th́ càng dễ trở nên thất vọng. Có người không chịu nổi cái “đệ nhất buồn là cái hỏng thi” nên phải quyên sinh. Học chế của ḿnh kể ra cũng khắc khe. Cô, thầy th́ nghiêm khắc v́ “Giáo bất nghiêm th́ sư chi đọa”. Bài vở phần lớn học thuộc ḷng, vận dụng trí nhớ nhiều hơn suy luận. Chúng ta thuờng nghe nói: “gạo như gạo vạn vật…”

 

Bây giờ th́ tất quả đều quá văng, có c̣n lại chăng chỉ dư âm thôi!

 

“Thôi đă xa rồi vạn gót hương

Của người đẹp đến tự muôn phương

Xa rồi những bước không ḥ hẹn

Đă bước trùng nhau một nẻo đường”

 

Nẻo đường Quốc Học của thời niên thiếu vẫn luôn luôn chập chờn trong trí tưởng với h́nh ảnh của con sông xưa, thành phố cũ.

 

“Áo em lụa trắng sông Hương

Qua đ̣ Thừa Phủ nhớ thương rạt rào”

 

Nỗi nhớ, niềm thương đó vẫn canh cánh bên ḷng như bản nhạc vàng ru trọn đời ḿnh. Dù v́ quốc biến nên

 

”Có những người đi không về.

Xa xôi rồi quên ước thề”!

 

 Hoài niệm về trường xưa, bạn cũ không chỉ là hoài niệm đơn thuần t́nh cảm mà c̣n tiềm ẩn tinh túy của Quốc Học là những ǵ lưu lại sau khi đă quên hết “La culture (de QH) c’est ce qui reste après on a tout oublié”.

 

Xuất thân từ Quốc Học cũng như xuất thân từ cửa Khổng sân Tŕnh. Con người hấp thụ được tinh hoa của cổ và tân học. Nếu con người do ba yếu tố tạo thành: Hoàn cảnh, thời đại và giống tộc th́ Quốc Học đă là hoàn cảnh, là môi trường tốt cho cựu học sinh triển nở, khiến cho nam thanh, nữ tú hàng hàng lớp lớp từ thế hệ này sang thế hệ khác xuất thân từ ngôi trường thân thương nầy và đă trở thành biết bao anh tài cho Tổ quốc.

 

Cái tinh hoa của nền Quốc Học là ngoài khả năng, kiến thức tổng quát, cựu học sinh được bồi dưỡng tinh thần bằng niềm hănh diện về trường xưa, bạn cũ và quan niệm về giáo dục qua phong cách giảng dạy, lối sống và triết lư giáo dục của nền Quốc Học Việt mà một vị Nho sĩ, Cụ cố Ngô Đ́nh Khả, đă được bổ nhiệm nhậm chức Chưởng Giáo của Quốc Học.

 

Triết lư giáo dục nhân bản nhằm chủ đích không những làm cho con người giỏi giang hơn (trí dục) mà chính là làm cho con người sống cao thượng hơn (đức dục). Ngày nay học tập để ngày mai giúp đời. Giúp đời chứ không chỉ biết vinh thân ph́ gia. Nguyễn Du Tiên sinh rất hữu lư khi nói lên triết lư hành động qua lời Từ Hải:

 

“Phong trần mài một lưỡi gươm.

Những loài giá áo túi cơm sá ǵ”.

 

Lưỡi gươm đây c̣n mang ư nghĩa là đem sở học và sự hiểu biết để phụng sự nhân quần xă hội, sửa trị những sự việc trong xă hội cho chính trực như tinh thần Nguyễn Công Trứ

 

“Trong lăng miếu ra tài lương đống.

Ngoài biên thùy rạch mũi Can tương”.

 

Lợi ích của sự giáo dục là để phát triển kiến thức về luân thường đạo lư (đức dục) và kiến thức chuyên môn (trí dục). Nền Quốc Học chủ trương “Tiên học lễ hậu học văn” chú trọng đến sự phát triển con người toàn diện về cả ba khía cạnh đức dục, trí dục và thể dục, cốt đào tạo những người có đức hạnh, trí óc sáng suốt, có liêm sỉ, để cải taọ xă hội chính trị, hơn là chỉ chú trọng đào tạo những người có kiến thức chuyên môn như nền giáo dục Tây phương.

 

Nhận chân được khuyết điểm là có khoa học mà vô lương tâm chỉ đem lại phiền năo, bại hoại tâm hồn. “Science sans conscience n’est que ruine de l’âme”, ngày nay nhiều đại học ở Tây phương t́m cách nhân văn hóa các chương tŕnh khoa học bằng cách đưa các môn triết học, nhân chủng, xă hội, đạo đức, tâm lư… vào khóa học để giúp sinh viên tốt nghiệp sẽ trở nên con người toàn diện, hiểu người, biết ḿnh hơn là con người kỹ thuật, máy móc (robot).

 

Sự học tô điểm cuộc đời, giúp chúng ta khám phá những kỳ hoa dị thảo trong vườn hoa kiến thức của nhân loại. Càng hiểu biết con người càng trầm tĩnh, ít lo âu, ít hoảng hốt, tâm bớt động và nhờ đó thái độ được trầm tĩnh và tránh đuợc lầm lẫn hay sợ sệt:

 

(1) Ít lo âu v́ nhận diện được vấn đề và biết cách ứng phó đúng với câu “Khi vui đến th́ hăy vui mà chớ kiêu căng, tự phụ, khi tai họa đến th́ phải suy nghĩ mà chớ buồn phiền” Chính nhờ sự suy nghĩ mới có thể mưu sinh thoát hiểm thay v́ buồn phiền sẽ sinh ra nản chí và thất hại.

 

(2)Tránh được lầm lẫn là nhờ khả năng nhận biết phải trái, phân rơ trắng đen qua kinh nghiệm giải quyết sự việc của tiền nhân và của người đương thời. Ngày nay khoa quản trị học (management science) đào tạo những chuyên viên quản trị biết kỹ thuật tổ chức, điều hành và phương pháp giải quyết vấn đề.  Tiêu chuẩn phán xét phải, trái, không hẳn do ư kiến của một cá nhân, v́ ư kiến cá nhân có khi lầm lẫn. Do đó ư kiến đúng hay sai phải là ư kiến của đa số trong một hoàn cảnh và thời gian nào đó. Tiêu chuẩn đúng sai do đa số quyết định “What is right or wrong being determined by the will of the majority” (John Locke– 1679). Ư kiến của đa số hay là ư chí chung có thể được tham khảo qua nhiều phương thức hoặc do phong tục tập quán lấy ư kiến chung ở chốn đ́nh trung, hoặc do biểu quyết, hay trưng cầu dân ư qua lá phiếu.

 

(3) Ít sợ sệt v́ hiểu được vấn đề, không lo ngại và chấp nhận dấn thân mà không e dè sợ sệt, hùng tâm dũng chí. Giáo dục giúp con người trưởng thành về trí tuệ, nhờ hấp thụ kiến thức xuyên thế hệ, kim, cổ (transgenerational),qua sách sử truyền lại.

 

Với ba đặc điểm ít lo âu, tránh lầm lẫn, ít sợ sệt; người khôn ngoan thường nhận xét sự việc một cách khách quan, theo lẽ phải hơn là thiên kiến. Để đạt đến tính cách khách quan, sự nhận xét phải có tính cách vô ư, vô tất, vô cố và vô ngă:

 

(1) Vô ư: không khư khư theo ư riêng của ḿnh mà phải chấp nhận bàn bạc để t́m ra lẽ phải và làm theo lẽ phải để tạo sự đồng thuận trước khi thi hành công tác. “Discussion is the anvil upon which the spark of the truth is struck”. Tiếp xúc cá nhân, chia sẻ và đối thoại là phương thức để t́m ra lẽ phải.

 

(2) Vô tất: Đừng vội quyết đoán là công việc làm được hay không làm được mà phải tạo cơ hội để thực hiện mới biết dễ hay khó. Không nên chủ quan bác bỏ ư kiến của người khác theo nhăn quan thiển cận của ḿnh mà phải biết chấp nhận thử thách.

 

(3) Vô cố:Không nên cố chấp, nệ cổ mà phải biết chấp nhận sáng kiến.

 

(4) Vô ngă: Cái tôi là đáng ghét (le moi est haissable) đừng v́ quyền lợi cá nhân hay phe phái mà sinh ra mù quáng, nh́n bạn thành thù, nh́n thù thành bạn, lộng chân thành giả, lộng giả thành chân.

 

Bốn phương cách xét định công việc nêu trên giúp chúng ta đạt được sự chánh ư trong vấn đề suy luận và phát biểu nhằm giảm sự xung khắc về tư tưởng và hành động. Dụng đích của sự học không những để gia tăng sự hiểu biết mà c̣n giúp phát triển các đức tính khác như Đức Khổng Tử đă giáng cho Tử Lộ sáu điều tai hại của sự thất học:

(1) Người ham điều nhân mà không học th́ bị cái hại là ngu muội.

(2) Người ham đức trí mà không học bị cái hại là phóng đăng.

(3) Người trọng chữ tín mà không học th́ có hại là dễ bị lừa gạt.

(4) Người thích sự ngay thẳng mà không học th́ hóa ra nóng nảy.

(5) Người dũng cảm mà không học th́ hoá ra phản loạn.

(6) Người cương quyết mà không học th́ hóa ra cường bạo.

 

Giáo dục không chỉ là học từ chương trích cú để lănh được mảnh bằng theo sách vở mà phải biết suy luận, áp dụng kiến thức vào những hoàn cảnh khác nhau v́ mỗi hoàn cảnh đ̣i hỏi một phương cách riêng để giải quyết vấn đề. Do đó” tri và hành phải hợp nhất”. Học mà không biết đem sự hiểu biết áp dụng vào đời sống th́ kiến thức đó hoàn toàn vô dụng, cho nên Luận Ngữ có câu:

 

                             “Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ”.

 

 Học mà đem ra áp dụng được th́ chẳng phải vui lắm sao! Tham gia chiến trận khi quốc gia lâm nguy, thưc hiện các công tác sinh hoạt xă hội, chính trị, văn hoá, kinh tế, y tế, giáo dục khi thái b́nh….đều là những cơ hội học hỏi chứ không phải chỉ đến nhà trường mới gọi là học.

 

Theo thầy Tử Lộ th́ “Cai trị nhân dân, cúng tế thần đất đai, mùa màng, th́ cũng là học, hà tất phải đọc sách rồi mới gọi là học”. Quan niệm này rất hữu lư và tiến bộ v́ ngoài lối học sách vở, c̣n phương pháp huấn luyện OJT (On the job training) ngày nay rất thịnh hành tại các nước tân tiến.

 

Muốn học hỏi trước tiên phải:

(1) Khiêm nhường và phục thiện Những người kiêu căng, chỉ biết nói và không biết nghe th́ không học hỏi ǵ được. Khiêm nhường tức là hỏi người dưới không lấy làm thẹn “Bất sỉ hạ vấn”.

(2) Có thiện chí t́m hiểu hỏi han. Đức Khổng Tử nói: “Người nào không hỏi phải làm sao? phải làm sao? th́ ta cũng chẳng có cách nào chỉ bảo cho được. Kẻ nào không hăng hái muốn hiểu th́ ta không thể giúp cho hiểu được, kẻ nào không tỏ ư kiến th́ ta không thể giúp cho phát biểu ư kiến được. Ta vén lên cho một góc mà chẳng tự t́m được ba góc kia th́ ta không giảng cho thêm nữa”.

 

Thế th́ giáo huấn cũng c̣n tùy người, tùy tánh nết, tùy trí tuệ, tư cách của mỗi nguời, cũng như may áo, tùy kích thước của mỗi người." Cưỡng bách giáo dục tại một số quốc gia tân tiến thường đến lớp 9 (đệ tứ) hoặc lớp 12 (đệ nhất) phần học c̣n lại là do thiện chí muốn tiếp tục sự học.  Phương pháp giáo huấn tùy người có từ trên 2000 năm về trước, ngày nay nhiều đại học đang áp dụng các chương tŕnh giáo dục “University without wall” và các chương tŕnh “Non- traditional” tức là cá nhân hóa chương tŕnh cho phù hợp với sở trường thực dụng của mỗi cá nhân.

 

Con nguời được thọ tạo như những viên ngọc quư. Nhưng ngọc bất trác th́ bất thành khí, hay như những cây gỗ qúy, nhưng nếu không biết trau dồi học hỏi th́ gỗ quư sẽ biến thành gỗ mục, mà “Gỗ mục th́ không chạm khắc ǵ được, cũng như vách bằng đất bùn th́ không tô vẽ ǵ lên được”.

 

Phương pháp học hỏi hữu hiệu là vận dụng tri giác (thu nhận kiến thức qua giác quan – perception) mà nghe và thấy là hai giác năng quan trọng nhất giúp con người thu nhận ngoại giới. Do đó, cổ nhân khuyên là “Nên nghe cho nhiều, điều ǵ c̣n nghi ngờ th́ để đó, t́m hiểu thêm. Điều ǵ biết rơ ràng, chắc chắn th́ nên nói, nhưng nên nói một cách ôn tồn.” và “Nên thấy cho nhiều, những ǵ chưa được rơ th́ để đó đừng làm, c̣n những ǵ biết rơ th́ cũng phải làm một cách cẩn thận như vậy sẽ ít phải ăn năn”.

 

Trong thiên hạ thường có 4 hạng người:

 

(1) Không ai dạy mà biết được đạo lư là hạng ưu tú – Sinh nhi tri chi giả, thượng dă – Đó là hạng người thông minh vốn sẵn tính trời, là hạng ưu việt.

(2) Học rồi mới biết là hạng trung – Học nhi tri chi giả, thứ dă – gồm đa số khoa bảng, chuyên viên.

(3) Dốt mà chịu học là bậc thấp – Khốn nhi học chi, hữu kỳ thứ dă – là những thành phần hiếu học để thăng tiến.

(4) Dốt mà không chịu học là hạng cuối cùng của xă hội – Khốn nhi bất học, dân tư vĩ hạ hỉ – Hạng thứ tư nầy đa số bất cần đời, sinh lộn kiếp. “Cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần đến đâu?”

 

Tại Hoa Kỳ nguời ta cũng thường đề cập đến ba hạng chuyên viên:

(1)-Hạng chuyên viên ưu tú thường nêu ra sáng kiến, phát minh. “Professionals with great minds talk about ideas”

(2)- Hạng chuyên viên trung b́nh thường bàn về những chuyện đang xảy ra “Professionals with average minds talk about current events”; và

(3)- Hạng chuyên viên thường hay bàn chuyện người khác.” Professionals with small minds talk about people”.

 

Dù thuộc loại chuyên viên nào chăng nữa, trong một ngày ḿnh nên xét ba điều:

(1) Ḿnh giúp ai việc ǵ, có giúp hết ḷng không?

(2) Ḿnh giao du với bạn bè có giữ được chữ tín không?

(3) Ḿnh có học hỏi thêm điều ǵ mới mẻ trong ngày không?

 

“Mỗi ngày biết thêm điều ḿnh chưa biết, mỗi tháng không quên những điều ḿnh đă biết như vậy là biết học rồi đó”. Nhưng cũng nên biết rằng ”Biết học không bằng ham học và ham học không bằng vui mà học”.  “Nếu ḿnh yêu thích công việc ḿnh làm, thi xem như cả đời không làm ǵ hết “!

 

Diễn tŕnh giáo dục là diễn tŕnh thu nhận kiến thức, tinh luyện suy luận và phát triển sáng tạo. Tuy vậy, đó chỉ mới là giai đoạn đầu hay nói khác đi là giai đoạn “cách vật trí tri”, hiểu biết sự việc ngoại giới mà chứng chỉ, bằng cấp là biểu tượng cho giai đoạn này. Nếu đến giai đoạn này rồi tự thơa măn và ngưng học hỏi, tu thân, th́ chỉ là hiểu biết ṿng ngoài, nghĩa là mới thu nhận được kiến thức ngoại giới nhưng chưa đạt đến tŕnh độ “Thành tâm, chánh ư, tu thân, tề gia, trị quốc và b́nh thiên hạ”.

 

Kiến thức thu nhận được ở nhà trường từ tiểu học đến đại học chỉ là kiến thức căn bản ai cũng có thể học được miễn có th́ giờ và phương tiện để trở thành chuyên viên. Đó là sự thực, v́ nh́n vào xă hội chúng ta thấy sinh đồ càng ngày càng đông và trường học càng ngày càng nhiều.

 

Học để hiểu biết và hiểu biết hơn về một ngành chuyên môn để trở thành “chuyên viên” (professional) là điều tốt, nhưng nếu chỉ để “mong an nhàn, sống lâu giàu bền’, c̣n việc nước việc cộng đồng, xă hội, aí hữu, không thèm nghĩ đến th́ chưa đạt đến tŕnh độ “Trí thức”.

 

Để đào luyện (formation) trí thức, triết lư giáo dục nhân bản của nền Quốc Học không ngưng lại ở mức độ thu nhận kiến thức chỉ để trở thành chuyên viên mà c̣n tiến đến chủ đích làm cho con người trở nên cao thượng hơn:

 

“Thượng vị đức, hạ vị dân”.

 

Phối hợp đạo lư làm người và kiến thức để giúp đời, là dấu chỉ của người trí thức, của kẻ sĩ. Cụ Nguyễn Công Trứ đă từng quan niệm:

 

“Kinh luân khởi tâm thượng,

Binh giáp tàng hung trung.

Vũ trụ chi giai ngô phận sự.

Nam nhi đáo thử thị hào hùng”.

 

Khi quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Kẻ sĩ không phải là hạng người ngồi khoanh tay khi sơn hà nguy biến!

 

Phải chăng Quốc Học là trường xây dựng nền tảng cho nền Việt học, phối trí giữa kiến thức và tâm đạo. Kiến thức có thể diễn tả qua tư tưởng, kỹ thuật, phương tŕnh, công thức… c̣n tâm đạo được thể hiện qua tinh thần đạo đức, lương tâm chức nghiệp của quư Thầy, quư Cô.

 

“Kỳ thân chính, bất lệnh nhi hành”. Với lương tâm chính trực, tận tụy của quư Thầy, quư Cô, học sinh đương nhiên v́ mến Thầy, thương Cô mà học không phải v́ Thầy la, Cô mắng.

 

Một khi xuất thân từ Quốc Học, học sinh đều thành danh phụng sự xă hội với tinh thần Nhân, Trí, Dũng: Phối hợp được ḷng nhân ái, tâm đạo, kiến thức và nghị lực, quả cảm để xây dựng cộng đồng xă hội, quốc gia dân tộc.

 

Dù tha hương, sống nơi góc bể chân trời, nhưng đến ngày kỷ niệm Quốc Học năm thứ 127 (1896- 2023) chúng ta vẫn hướng về mái trường thân thương nơi con sông xưa thành phố cũ, ngâm khúc hoan ca:

 

“Trường xưa lưu măi bóng h́nh.

Trăm năm Quốc Học hiển vinh muôn đời”.

 

 

Trần Xuân Thời

QH 58-61

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính