Người Việt Cao Quư

 

Trần Xuân Thời

 

 

“Sướng ǵ hơn sướng làm lành,

Cho bao nhiêu của để dành bấy nhiêu”

 

Cuộc đời từ chiếc nôi đến ngôi mộ quá lắm cũng chỉ ba vạn sáu ngàn ngày, nhưng thường phải trải qua không biết bao nhiêu là biến cố. Ba mươi năm đầu là thời gian học hỏi để nên người. Tam thập lập thân - cũng là 30 năm sinh tử của cuộc đời, thành bại sau này đều bắt đầu từ những năm trưởng thành của cuộc sống. Những năm đầu, con người hấp thụ kinh nghiệm của nhân sinh hệ lụy. Tùy hoàn cảnh giáo dục gia đ́nh và học đường mà mỗi người mang một bản sắc khác nhau, người th́ nhân từ độ lượng, trọng nghĩa khinh tài đáng là bậc trượng phu, kẻ th́ ḷng dạ hẹp ḥi, tham tiền bỏ nghĩa, phản trắc, bội tín và phi nghĩa.

 

Giáo dục đă ảnh hưởng đến sự h́nh thành tâm tính và quan niệm của con người về cuộc sống. Con người tính bổn thiện nhưng thế thượng thường t́nh có thể bị tà ma, lợi lộc làm mờ lương tri. Do đó cổ nhân đă để lại những nguyên tắc luân lư lưu truyền từ đời này sang đời khác nhằm điều chỉnh thái độ và giúp con người cải tà, quy chánh.

 

Các nguyên tắc luân lư đó thường được bàn bạc qua văn chương và triết học. Triết lư văn nghệ của các truyện nôm như Phan Trần, Nhị Độ Mai … nêu cao khí phách của con người lư tưởng, đạo đức:

 

“Trời nào phụ kẻ trung trinh,

Dẫu vương nạn ấy, ắt dành phúc kia.

Danh thơm muôn kiếp c̣n ghi,

Để gương trong sạch, tạc bia với đời.

Gian tà đắc chí mấy hơi,

Mắt thần khôn dấu lưới tṛi khôn dung.

Uy quyền một phút như không,

Xem bằng lứa đá, ví cùng đám mây.” (Nhị Độ Mai)

 

Đức tính truyền thống của con người cao quư theo truyền thống của dân tộc Việt là con người có Trung, có Hiếu, có Tiết, có Nghĩa đúng theo ngũ thường Nhân-Lễ-Nghĩa-Trí-Tín:

 

“Ai ơi lẳng lặng mà nghe,

Dữ răn việc trước, lánh dè thân sau.

Trai thời Trung, Hiếu làm đầu,

Gái thời Tiết, Hạnh là câu sửa ḿnh.”

 

Nhưng giữ được cương thường đạo nghĩa ở đời không phải là chuyện dễ v́ lợi lộc, vinh hoa phú quư có thể mua chuộc ḷng người.  Ngày trước nói đến chữ Trung có nghĩa “trung thần bất sự nhị quân”, làm tôi ngay không thờ hai Chúa, “trung trinh ái quốc một ḷng v́ dân v́ nước”! Ngày nay là trung thành với lư tưởng tự chống loài quỷ đỏ, độc tài CS, dù rằng kẻ trung nghĩa đôi khi gặp rủi ro, bị gian thần hăm hại hoặc không được trọng dụng hay bị phụ bạc.

 

“Từ ngày đi sứ đến Tây Kinh

Thấy việc Âu Châu phải giật ḿnh,

Kêu gọi đồng bào mau thức tỉnh

Hết ḷng năn nỉ chẳng ai tin!” (Nguyễn Trường Tộ)

 

Người trung nghĩa và kẻ phản tặc thưởng được vạch trần mỗi khi quốc gia lâm nạn. Sau khi quân Pháp đánh lấy Nam Kỳ năm 1862, Tôn Thọ Tường phản quốc ra hàng làm sai cho Pháp. Sĩ phu thời bấy giờ cương quyết chống đối hành vi bất trung của Tôn Thọ Tường.  Tôn Thọ Tường làm 10 bài thơ liên hoàn nhan đề là “Tự Thuật”.  Đứng đầu môn phái chủ trương “trung thần bất sự nhị quân” là Phan Văn Trị.  Phan Văn Trị đă hoạ lại 10 bài thơ của Tôn Thọ Tường.

 

Sự xướng hoạ đă tạo nên cuộc bút chiến về “Chính và Tà” vào hạ bán thế kỷ 19. Đặc sắc là bài “Tôn Phu Nhân Quy Thục”:

 

“Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ ṭng,

Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông.

Ĺa Ngô bịn rịn cḥm mây bạc,

Về Hán trau tria mảnh má hồng.

Son phấn thà cam dày gió bụi,

Đá vàng chi thẹn với non sông.

Ai về nhắn với Châu Công Cẩn:

Thà mất ḷng anh đặng bụng chồng.”

 

“(Tôn Thọ Tường)

 

Tôn Thọ Tường tự thú theo Pháp v́ ḿnh như người con gái bán gả cho người ta nên dù mất ḷng với vua y cũng theo Pháp:

 

“Thà mất ḷng anh được bụng chồng!”

 

Phan văn Trị hoạ lại, cho Tôn Thọ Tường không phải là người trung, nghĩa v́ trai ngay phải thờ chúa, gái mới thờ chồng:

 

“Cài trâm sửa áo vẹn câu ṭng,

Mặt ngă trời chiều biệt cơi Đông.

Ngút tỏa đồi Ngô ùn sắc trắng,

Duyên về đất Thục đượm màu hồng.

Hai vai tơ tóc bền trời đất,

Một gánh cương thường  nặng núi sông.

Anh hởi!Tôn Quyền: anh có biết?

Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng.”

 

Phan Văn Trị

 

Phải chăng v́ vinh hoa phú quư, chức cao quyền trọng mà Tôn Thọ Tường phải hoá kiếp thành thất phu thường t́nh.!

 

Người Việt cao quư phải là người hiếu thảo với cha mẹ

 

Hiếu tức là hành vi của người con tốt (hảo tử). Khi cha mẹ c̣n sống th́ hết ḷng vâng lời, phụng dưỡng cha mẹ; khi cha mẹ mất th́ hết ḷng thương nhớ. Đó là hiếu đạo của con cái đối với cha mẹ. Kẻ bất hiếu là kẻ thờ ơ chểnh mảng với cha mẹ khi c̣n sống, lúc cha mẹ chết th́ làm văn tế ruồi! Tục thờ kính Ông Bà Tổ Tiên thể hiện ḷng hiếu thảo đối với thân sinh phụ mẫu. Khổng Tử bảo rằng hiếu là “người con thờ đấng thân: Khi đấng thân c̣n sống th́ phụng dưỡng cho phải lễ. Khi đấng thân mất th́ tống táng cho phải lễ, khi cúng bái đấng thân th́ tế cho phải lễ”. Điều quan trọng là khi thờ cha mẹ, nét mặt hoà vui, cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ không kể tháng kể ngày!  Nếu nghĩ là có tiền cho cha mẹ vào nhà dưỡng lăo và lơ là việc thăm viếng, phụng dưỡng cha mẹ th́ chưa phải là có hiếu v́ có tiền bạc nuôi ăn không có t́nh với cha mẹ th́ chẳng khác nào nuôi gia súc!

 

Hán Văn Du ăn ở với mẹ rất là có hiếu, mỗi khi có lỗi mẹ thường đánh đ̣n. Một hôm Văn Du phải đ̣n, khóc măi, mẹ thấy vậy hỏi: Mọi khi mẹ đánh con biết lỗi, con câm ngay, lần này sao con lại khóc dai thế? Bá Du thưa: Mọi khi mẹ đánh, con thấy đau, con biết mẹ c̣n khỏe mạnh. Lần này mẹ đánh con, con không đau mấy, con biết mẹ đă yếu, cho nên thương mẹ già yếu mà con khóc. T́nh con yêu mẹ như thế thật thắm thiết!

 

NHÂN- NGHĨA-L Ễ- TRÍ- TÍN

 

Người Việt Cao Quư là người trọng có NHÂN

 

Người nhân nghĩa khác kẻ tiểu nhân v́ lúc nào cũng để tâm việc nhân v́ cái tâm không tàn ác, không cường bạo phi lư. Nhân là thương yêu đồng loại, thương người như thể thương thân như lởi của Vua Trần Nhân Tông đối với thần dân. “Trẫm thương dân như thương con trẫm”. Lễ là xử thế hợp lư, ḷng kính trọng con người, thánh hiền cư xử với người một cách kính trọng: không có giờ phút nào bỏ được ḷng nhân hậu. “Thiên địa nhất gia, thiên hạ nhất nhân”. Cả thiên địa như một nhà, cả thiên hạ như 1 người.

 

Người Việt cao quư là người trọng NGHĨA

 

Trong cuộc đời, con người phải có nghĩa với nhau thường được hiểu qua câu ơn nghĩa người đồng liêu, với người trên kẻ dưới. Câu huynh đệ chí binh nói lên cái nghĩa khí một dạ, một ḷng, quan quân như một. Làm việc nghĩa tức là làm phải, việc hữu ích chung, công b́nh ơn đức, con người sống vị nghĩa dễ sinh t́nh mến phục. Nếu chỉ biết nhau trong lúc vô sự đến lúc nguy nan, bỏ bạn mà chạy, sống chết mặc bay th́ là phi nghĩa, bạc ác, bất nhân.

 

Cổ nhân nói rằng Lễ nghĩa liêm sỉ là bốn giường mối căn bản giữ vững quốc gia. Bốn giường vó ấy mà không căng lên được nghiă là vô lễ, vô nghĩa, vô liêm, vô sỉ, th́ quốc gia phải sụp đổ và diệt vong". Khuất Nguyên cũng ca ngợi nghĩa khí: “Một bên là quần chúng, một bên là bản thân, hai bên đều trọng cả. Nhưng nếu gặp trường hợp cần th́ phải hy sinh bản thân đ cứu giúp quần chúng”. Vị nghĩa quên ḿnh, vị quốc vong thân. Con người sống trong một ngày, nghe được một điều phải, làm một việc nghĩa th́ không phải là sống thừa.” Celui qui a planté un arbre avant de mourir n’a pas vécu inutilement”.

 

Người Việt cao quư Là người có LỄ

 

Lễ là xử thế hợp lư với ḷng kính trọng con người. Thánh hiền cư xử với người một cách kính trọng: không có giờ phút nào bỏ được ḷng nhân hậu. Cả thiên hạ như một nhà, cả nước như người. Thánh Phaolô cũng khuyên nhân loại “Hăy kính tha nhân như thầy của ḿnh th́ mọi sự sẽ được yên vui”.

 

Người Việt Cao quư là người trọng TRÍ

 

Người trí là người tự biết ḿnh như triết gia Socrate nói: “Ngươi hăy tự biết ngươi” (Connais-toi toi-même). Con người phải biết ḿnh, phải tự hiểu ḿnh rồi mới có thể hiểu người, tri kỷ tức là biết ḿnh vậy. Có biết ḿnh mới tu thân, tề gia, trị quốc, b́nh thiên hạ. Có biết ḿnh mới trọng tư cách của ḿnh tức là tự trọng. Kẻ không tự trọng không phải là kẻ trí v́ không hiểu và không trọng ḿnh th́ làm sao kẻ khác trọng ḿnh được. Cho nên người Việt cao quư không những phải có nhân, có nghĩa, có lễ mà c̣n phải có trí để biết ḿnh và biết người, hanh động sáng suốt. Đánh lưỡi bảy lần trước khi nói “Tourner la langue sept fois avant de parler”.

 

Người Việt cao quư là người trọng TÍN

 

Kẻ bất tín là kẻ gian tà. Ăn cơm Quốc gia, thờ ma Cộng sản! Đă là gian tà th́ không thể là kẻ yêu nước, thương ṇi được. Trong sự giao tiếp hằng ngày giữa người và người chữ Tín đóng vai tṛ hết sức quan trọng. Hành động bội tín, làm mất ḷng tin tưởng, th́ sống cũng chỉ là sống thừa. Chữ tín được liệt rơ trong ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Trong sự giao thiệp, sinh hoạt cộng đồng, đoàn thể, chính quyền, phải luôn luôn lấy chữ Tín làm chuẩn. Đức Khổng Tử bảo rằng “Nhân vô tín bất lập” nghĩa là phàm làm người mà bất tín th́ không c̣n ai tin cậy và v́ vậy không thể đứng vững ở đời được. “Tín vi nhân chi bảo” chữ Tín là bảo vật của nhân thế.

 

Người Việt cao quư là người trọng LIÊM SỈ

 

Liêm sỉ là căn bản đạo đức của văn vơ bá quan.  Vua, quan mà vô liêm sỉ th́ thượng bất chính hạ tắc loạn. Kết cuộc thi quốc gia phải sụp đổ, dân tộc phải diệt vong. Nhưng thế nào là vô liêm, vô sỉ? Liêm là liêm khiết (integrity), là nền tảng của đạo làm người, là tính thanh liêm, phân minh, ngay thẳng, không lấy của bất nghĩa. Người mà không có liêm th́ cái ǵ cũng lên hay làm việc bất nghĩa, vơ vét cho đầy túi tham “Có ba trăm lạng việc này mới xong” (Kiều).

 

Sỉ là hổ thẹn (shame), tự ḿnh lấy làm hổ thẹn. Người vô liêm sỉ th́ việc ǵ cũng làm, là kẻ không biết hổ thẹn, không tôn trọng luân thường đạo lư.

 

Thầy Mạnh Tử nói rằng “nhân bất khả vô ś” nghĩa là người mà không biết xấu th́ không phải là người. Có liêm sỉ là nền tảng của đạo làm người, Có liêm sỉ th́ có hiếu, để, trung, tín, lễ, nghĩa. Vô liêm sỉ th́ c̣n ǵ là luân thường đạo lư.

 

Người Việt cao quư là người CƯƠNG TRỰC

 

“Phú quư bất năng dâm, bần tiện bất năng di và uy vũ bất năng khuất”. Người cương trực là người trọng lẽ phải, v́ lẽ phải có sức mạnh hơn mũi gươm. Người có ḷng cương trực, ư chí như sắt đá, sáng như sao bắc đẩu, dù nguy cấp thế nào cũng không thay ḷng đổi dạ. Người cương trực là người giữ được tiết tháo, bảo vệ công lư để đối phó với bạo tặc, cường quyền.  Biết bao chiến hữu dân, quân, cán, chính của VNCH đă chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, hoặc can trường bất khuất trong cảnh tù tội sau ngày CS xâm lăng VNCH.  Gương anh dũng đáng kính phục nầy đă được sử sách lưu truyền, thể hiện niềm tự hào, danh dự của dân, quân, cán, chính VNCH.  Thái độ cương trực này là tấm gương sáng cho hậu thế soi chung.

 

Ngoài ra, tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh c̣n là đặc trưng của nhi nữ Việt Nam. Công tức là làm việc giỏi:

“Gái th́ lo việc trong nhà,

Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa”.,

 

Dung tức là sắc diện vui hoà, phục sức thanh lịch.

“Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”

 

Ngôn là tiếng nói phải dịu dàng:

“Chim khôn hót tiếng rảnh rang

Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.”

 

Hạnh là hạnh kiểm tốt, kể cả vấn đề thờ cha kính mẹ. “Cái nết đánh chết cái đẹp”. Cái đẹp th́ có hạn nhưng cái nết th́ vô cùng, vẫn là câu tục ngữ truyền tụng trong dân gian để ca ngợi đức tính đạo hạnh của người con gái. Thể hiện giá trị luân lư vượt thời gian và không gian.

 

Sở dĩ có câu:

“Đàn ông chớ đọc Phan Trần,

Đàn bà chớ kể Thuư Vân, Thúy Kiều”.

 

Là v́ trong nền luân lư cổ truyền, h́nh ảnh Phan Sinh trong tác phẩm Phan Trần, đă bị uỷ mị hoá. Phan Sinh thất t́nh v́ người yêu mà đâm ra nản chí, khóc lóc thảm thiết. Tác giả đă mô tả Phan Sinh khi nghe đến người yêu th́ đă “hai hàng lă chă nhường mưa”, không phải là h́nh ảnh hào hung, khí phách của người trai nước Việt cao quư.

 

Thuư Kiều, trong tác phẩm “Đoạn Trường Tân Thanh” của Nguyễn Du, bán ḿnh chuộc cha.  Thúy Kiều đă “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần, trong ṿng giáo dựng gươm trần, kề lưng hùm sói, giữ thân tôi đ̣i” là h́nh ảnh luân lư suy đồi.  Khi c̣n nhỏ không ở với cha mẹ, khi lấy chồng không ở với chồng, vi phạm luân lư tam ṭng: “Tại gia ṭng phụ, xuất giá ṭng phu, phu tử ṭng tử”. Kiều đă “Giết chồng rồi lại lấy chồng, mặt nào c̣n đứng ở trong đời này”. Theo quan niệm cũ, người con gái không thể để cho “Ma đưa lối, quỷ dẫn đường, lại t́m những chốn đoạn trường mà đi”. Tuy nhiên, ngay nay v́ quốc biến, gia đ́nh tan nát, cũng như quan niệm nam nữ b́nh quyền, có những trường hợp bất đắc dĩ xảy ra nên cũng được thông cảm qua chủ trương “chấp kinh nhưng cũng phải biết ṭng quyền”.

 

Vậy th́ nền luân lư cổ truyền thật là phong phú. Ngày nay, trên bước đường gió bụi của cuộc đời viễn xứ, dù áo rách nhưng phải giữ lấy lề. Người Việt cao quư vẫn là người hiếu đạo, trung nghĩa, là người có nhân, có nghĩa, có lễ, có trí, có tín, là người liêm sỉ, cương trực:

 

“Trai th́ trung hiếu làm đầu,

Gái th́ tiết hạnh là câu sửa ḿnh.”

 

Truyện người tiết phụ đă là gương sáng truyền tụng trong Ngũ Đại sử: Vương Ngung đi làm quan chẳng may chết sớm. Vợ là Lư Thị trên đường đi nhận hài cốt của chồng, lỡ đường dẫn con vào một quán trọ bên đường xin trọ. Người chủ quán thấy đàn bà con nít có ư nghi ngờ không cho trọ. Người chủ quán nắm lấy tay Lư Thị dắt đuổi ra. Lư Thị ngửa mặt lên trời nức nở than rằng: “Ta làm đàn bà chẳng hay thủ tiết thờ chồng đến nỗi người ngoài cầm được cái tay này. Ta chẳng nỡ để v́ một cái tay mà bẩn lây cả thân ta”. Nói xong lập tức lấy dao thái thịt chặt phăng đứt ngay cánh tay! Xem thế th́ t́nh nghĩa vợ chồng cao quư biết dường nào!

 

Hiện nay các đức tính này cũng được nhắc nhở trong các luật luân lư nghề nghiệp (Professional Code of Ethics) dựa trên những ư niệm căn bản về cần, kiệm, liêm chính, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Những kẻ phi nhân, thất đức dù ở trong xă hội nào, vào thời nào chăng nữa th́ cũng chỉ là kẻ xấu xa phá hoại nhân quần xă hội mà thôi.

 

Hoằng dương luân lư cổ truyền dân tộc tức là chuyển tải chủ trương đạo lư đến với tha nhân về h́nh ảnh mẫu mực của “người Việt cao quư”. Cương thường đạo lư hướng dẫn hành vi của con người. Lúc thất thế, Nguyễn Công Trứ không trở thành đạo tặc cũng chỉ v́ sợ nhục nhă gia phong:

 

“Mất việc toan trở nghề cơ tắc (1)

Tủi con nhà mà hổ mặt anh em.

Túng đường mong quyết chí cùng tư

E phép nước chưa nên gan sừng sỏ,

Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ

Dường ngâm câu "lạc đạo vong bần

Gặp anh em khi bàn bạc sự đời,

Lại đọc chữ vi nhân bất phú.

Tất do thiên âu phận ấy là thường

Hữu kỳ đức ắt trời kia chẳng phụ...”

 

Vậng, sống đức hạnh th́ trời không phụ ḷng người. “Grace respects nature”. Người Việt ḿnh ăn ở đức hạnh, hănh diện với ḍng giống Lạc Hồng. Chính ḷng tự hào về nguồn gốc dân tộc mà chúng ta duy tŕ cuộc sống thanh đạm ở xứ người, dù thất cơ lỡ vận nhưng không trổ nghề cơ tắc v́ sợ “Tủi con nhà mà hổ mặt với anh em”.

 

Tư tưởng lên khuôn cho hành động. Dân tộc Việt chúng ta là một dân tộc tự trọng và hào hùng, niềm kiêu hănh đó dù trải qua phong ba băo táp, vẫn lưu măi trong tâm khảm mọi người, điều hướng hành động của chúng ta: hành động tốt của người Việt cao quư. Nhớ đó cộng đồng được vui ḥa, đoàn thể sinh hoạt được hanh thông.

 

Nền văn hoá cổ truyền của người da, đen đỏ đă bị băng hoại v́ người da trắng tiên phong đă lầm lẫn huỷ hoại văn hoá của hai nhóm thiểu số này khiến cho họ mất cả gia bảo, không c̣n ǵ để bám víu, để hănh diện. Một số người bị lôi cuốn vào cuộc đời đầu đường xó chợ, “như thuyền không lái, như ngựa không cương”, sổng cũng không thể sống nên hồn, muốn chết không xong! Tai hoạ này kết quả không sao lường được, là một vấn xă hội trầm kha trong xă hội ngày nay của Hoa Kỳ ảnh hưởng đến mọi hoạt động giáo dục, an sinh xă hội, kinh tế, chính trị, tội phạm…

 

Tai họa nầy cũng đang hoành hành xă hội Viêt Nam, nền văn hoá hơn bốn ngàn năm văn hiến đang bị băng hoại. Khôi phục, bảo tồn, phổ biến về quê hương những đặc nét luân lư của nền văn hóa cổ truyền cũng là một sứ mệnh trong công tác cải tổ phục hung quốc tổ thân yêu của chúng ta.

 

Chúng ta đến Hoa kỳ v́ tinh thần yêu chuộng tự do. Bảo toàn những đặc nét của gia bảo luân lư cổ truyền là nhiệm vụ thiêng liêng chung của chúng ta. Được như vậy, tập thể tị nạn của chúng ta sẽ là tập thể gương mẫu, xây dựng một hậu phương vững mạnh, sẵn sàng hỗ trợ đại nghiệp cứu quốc và kiến quốc.

 

Dù khoa hoc vật chất tiến triển nhanh, các học thuyết về luân lí xă hội có phần lỗi thời. Tuy nhiên, mía sâu có đốt nhà dột có nơi,  chúng ta vẫn duy tŕ và phát huy các đặc nét hữu ích của nền luân lư cổ truyền liên quan đến phần bản chất tâm lư nhân sinh không mấy thay đổi qua dấu chỉ của thời đại như hỉ (mừng); nộ (giận); ai (thương); lạc (vui); aí (yêu); ố (ghét) dục (muốn). 

 

Ai không kiểm soát được cảm giác (sensation) th́ không điều khiển được thái độ (attitude). Sợ th́ tay run, tác xạ linh tính có thể không được chính xác.  Cũng vậy, không trang bị cho ḿnh những tiêu chuẩn đạo lư căn bản th́ không làm chủ được hành động của ḿnh v́ thường thường tư tưởng lên khuôn cho hành động. Không có quan niệm chính xác về thế nào là công chính (just) và phải đạo (right) th́ dễ lâm vào hành động bất nghĩa. Đây là nỗi lo chung của chúng ta đối với tương lai của hậu thế.

 

“Trong đầm ǵ đẹp bằng sen,

Lá xanh, bông trắng, lại chen nhụy vàng

Nhuỵ vàng, bông trắng, lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

 

 

Trần Xuân Thời

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính