Bảo Vệ Chính Nghĩa

“Tổ Quốc- Danh Dự- Trách Nhiệm”

 

Trần Xuân Thời

 

 

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

 (B́nh Ngô Đại Cáo)

 

 

Hoa Kỳ là một quốc gia mẫu mực thực thi chế độ bảo vệ tự do, dân chủ, và viện trợ kinh tế cho nhiều quốc gia, nhờ đó trở thành quốc gia hùng mạnh nhất thế giới. Cơ quan FBI quản lư an ninh quốc nội kiểm soát chặt chẽ mọi hành vi phá rối trị an của CS Quốc tế. CIA quản lư an ninh quốc tế hoạt động rất hữu hiệu khiến cho Cộng Sản Quốc Tế, dù đă chiếm gần một nửa thế giới, từ sau thế chiến thứ hai, nhưng vẫn thất bại trong mưu toan khuynh đảo thành tŕ của Thế Giới Tự Do cho đến khi khối CS Nga và Đông Âu sụp đổ vào cuối thập niên 1980.

 

Trong suốt 100 năm sau ngày ban hành bản Tuyên Ngôn Cộng sản Quốc Tế (1848–1948), phong trào CSQT đă bành trướng qua các liên minh (Communist Comintern): Phong trào Đệ nhất (1864–1876), Đệ nhị (1889–1918), Đệ tam (1919–1943) và Đệ tứ Quốc Tế (1938–1953) nhằm lật đổ chính quyền tư bản, lấy giải thoát giai cấp vô sản làm cứu cánh và kỳ vọng đạo binh vô sản thế giới kết hợp để tiêu diệt tư bản v́ lịch sử thế giới là lịch sử của giai cấp đấu tranh, biểu tượng là cuộc cách mạng vô sản tháng 10/1917 lật đổ triều đại Nga Hoàng Tsar Nicholas II… Tại Trung hoa, Mao Trạch Đông đă thôn tính Trung hoa lục địa năm 1949 và Tưởng Giới Thạch phải di tản chiến thuật ra đảo Đài Loan.

 

Trước sự bành trướng nhanh chóng của chủ nghĩa CS quốc tế, Hoa Kỳ đă gia tăng guồng máy an ninh quốc nội và t́nh báo quốc ngoại, ban hành và tu chính nhiều đạo luật ngăn ngừa phá rối trị an. Từ năm 1798, Hoa Kỳ đă ban hành luật Alien and Sedition Act ngăn ngừa nội loạn và trừng trị cuồng ngôn nhằm làm mất uy tín chính quyền địa phương và trung ương… Năm 1917, Hoa Kỳ ban hành luật phản gián Espionage Act, đồng thời với cuộc cách mạng vô sản tại Nga sô.

 

Năm 1901, Tổng thống William McKinley bị các phần tử chủ trương vô chính phủ ám sát. Vị Tổng Thống thứ 25 của Hoa Kỳ, đă để lại các nhận xét bất hủ về gương sáng của các vi anh hùng hào kiệt, “In the time of darkest defeat, victory may be nearest… That’s all a man can hope for during his lifetime – to set an example – and when he is dead – to be an inspiration for history”.

 

Tiểu bang New York ban hành luật ngăn ngừa tội phạm ám sát v́ lư do chính trị và âm mưu lật đổ chính phủ… Năm 1919 Schenck, đảng viên CS, đă bị kết án chiếu luật Espionage Act 1917 v́ sách động thanh niên phản đối chiến tranh và cản trở vấn đề tuyển mộ binh sĩ. Năm 1919 tại Ohio, Debs, một thủ lănh CS, đă đọc diễn văn trước 1,200 khán giả nhằm sách động chống chiến tranh, xúi dục thanh niên bất tuân lệnh nhập ngũ, đă bị kết án trên 10 năm. Năm 1927 tại California, Whitney, đảng viên CS, bị kết án vi phạm luật Criminal Syndicalism Act, tổ chức phá hoại, dùng bạo lực làm phương tiện lật đổ chính quyền hợp pháp... Năm 1951, chiếu luật Smith Act, 11 lănh tụ CS đă bị kết án v́ chủ trương bạo hành, lật đổ chính phủ…

 

Tại nhiều tiểu bang Hoa Kỳ, Quốc hội đă ban hành luật trừng trị các hành động phá rối trị an, lật đổ chính phủ. Các luật lệ cấp Liên bang cũng như cấp Tiểu bang hiện nay vẫn c̣n có hiệu lực áp dụng đối với các hành vi phá rối trị an, lợi dụng tự do ngôn luận tuyên truyền xuyên tạc, sách động quần chúng tạo nguy cơ cho nền an ninh quốc nội.

 

Chúng tôi xin đơn cử một thí dụ về luật tiểu bang đối với chủ nghĩa cộng sản, nhân viết về vụ William Joiner Center thuộc Trường Đại Học Massachusetts tại Boston, tiểu bang Massachusetts, thuê hai cán bộ CSVN tham gia vào công tác viết về lịch sử người Việt tỵ nạn hải ngoại. Trong suốt hai năm từ tháng 1/2000 đến tháng 3/2002, Cộng đồng người Việt hải ngoại đă nỗ lực tranh luận với Đại học Mass tại Boston hầu điều chỉnh hành động vi phạm luật lệ của Đại học Mass.

 

Luật của tiểu bang Massachusetts, định nghĩa các tổ chức khuynh đảo là những tổ chức có mục đích chung nhằm lật đổ chính quyền hợp pháp bằng phương pháp bạo động hay các phương thức bất hợp pháp khác. Đảng cộng sản là đảng có mục đích khuynh đảo, do đó đảng cộng sản là đảng không được luật Massachusetts công nhận. Tổng Chưởng Lư, tiểu bang có nhiệm vụ điều tra và truy tố các tổ chức khuynh đảo. Đảng viên các tổ chức khuynh đảo thường bị truy tố về tội h́nh sự, không được ứng cử vào các chức vụ công cử, không được bổ nhiệm vào các chức vụ tại các cơ quan công quyền, không được tuyển dụng vào các cơ sở giáo dục công lập và tư thục, và bị cấm hành nghề trong một số ngành dịch vụ, không được nhập tịch, v.v.

 

Luật Massachusetts, Chương 264,

 

Điều 16 ấn định: “… Subversive organizations… mean any form of association… whether incorporated or otherwise for the common purpose of advocating, advising, counseling or inciting the overthrow by force or violence or by any unlawful means, of the government of the Commonwealth or of the United States.”

 

Điều 16 A: “The Communist Party is hereby declared to be a subversive organization.”

Điều 17: “A subversive organization is hereby declared to be unlawful.”

 

Điều 18: “The attorney general shall bring an action… against any organization which has reasonable cause to believe is a subversive organization.”

 

Điều 19: “Any person who becomes or remains a member of any organization knowing to be a subversive organization shall be punished by imprisonment in the state prison for not more than three years….”

 

Điều 20: “No person who has been convicted of a violation of the provisions… of section nineteen… shall be eligible to… employment… in any public or private institution… The attorney shall have jurisdiction in equity to restrain and enjoin any such person from performing such duties.”

 

Mặc dù hiện nay Hoa Kỳ giao thương với các nước cộng sản v́ lư do kinh tế, thương mại, an ninh toàn cầu; v́ lư do nhân đạo để nâng cao sinh hoạt của các lĩnh vực nhân sinh, và để bảo vệ nền văn minh nhân bản dựa trên các quyền thiên nhiên (natural rights) hay nhân quyền do Tạo hóa ban cho nhân loại mà không ai được quyền xâm phạm. Tuy vậy các chính quyền độc tài vẫn đối nghịch với thế giới tự do, chứ không có nghĩa bang giao tức là xóa bỏ lằn ranh Quốc, Cộng.

 

Quan niệm về các quyền bất khả xâm phạm do Tạo hóa ban cho nhân loại là quan niệm phát xuất từ dân gian. Hầu hết nhân loại hướng về đấng Tạo Hoá. Từ ngàn xưa các bộ tộc, quốc gia đều quan niệm tộc trưởng các bộ lạc hay vua chúa các quốc gia là Thiên Tử, trung gian giữa Trời và loài người, thừa mệnh Trời trị v́ thiên hạ. Quan niệm này bàng bạc trong lịch sử và văn hóa nhân loại từ cổ đến thế kỷ 20. Tại Á Châu, Tần Thủy Hoàng lên ngôi năm 13 tuổi, đến năm 22 tuổi mới được thực thụ tấn phong vào chức vụ Hoàng Đế năm 238 trước Công nguyên. Các vua qua các triều đại tại Trung Hoa đều được tấn phong theo quan niệm Vua là Thiên Tử, thay mệnh Trời trị v́ thiên hạ cho đến đời vua cuối cùng của Triều đại Măn Thanh vào đầu thế kỷ thứ 20.

 

Bên phương trời Tây, các Đức Giáo Hoàng La Mă, đại diện cho Thần quyền, là Giáo hội Công Giáo, thường tấn phong các vị Hoàng Đế như Giáo Hoàng Lê–ô thứ III năm 800 sau Công nguyên đă tấn phong Hoàng Đế Charlemagne. “Thần quyền và thế quyền như linh hồn và thể xác không thể tách rời nhau.”

 

Khổng giáo quan niệm “Dân vi quư, xă tắc thứ chi, quân vi khinh”. “Dân là nước, vua là thuyền. Nước có thể lật đổ thuyền”. Nhưng Khổng học cũng quan niệm tôi trung không thờ hai chuá. CS Tàu đă lợi dụng chủ trương này để khuyến dụ dân chúng trung thành với Đảng CS. Ngày nay Trung Cộng lập các Viện Khổng Tử tại một số quốc gia trên thế giới để bành trướng văn hoá Tàu. Nhưng tiếc thay, các Viện Khổng Tử cũng là cơ quan t́nh báo. Sự lạm dụng này đă khiến cho một số cơ quan truyền bá văn hoá của Trung Cộng bị các quốc gia đóng cửa.

 

Chủ nghĩa CS vô thần không công nhận các quyền bất khả xâm phạm và nổi tiếng trên thế giới là chủ nghĩa vi phạm nhân quyền. V́ CS vô thần, không tin con người có đời sau, nên không có tín ngưỡng. CS chủ trương con người là sinh vật kinh tế, không có linh hồn, sống theo bản năng như các cầm thú khác nên quan niệm tôn giáo là thuốc phiện, lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện, đă giết hại hằng trăm triệu sinh linh để thỏa măn thú tính. Ngược lại, các quốc gia tự do quan niệm mọi người sinh ra được hưởng quyền b́nh đẳng và những quyền thiên nhiên (natural rights) bất khả xâm phạm được Tạo hóa ban cho nhân loại.

 

Một trong những đặc điểm của Văn Minh Tây Phương là chủ trương quảng bá và tôn trọng nhân quyền, nhân phẩm, nhân vị của con người. Mọi người được b́nh đẳng, được tạo dựng theo h́nh ảnh của Tạo hoá. có:

 

(1) trí tuệ (intellect) để thu nhận kiến thức, tinh luyện suy luận và phát triển sáng tạo;

(2) lư trí (reason) để suy xét, phân biệt phải trái, thiện ác;

(3) ư chí (will) để quyết tâm thực hiện điều ḿnh mong ước hay lư tưởng của ḿnh và

(4) tự do (freedom) để hành động theo lương tri.

 

Do đó, con người “Nhân linh ư vạn vật” cao trọng hơn các loài thọ sinh khác.

 

Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập, ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Ba Đ́nh, Hà Nội, ông HCM cũng lập lại những câu văn trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776, mở đầu với câu:

 

“Hỡi đồng bào cả nước. Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền b́nh đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

 

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ư nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra b́nh đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và b́nh đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và b́nh đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối căi được.”

 

CSVN muốn dụ hoặc đồng bào và đánh lừa dư luận thế giới tự do, v́ nếu chúng ta xét qua thực chất hoạt động của đảng CSVN từ năm 1945 đến nay, chúng ta thấy rơ CSVN chỉ hứa suông mà không bao giờ có thành ư thực hiện những điều hứa hẹn. Lời hứa không mất tiền mua. Edmund Burke rất hữu lư khi nhận xét về những hứa hẹn hăo huyền của các chính quyền độc tài: “Hypocrisy can afford to be magnificent in its promises; for never intending to go beyond promises, it cost nothing”.

 

Về phương diện tri thức, nghiên cứu về quyền thiên nhiên do Tạo Hoá ban cho nhân loại thuộc phạm trù Thần học (Theology). Các ư niệm về nhân phẩm, nhân quyền, các quyền bất khả xâm phạm được hiểu qua đức tin (Faith seeking understanding: If you do not believe, you may not understand) hơn là qua suy lư. CS Vô Thần không tin vào đấng Tạo Hóa tạo ra vũ trụ và nhân loại, nên chưa trưởng thành để am hiểu các ư niệm về quyền tự do mà Tạo Hoá đă ban cho nhân loại. Những quyền này Tạo Hoá ban cho mọi người, nhưng Tạo Hóa cũng ban cho con người tự do để chọn sự lành, lánh sự dữ hay ngược lại.

 

Ngoài ra, v́ trí tuệ con người có khả năng hữu hạn nên ngoài cuộc sống trần tục, có những điều mà giác quan chúng ta không thu nhận được nên chúng ta cần phải có ḷng tin tưởng để được Thiên khải. Cố Tổng Thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge đă nhận định: Chỉ khi nào con người có tín ngưỡng mới mong được trưởng thành. “It is only when men begin to worship that they begin to grow”.

 

Quan niệm về quyền bất khả xâm phạm thiên nhiên do Tạo hóa ban cho nhân loại đă và đang ảnh hưởng đến tâm lư chính trị, tư duy và hành động, của nhân dân hữu thần trên thế giới và các triết thuyết chính trị của các quốc gia dân chủ Tây phương. Bảo vệ Tự do, dân chủ, nhân quyền là căn bản, là nền móng, là những hạt giống cưu mang mầm mống của các cuộc cách mạng tại Mỹ (1776), tại Pháp (1789) trong thế kỷ thứ 18. Ví dụ ư niệm giải phóng nô lệ phát xuất từ Anh Quốc năm 1833 và sau đó được khai triển tại Mỹ gây nên cuộc nội chiến 1861–1865 trong thế kỷ thứ 19.

 

Tư tưởng lên khuôn cho hành động. Vấn đề thực thi sứ mệnh bảo vệ quyền tự do thiên nhiên (Natural Rights Liberty) do Tạo Hóa ban cho nhân loại đă và đang là nguyên động lực điều hướng chính sách đối nội, đối ngoại của Hoa Kỳ.

 

Đối nội: một trong những nguyên nhân chính của cuộc nội chiến tại Hoa Kỳ (1861–1865) là để bảo vệ nhân quyền, giải phóng chế độ nô lệ, v́ chế độ nô lệ không phù hợp với Thiên lư, phản bội lư tưởng tự do. “Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong”. Hoa Kỳ đă trả một giá rất đắt, đă hy sinh 618,000 nhân mạng trong cuộc nội chiến Nam–Bắc phân tranh và cả sinh mạng của vị Tổng Thống Cộng ḥa khả kính Abraham Lincoln, người quyết tâm giải phóng chế độ nô lệ để cải tiến xă hội.

 

Đối ngoại: Hoa kỳ đă tham chiến chống Đức Quốc Xă và Phát-xít Nhật trong đệ nhị thế chiến (1939–1945) tại ba mặt trận Âu, Á. Phi. Hoa Kỳ đă hy sinh hơn 500,000 quân sĩ. Giả sử Hoa Kỳ không tham chiến th́ Âu Châu, Phi Châu đă bị Đức Quốc Xă xâm lăng. Á Châu và ngay cả Úc Châu cũng bị Phát-xít Nhật chiếm đóng th́ vận mệnh của các dân tộc liên hệ tang thương như thế nào!

 

Nếu không có Hoa kỳ đánh bại Nhật Bản th́ Trung hoa chẳng những đă hy sinh 14 triệu người mà c̣n phải hy sinh nhiều sinh mạng hơn nữa và nhất là Âu Châu, Á Châu, Phi Châu, cả Úc Châu cũng không biết bao giờ mới thoát khỏi ách độc tài đảng trị của Đức và Nhật. Trong cuộc chiến chống sự bành trướng của CS Quốc Tế tại Việt Nam, Hoa Kỳ cũng hy sinh 58,000 nhân mạng trong số đó có 7 vị tướng lănh.

 

Tất cả hy sinh mà Hoa Kỳ gánh chịu, không phải để xâm lăng, chiếm đất, giành dân, mà đă thể hiện ư chí bất khuất trong chủ trương “bảo vệ chính nghĩa tự do” cho nhân loại chống kẻ xâm lăng, đúng với triết lư nhân sinh của một quốc gia quyết tâm ra tay nghĩa hiệp:

“Nếu người tốt không ra tay nghĩa hiệp th́ kẻ gian tà chiến thắng – “The only thing necessary for the triump of evil is for good men to do nothing” (John Stuart Mill). Hoa Kỳ hành động dưới ngọn cờ chính nghĩa chứ không phải như CS Hà Nội xâm lăng qua chiêu bài giải phóng để áp đặt chế độ độc tài đảng trị, dâng đất, nhượg biển cho Tàu Cộng mà tổ tiên đă hy sinh xương máu gầy dựng qua hàng ngàn năm lịch sử từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau.

 

Hơn 125,000 quân nhân anh dũng, binh sĩ và tướng lănh Hoa Kỳ, đă “sống gởi nạc, thác gởi xương” tại các nghĩa trang Âu, Á, nơi mà họ đă hy sinh để giành lại chủ quyền cho các quốc gia lâm chiến như Anh, Pháp, Phi và các nước khác tại Âu châu, Á châu…

 

 Hàng năm, đến ngày kỷ niệm Đệ Nhị Thế Chiến, dân chúng các quốc gia này đă đem ṿng hoa ra tảo mộ, tri ân các chiến sĩ Hoa kỳ đă hy sinh mạng sống để giải phóng dân tộc họ. Đó là bằng chứng hùng hồn của sự hy sinh v́ Chính nghĩa, v́ lư tưởng tự do mà thế giới CS không bao giờ có.

 

Ngoài vấn đề hy sinh nhân mạng, nhân dân Hoa Kỳ, sau thế chiến đă viện trợ hằng ngàn triệu Mỹ Kim để tái thiết Âu Châu và Nhật Bản. Hoa kỳ đă lột xác Nhật Bản từ chế độ quân trị, kiêu binh lạc hậu sang chế độ tự do dân chủ, bằng cách cung cấp thực phẩm, kỹ thuật, nhân tài vật lực để tái thiết quốc gia Nhật về mọi khía cạnh nhân sinh văn hoá, giáo dục, kinh tế, xă hội, chính trị. Nhờ thế, Nhật Bản đă trỗi dậy nhanh chóng sau cơn binh biến và ngày nay đă trở thành một quốc gia hùng mạnh ngang hàng với các nước tiên tiến Tây phương. Nhật Bản tuy bại trận, nhưng luôn biết ơn Hoa Kỳ, đă từng vinh danh Tướng MacArthur vào danh sách phong thần, một trong 12 ân nhân của dân tộc Nhật.

 

Tại Việt Nam, năm 1975. Cộng Sản Bắc Việt đă vi phạm Ḥa Ước Ba Lê và xâm lăng miền Nam Việt Nam nên Hoa Kỳ không viện trợ tái thiết. Cộng sản Bắc Việt, quá lạc hậu và dă man, đem quân đánh chiếm Miền Nam, rồi lại trả thù những ngựi tự vệ v́ chnh nghĩa, đă trả thù Miền Nam bằng cách bắt giam hằng triệu dân, quân, cán, chính VNCH. Hàng chục ngàn người đă chết trong ngục tù CS v́ bị tra tấn, đói khát và bệnh tật do chế độ lao tù bất nhân của chế độ CS. Hơn nửa triệu người đă chết thảm trên biển cả hay vùi thây bên góc rừng, xó núi, trên đường vượt thoát t́m tự do. Cuộc chiến do CS Miền Bắc phát động đă gây nên cuộc chiến tương tàn làm cho 5 triệu người Việt vô tội bị vong mạng.

 

Trong các xă hội độc tài đảng trị chỉ có một khuynh hướng chính trị độc tôn. Trong các quốc gia tự do dân chủ, công dân được hưởng quyền tự do thiêng liêng do Thượng Đế (natural law) ban cho mà không ai có quyền xâm phạm.

 

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ năm 1776 đă ghi rơ: “All men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness”. Mọi người sinh ra đều được b́nh đẳng, thụ hưởng những quyền bất khả xâm phạm do Thượng Đế ban cho, như quyền được sinh sống, quyền tự do và quyền t́m kiếm hạnh phúc…

 

Thấy người mà nghĩ đến ta, trước cảnh quôc phá, gia vong, dân tộc Việt bị phá sản về cả tinh thần lẫn vật chật. Tập thể người Việt lưu vong hải ngoại đă và đang cố gắng tái lập tự do do, dân chủ, và sự toàn vên lănh thổ, 

 

Hơn 4 thập niên trôi qua, nhiều vị anh hùng, liệt sĩ, đă ngày quên ăn đêm quên ngủ, hy sinh nhân tài, vật lực trong công tác tranh dấu cho tương lai của tổ quốc. Dù lực bất ṭng tâm, nhưng điều quan trọng là sự nổ lực nuôi dưởng ư chí bất khuất v́ quốc gia, dân tộc.

Làm chính trị cần sự dấn thân, can đảm, bền chí, nhẫn nhục… có khi hy sinh cả cuộc đời, không v́ tư lợi mà v́ Tổ Quốc-Danh Dự- Trách Nhiệm.  Người có tâm huyết làm chính trị chỉ v́ muốn thực hiện một sứ mệnh cao cả, không nề gian khổ, nếm mật nằm gai, noi gương Việt Vương Câu Tiễn, quyết chí xây dựng quốc gia dân tộc, như lời thơ diễn tả của Đằng Phương:

 

“Họ là những anh hùng không tên tuổi,

Sống âm thầm trong bóng tối mênh mông,

Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh,

Nhưng can đảm và tận t́nh giúp nước.”

 

Chung quy, con người thường hành động theo tư tưởng của ḿnh qua các thề hệ. Tư tưởng thu nhận từ xă hội, học đường, bạn bè… kết tinh thành trạng thái tâm lư, gọi chung là tâm lư quần chúng.

 

Trong bất cứ xă hội nào, thường một thiểu số chấp nhận một thái độ, một lập trường và dùng lập trường đó như kim chỉ nam hướng dẫn hành động. Từ đó một thiểu số tranh đấu cho lư tưởng của họ, nếu thắng thế, họ sẽ trở thành cấp lănh đạo. Lănh đạo v́ dân v́ nước là phước của quốc gia. Lănh đạo v́ xôi thịt là quốc nạn.

 

Thế th́ không nên hờ hững với chính trị. Một mặt sinh hoạt chính trị “nhằm sửa trị sự việc cho chính trực”. Mặt khác nếu ḿnh không tỏ rơ lập trường, tà đạo lên nắm quyền th́ chính ḿnh sẽ là nạn nhân của thời cuộc. “The only thing necessary for the triump of evil is for good men to do nothing” (John Stuart Mill). Nhận xét này là kim chỉ nam hướng dẫn hành động của đồng bào quốc nội yêu chuộng tự do và quư vi đồng hương hải ngoại trong công tác kiện toàn cơ cấu tổ chức các đoàn thể ái hữu, tôn giáo, cộng đồng địa phương, tiểu bang, liên bang, quốc tế để xây dựng đời sống mới hầu hỗ trợ cho đại nghiệp cứu quốc chóng được viên thành.

 

Nhờ tự do tư tưởng mà các nước dân chủ đă tiến xa trên bước đường xây dựng quốc gia dân tộc, ư thức chính trị của quần chúng cao. “Ư dân là ư trời- vox populi vox dei”.

 

Hiệp định Paris (Paris Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam) ngày 27 tháng 1 năm 1973 công nhận quyền Dân Tộc Tự Quyết của Miền Nam Việt Nam: 

Chương IV Điều 9 (a) Quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam là quyền thiêng liêng, không thể chuyển nhượng và các quốc gia phải tôn trọng. (b) Nhân dân Miền Nam Việt Nam sẽ quyết định chính phủ tương lai cho Nam Việt Nam qua cuộc bầu cử thật sự tự do và dân chủ dưới sự giám sát quốc tế.

 

Trong thực tế CS Hà Nội đă vi phạm Hiệp Định Paris, xâm lăng VNCH và áp đặt chế độ độc tài CS lên nhân dân miền Nam Việt Nam từ 1975 đến nay.

 

Chapter IV, Article 9 (a): The South Vietnamese People’s right to self-determination is sacred, inalienable, and shall be respected by all countries. (b) The South Vietnamese People shall decide themselves the political future of the South through genuinely free and democratic general elections under international supervision.

 

CSHN bối rối khi người Việt quốc gia quốc và hải ngoại vận động quốc tế đặt lại vấn đề thi hành hiệp ước Paris để phục hồi quyền dân tộc tự quyết và mua chuộc bọn bồi bút đánh phá trên NET dưới nhiêù h́nh thức nhưng chính nghĩa sẽ thắng.  “There are two powers in this world, the mind and the sword. In the long run the sword will be beaten by the mind.” (Napoleon Bonaparte)

 

Bầu cử tự do, thực thi quyền dân tộc tự quyết. (Right to self-determination).

 

Bầu Cử Tự Do thật sự hiện hữu mỗi khi cơ quan tổ chức bầu cử, cử tri, ứng cử viên được h́nh thành dựa trên động cơ đạo đức cao thượng” Một ḷng v́ dân, v́ nước” qua quá tŕnh:

 

(1) Nghiên cứu hoàn cảnh, môi trường xă hội, kinh tế, chính trị, kiện toàn cơ cấu tổ chức, kỹ thuật, luật lệ tổ chức, điều kiện cử tri, ứng cử viên, chiếu theo nhu cầu của môi trường dân sinh, phát triển xă hội (cách vật trí tri);

 

(2) Tham gia bầu cử với tư cách cử tri, ứng viên hay nhân viên pḥng phiếu với tấm chân t́nh nhằm mục đích phụng sự xă hội, “thượng v́ đức, hạ v́ dân” (thành tâm);

 

(3) Khi sự thành tâm đă an định th́ không dùng phương pháp lươn lẹo, gian trá, thay trắng, đổi đen, tôn trọng đặc tính liêm khiết của cuộc bầu cử (chánh ư);

 

(4) Người được vinh danh là người có phẩm hạnh, là người luôn xét ḿnh, tự sửa sai để hoàn thiện trong lời nói và việc làm (tu thân);

 

(5) Chọn người đại diện một cách công minh, chính trực, thể hiện sự liêm chính, là hành vi nêu gương tốt cho con, cháu, hậu duệ, trong công tác giáo dục, xây dựng nền tảng gia đ́nh (tề gia)

 

(6) Hỗ trợ, giúp đỡ các cuộc bấu cử tự do để sự điều hành được chính trực làm gia tăng giá trị của tập thể, ḷng tín nhiệm của đồng bào, sự kỳ vọng của ứng cử viên, trong công tác xây dựng nhân quần xă hội (trị quốc);

 

(7) Một khi mọi người, mọi nhà, quốc gia, tuân giữ đạo đức truyền thống th́ cộng đồng quốc tế được thái b́nh, thịnh trị, (b́nh thiên hạ).

 

Nếu vai tṛ của các đoàn thể, cộng đồng, chính đảng, chính phủ là để hoằng dương chủ trương, đường lối chính trị để mời gọi sự hợp tác của quần chúng trong công cuộc xây dựng tự do, dân chủ và thịnh vượng cho quốc gia, dân tộc, th́ công dân phải sáng suốt tự chọn lấy lập trường quốc gia cho chính ḿnh vậy.

 

 

Trần Xuân Thời

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính