Sài g̣n: Biểu tượng của Tự Do

 

Trần Nhật Kim

 

 

 

 

Gia đ́nh tôi quyết định di cư vào miền Nam khi đời sống ở tỉnh Hải Dương trở lên bất ổn sau ngày tiếp thu, một hành động “bỏ của chạy lấy người” vào giờ phút chót, như phần đông cư dân của thành phố này. Chỉ với một quăng đường ngắn 47 Km từ tỉnh Hải Dương tới Hải Pḥng, thành phố tự do cuối cùng do người Quốc gia kiểm soát, chúng tôi không thể đi như trước đây mà phải lấy cớ về thăm quê Nam Định để tránh sự ngăn cản của chính quyền địa phương khi xin giấy phép đi đường. Lợi dụng có giấy phép chúng tôi ghé Hà Nội, ở đây vài ngày trước khi t́m cách xuống Hải Pḥng bằng tầu hỏa.

 

Chuyến đi thật cam go mặc dù chỉ với đoạn đường từ Hà Nội tới Hải Pḥng dài 105Km, mà theo Hiệp Định đ́nh chiến Genève do các bên tham chiến kư kết vào tháng 7-1954, có điều khoản: Dân chúng mỗi bên có quyền di cư sang lănh thổ do bên kia kiểm soát trong thời gian quân đội hai bên đang tập kết…”.

 

Tôi rời bỏ miền Bắc nơi chôn nhau cắt rốn, mà hiện tại chế độ cộng sản coi chúng tôi, những Người Việt Quốc Gia di cư vào miền Nam, là kẻ thù nguy hiểm nhất với bí số B-54 (đi miền Nam năm 1954), v́ cản đường họ Nam tiến hầu nhuộm đỏ các quốc gia thuộc Đông Nam Á châu theo lệnh của Cộng sản Quốc tế. Mà không lâu trước đây tại vùng đất này người Việt đă kề vai sát cánh đổ máu và nước mắt để bảo toàn mảnh giang sơn gấm vóc của tổ tiên để lại trước họa đồng hóa, ngoại xâm “một ngàn năm đô hộ” của kẻ thù phương Bắc.

 

Sau khi chiếm được chính quyền của Thủ tướng Trần Trọng Kim, một chế độ mới ra đời do Hồ Chí Minh lănh đạo, mang tên “Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa” với Quốc kỳ “Ngôi sao vàng trên nền cờ đỏ”, một bản sao của các nước theo chủ nghĩa cộng sản. Bài hát “Tiến quân ca” được ông Hồ phê duyệt ngày 13-8-1945 trở thành Quốc ca, đă đánh dấu một giai đoạn tàn sát, tắm máu người dân miền Bắc qua chính sách “Cải cách ruộng đất” để chia rẽ và chiếm đoạt tài sản. Tiếp đến thiêu hủy văn hóa phẩm và tù đầy người trí thức qua chiến dịch “Trăm hoa đua nở”, hầu dập tắt những tiếng nói đ̣i hỏi một đời sống tự do no ấm.

 

Máu và nước mắt ḥa lẫn hận thù dân tộc đẫm ướt trên mảnh giang sơn nghèo khó này, đă trở thành phí phạm v́ chiêu bài “Bài Phong- Đả Thực” khi Thực dân và Phong kiến không c̣n. Nhưng khẩu hiệu trên vẫn được tận dụng, ngụy trang dưới âm vang của bản Quốc ca (1) đă khích động, lừa gạt ḷng yêu nước cuồng nhiệt của người dân Việt:

 

Đường vinh quang xây xác quân thù…

 

Để rồi: Thề phanh thây uống máu quân thù…

 

Một hành động man rợ, đuổi cùng giết tận, được đảng CSVN xử dụng như một phương châm hành động: “Thà giết lầm hơn bỏ sót” với chính đồng bào ruột thịt của ḿnh, trái ngược với bản chất của một dân tộc nặng về t́nh cảm yêu thương con người. Lời hiệu triệu trên đă đẩy hàng triệu thanh thiếu niên miền Bắc tuổi đời c̣n non trẻ rời bỏ gia đ́nh, phí phạm máu xương hy sinh cho tham vọng “Thế giới đại đồng”, nhưng đó chỉ là hoang tưởng, là mùi thơm của bánh vẽ, không bao giờ hiện hữu trong xă hội loài người.

 

o0o

 

Trở lại chuyện “Nam Kỳ là Thuộc địa”

 

Theo Ḥa ước Nhâm Tuất kư ngày 5-6-1862 giữa Đại Nam và Pháp, nhà Nguyễn phải nhượng cho Pháp ba tỉnh Biên Ḥa, Gia Định Định Tường vốn thuộc vùng lănh thổ cực Nam của nước Đại Nam. Ḥa ước này mất dần hiệu lực, khi quân Cờ Đen hạ sát Francis Garnier ở Cầu Giấy, ngoại ô thành phố Hà Nội. Philastre đă trực tiếp giải quyết mọi việc tại Bắc Kỳ, hạ lệnh rút quân Pháp khỏi thành phố Hải Dương vào tháng 12-1873 và kư với Nguyễn Văn Tường ngày 5-1-1874 rút khỏi Nam Định, Ninh B́nh và trả thành phố Hà Nội cho Đại Nam ngày 6-2-1874.

 

Triều đ́nh Huế chấp nhận kư với Pháp Hiệp ước mới, c̣n gọi là Hiệp ước Giáp Tuất (1874), thỏa thuận giữa Đại diện Pháp là Philastre và đại diện Triều đ́nh Huế là Lê Tuấn và Nguyễn Văn Tường cùng Dupre kư tên ngày 15-3-1874 và bổ sung một Hiệp ước thương mại khác ngày 31-8-1874 giữa Thống soái Krantz và Nguyễn Văn Tường.

 

Ngoài ra, nước Pháp được phép thiết lập cơ sở ngoại giao do một đại biện lâm thời người Pháp đứng đầu ṭa Trú sứ đặt tại kinh đô Huế, ngược lại phía Đại Nam cũng đặt một Lănh sự ở Sài G̣n. Mặt khác, điều khoản về ngoại giao cũng buộc chính sách đối ngoại của Đại Nam phải phù hợp với chính sách ngoại giao của Pháp, tức gián tiếp hủy bỏ quan hệ giữa Triều đ́nh Huế và nhà Thanh, nhằm tách Đại Nam ra khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa.

 

Trong khoảng thời gian dài gần 2 thập niên, từ năm 1861 đến năm 1879, Nam Kỳ nằm dưới quyền cai trị trực tiếp của giới quân sự Pháp và chỉ kết thúc khi Thống đốc dân sự đầu tiên là Charles Marie Le Myre de Vilers thay thế Thống soái Lafont. Vilers tiến hành cuộc cải cách chính trị là sự ra đời Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ theo sắc lệnh ngày 8-2-1880, được Tổng thống Pháp Jules Grévy kư duyệt. Kể từ thời Thống đốc dân sự Vilers, Nam kỳ lục tỉnh của Đại Nam chính thức trở thành thuộc địa của Pháp.

 

o0o

 

Tôi đă tới Sài G̣n, một vùng đất yên b́nh với nếp sống tràn đầy yêu thương hạnh phúc. Một nơi mà những người tới trước đây đă tôn vinh là “Miền Đất Hứa”, mà quan trọng hơn nữa, là nơi chan ḥa ư tưởng với nếp sống “Tự do”, một nơi thể hiện ước vọng hướng tới tương lai tốt đẹp của con người. Sự hiện diện của hơn một triệu người di cư vào Nam sau ngày 20-7-1954 để tránh họa cộng sản miền Bắc, là một sự kết hợp kỳ diệu của dân tộc. Một sự ḥa hợp giữa văn hóa ba miền Bắc-Nam-Trung, đă giúp miền Nam trở lên phong phú trong mọi sinh hoạt đời sống, vừa đậm nét văn hóa truyền thống dân tộc vừa mang mầu sắc văn minh Tây phương, đă xóa bỏ quan niệm vùng miền để hoàn thiện nếp sống Tự do-Dân chủ cho mọi người hiện diện tại vùng đất thân yêu này.

 

Phong trào thơ nhạc theo phong cách Tây phương cũng ảnh hưởng tới đời sống người dân, đă trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu của giới trẻ Việt Nam.

 

 

Một h́nh ảnh chứng tỏ miền Nam là vùng đất tự do khi thấy sách báo gồm cả tiếng Việt lẫn ngoại ngữ với mọi khuynh hướng chính trị hay đời sống xă hội, bầy bán tự do tại các sạp bán báo (Kiosk) rải rác trên khắp các đường phố, giúp người dân hiểu biết về mọi phương diện. Thêm vào đó, người dân tự do nghe tin tức trong và ngoài nước từ các đài thu thanh tư nhân. Với tinh thần ham hiểu biết của người miền Nam, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy các bác xe xích-lô không chở khách, ngồi đọc sách báo vào giờ nghỉ trưa cũng như các người bán sách báo nghỉ trưa tại các sạp bán báo, chứng tỏ người miền Nam tôn trọng quyền tự do cá nhân và cũng thể hiện đây là một đất nước phát triển, dư thừa vật chất.

 

Trong khi tại Hà Nội, phương tiện thông tin bị hạn chế và kiểm soát chặt chẽ, một tờ báo “Cứu quốc hay Nhân dân” cho 10 người dân. Đài thu thanh (Radio) phải có giấy phép với điều kiện “cấm nghe đài ngoại quốc”. Đây là một phương tiện xa xỉ chỉ dành cho thành phần cán bộ cao cấp và thân nhân giầu có. Người dân chỉ c̣n theo dơi tin tức đă gạn lọc do loa phóng thanh tại địa phương.

 

Tất cả những điều trên đă trả lời câu hỏi của người miền Bắc vào Nam sau ngày 30-4-1975: “Tại sao có sự phân biệt đối xử giữa Bắc Kỳ 54 và Bắc Kỳ 75”, một sự so sánh khi người dân miền Bắc hiện diện tại miền Nam qua hai thời điểm 19541975?

 

Chúng ta nhận ra, sau ngày đ́nh chiến 20-7-1954 chia đôi đất nước, hơn một triệu người miền Bắc di cư vào Nam để tránh họa cộng sản, được người miền Nam đùm bọc yêu thương, nhất là cùng chung một luồng tư tưởng văn hóa theo phong thái Tây phương, đă xóa tan những cách biệt vùng miền, để cùng xây dựng một đời sống, một xă hội tốt đẹp hơn. Chỉ một sớm một chiều, người Bắc di cư năm 1954 đă ḥa nhập với nếp sống miền Nam và cảm nhận ḿnh là “người Sài G̣n” trong một xă hội tự do dân chủ.

 

Trái lại, sau khi xâm lăng miền Nam ngày 30-4-1975, người miền Bắc luôn kiêu hănh tự nhận là “Bên Thắng cuộc”, hành động cao ngạo coi rẻ người miền Nam. Cộng sản miền Bắc đẩy hàng triệu quân cán chính miền Nam vào trại tù cải tạo, để chiếm đoạt tài sản cũng như phá bỏ văn hóa miền Nam, gây ra một mối hận khó quên trong ḷng người miền Nam. Người miền Nam được “sáng mắt” về một thế giới đại đồng, dư thừa vật chất với “TV & Radio chạy đầy đường”, để rơi chiếc mặt nạ “Giải phóng miền Nam” thường được nêu cao như một nghĩa cử cao đẹp, đă hiện nguyên h́nh là một băng đảng cướp của giết người. Nhất là sau 20 năm dưới danh xưng XHCN, t́nh tự dân tộc bị xóa bỏ, đi theo chủ nghĩa Tam Vô (Vô Gia đ́nh, Vô Tổ Quốc, Vô Tôn Giáo), xa dần bản sắc dân tộc. Một loại văn hóa ích kỷ đang tràn ngập xă hội. Tất cả những điều trên khiến ḷng người Nam-Bắc khó ḥa hợp sau ngày 30-4-1975.

 

o0o

 

Trở lại vùng đất miền Nam chằng chịt kinh rạch là cơ hội để miền Nam phát triển, như biểu tượng (Logo) của Sài G̣n đă nói lên ước vọng của dân tộc này sẽ vươn ra ngoài, vừa mang tính cạnh tranh vừa thể hiện sự sống chung ḥa b́nh với các dân tộc Năm châu bốn biển. Logo do người Pháp thiết kế năm 1870 làm biểu tượng cho Sài G̣n với h́nh ảnh đơn sơ nhưng có nhiều tiềm năng phát triển mang ư nghĩa:

 

 

“H́nh ảnh hai con cọp thể hiện đây là vùng đất hoang sơ. Ḍng chữ Latinh Paulatim Crescam có ư nghĩa: Cứ từ từ, tôi sẽ phát triển. H́nh ảnh con tầu chạy bằng hơi nước cho biết đây là vùng đất có nhiều kinh rạch. Phía trên có vương miện năm cánh cho hay Sài G̣n sẽ giao thương với năm châu bốn biển.”

 

Có nhiều nhận định về danh xưng của thành phố Sài G̣n là “Ḥn ngọc Viễn Đông” (La perle de l’Extrême Orient), một nơi được tôn vinh là thủ phủ của miền Viễn Đông (Gồm các quốc gia: Việt Nam, Campuchia, Lào, malaysia, Singapore, Thái Lan, Indonesia, Philippines, Hàn Quốc, Trung Hoa và Nhật Bản). Vào cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, hầu hết các quốc gia này trở thành thuộc địa hoặc chịu ảnh hưởng của các cường quốc Tây phương trong đó có nước Anh và Pháp.

 

Từ những năm 1895, Pháp xây dựng các cơ sở của thành phố Sài G̣n nhằm đưa vùng đất này thành nơi phát triển về kinh tế. Dưới sự chỉ huy của Trung tá Công binh Coffyn, Sài G̣n được xây dựng theo phong cách phương Tây. Mô h́nh thành phố Sài G̣n là một Paris thu nhỏ, một kinh đô ánh sáng ở phương Đông. Trong giai đoạn này khu trung tâm thành phố xuất hiện một số công tŕnh c̣n tồn tại đến hôm nay như Nhà thờ Đức Bà, Nhà Hát thành phố, Dinh Thống Đốc, Phủ Toàn Quyền…Hàng loạt nhà hàng, khách sạn mọc lên đă trở thành một địa điểm vui chơi, nghỉ dưỡng, giải trí sau chuyến hải tŕnh trao đổi, buôn bán của giới thương nhân của các quốc gia như Ấn Độ, Trung Quốc, châu Âu, châu Mỹ… Danh xưng Sài G̣n là “Ḥn ngọc Viễn Đông” đă được các thương nhân truyền miệng ghi nhận sau mỗi lần viếng thăm vùng đất “trên bến dưới thuyền” này, mặc dù đây không phải là một hải cảng v́ Sài G̣n là một thành phố. Nhưng Sài G̣n được xem là thủ phủ của Đông Dương về Kinh tế, giải trí để cạnh tranh với Singapore của nước Anh.

 

Với cái nh́n khách quan hơn về thành phố Sài G̣n, vào tháng 10 năm 1819, Trung Úy John White, thuộc Hải quân Hoa Kỳ trên tầu Franklin khởi hành từ cảng Salem thuộc tiểu bang Massachusetts (Mỹ) đă tới Sài G̣n. Dưới sự quan sát của ḿnh, John White có nhiều thiện cảm với vùng đất này và ông ghi lại trong tác phẩm “Voyage to Cochinchina”. Ông rất ca tụng Sài G̣n có tiềm năng về giao thương Quốc tế, cũng như khả năng đóng tầu có thể cạnh tranh với các hăng đóng tầu tốt nhất của Âu châu. Ông cũng nhận định Sài G̣n là nơi dễ sống với một thị trường phong phú về mọi loại hàng hóa, đă hấp dẫn những thương nhân từ các quốc gia như Trung Hoa cách xa hàng ngàn hải lư. Sài G̣n là nơi có nhiều sản phẩm kỹ nghệ như gỗ quư để phát triển ngành hàng hải.

 

Ông John White cũng nhận định ưu điểm về thủy lộ của vùng đất Sài G̣n với sông rạch chằng chịt, ghe thuyền tấp nập qua lại, một ưu điểm để đất nước này phát triển, vươn xa ra tới các quốc gia thuộc Đông Nam Á châu.

 

Sau Trung Úy John White, Năm 1822, Bác sĩ người Anh George Finlayson (1790-1823), thành viên trong phái bộ Anh do John Crawfurd dẫn đầu đến Sài G̣n, với mục đích t́m kiếm giao kết thương mại. Ông có nhận định Sài G̣n là một trong những đô thị có nhiều tiềm năng phát triển thương mại. Các cửa hàng rộng răi, trưng bầy ngăn nắp, tràn ngập các loại sản phẩm. Nhất là bản chất thực thà hiếu khách của người dân địa phương, khiến du khách thỏa măn tất cả những ǵ đă mắt thấy tai nghe, nhất là về phong tục và bản chất t́nh cảm của người dân địa phương.

 

Để cạnh tranh với thành phố Singapore của Anh, người Pháp muốn biến Hà Nội thành Thủ đô văn hóa của Đông Dương, nên các cơ sở văn hóa đều tập trung ở Hà Nội. Sinh viên Đại học thuộc các xứ Đông Dương đều phải tới học tại Hà Nội kể cả con Vua cháu Chúa của các xứ này. Các sinh viên Sài G̣n muốn học Luật Khoa và Y khoa đều phải ra Hà Nội hay sang Pháp. Ngoài dấu ấn người Pháp để lại là cầu Paul Doumer (Cầu Long Biên: 1898-1902) c̣n có một số cơ hạ tầng được xây dựng theo đường nét Tây phương c̣n tồn tại đến ngày nay.

 

Do lợi thế về địa dư, người Pháp xây dựng Sài G̣n thành thủ phủ về kinh tế, hạ tầng cơ sở được đặc biệt quan tâm. Các công tŕnh kiến trúc đều mang phong cách Tây phương, một kinh đô ánh sáng Paris thu nhỏ tại phương Đông. Năm 1885, tuyến đường sắt đầu tiên của Đông Dương dài 70 Km nối Sài G̣n – Mỹ Tho được xây dựng. Cầu B́nh Lợi hoàn tất năm 1902 đă rút ngắn sự di chuyển giữa Thủ Đức và Biên Ḥa.

 

Giao thông đường thủy được đặc biệt quan tâm. Nhiều khu bốc dỡ, chuyển vận hàng hóa c̣n lưu danh đến ngày nay như: Bến Hàm Tử, B́nh Đông, Chương Dương, Vân Đồn, Bạch Đằng. Sau khi chợ Bến Thành xuất hiện năm 1914, việc trao đổi hàng hóa giữa trung tâm Sài G̣n và Chợ Lớn phát triển trở thành một nhu cầu cấp thiết, các khu vực đầm lầy giữa Sài G̣n và Chợ Lớn được san lấp trở thành Đại lộ Trần Hưng Đạo.

 

Theo PGS. TS. Trần Đ́nh Thiên, Viện Trưởng Viện Kinh Tế Việt Nam: “vào thập niên 60-70 Sài G̣n vẫn được mệnh danh là Ḥn ngọc Viễn Đông, thành phố duy nhất trong khu vực được định danh, trong khi Singapore lúc đó chỉ là một đảo quốc hoang vu”. Điều này được ông Lư Quang Diệu, Thủ Tướng đầu tiên của Singapore, phát biểu vào thập niên 1960: Hy vọng một lúc nào đó Singapore sẽ phát triển như Sài G̣n (3).

 

Hà Nội là một đô thị nên được bao quanh bởi bốn Trấn “Tứ chiếng”, các Trấn này ẩn sau lũy tre xanh, hàng rào che chắn, bao bọc bởi đê điều, các thân tộc liên kết với nhau qua nhiều thế hệ, tạo cho Hà Nội một thế giới riêng biệt khép kín, nên mang tính hướng nội.

 

Sài G̣n, một nơi được mệnh danh là “Tứ Chiếng” như Hà Nội, là nơi tập trung dân cư nhiều vùng tới đây sinh sống. Theo Trịnh Hoài Đức, Tứ Chiếng của Sài G̣n – Gia Định là “tứ phương tạp xứ”, không phải chỉ gồm có người Việt đến từ miền Trung hay các vùng phụ cận, mà c̣n có cả người dân của nhiều quốc gia đến lập nghiệp, với ngôn ngữ và phong tục tập quán khác nhau.

 

Sài G̣n vừa là một đô thị vừa là một bến cảng nằm gần các giao lộ hàng hải quốc tế. Như Pallu de la Barrière ghé Sài G̣n vào cuối thế kỷ 19 đă nhận định: “Hàng ngàn con thuyền vào sông tạo thành một thành phố nổi, với sự xuất hiện của người Ấn, người Tầu, vài người lính Pháp và Tagal (Phi Luật Tân) với ngôn ngữ khác nhau, tạo ra một cảnh quan khác biệt…”

 

Trong số những người đến Sài G̣n sớm nhất phải kể là người Hoa với nhiều lư do mà chủ yếu là đi t́m đất sống. Sự cộng cư giữa người Việt và người Hoa, người Miên, người Mă và thương nhân của nhiều quốc gia khác, đă tạo cho Sài G̣n một phong thái hiếu khách, thân thiện.

 

Với địa dư đặc biệt của miền Nam, một vùng đất tiếp giáp với biển khơi, đă tạo cho “Người Sài G̣n” tính mạnh mẽ, phóng khoáng, trọng nghĩa khinh tài, không chịu luồn cúi trước bạo lực. Do đó, Người Sài G̣n ưa chuộng Tự Do hơn. Nhờ ưu đăi của của vùng đất rộng lớn, lương thực nhiều không lo đói rét v́ nằm trên vựa thóc miền Nam, theo Trịnh Hoài Đức, về mặt địa lư, Sài G̣n thuộc khu vực nhiệt đới có gió mùa nên nóng và ẩm. Khí hậu Sài G̣n có hai mùa mưa và khô. Nhất là, Sài G̣n nằm gần ngă tư quốc tế, nơi tiếp giáp với các con đường hàng hải thế giới từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, khiến Sài G̣n trở thành điểm hội tụ của các thương nhân thuộc nhiều quốc gia trên thế giới. Nhờ sông Sài G̣n nối ra biển, nên dù thành phố có nằm sâu trong nội địa vẫn là một cảng biển, thuận lợi cho tầu thuyền ra vào. Đây cũng là dịp để Sài G̣n giao tiếp, vươn xa tới các quốc gia Đông Nam Á và trên thế giới. Sông Sài G̣n và các kinh rạch chịu ảnh hưởng của thủy triều đă ảnh hưởng tới phong cách của Người Sài G̣n. Tất cả những điều trên khiến Sài G̣n khác với Hà Nội, Sài G̣n hướng ngoại nhiều hơn.

 

o0o

 

Từ sau ngày 30-4-1975, dưới chính sách “công an trị”, CSVN đă cố công xóa bỏ những công tŕnh mang lợi ích thiết thực cho người dân của Việt Nam Cộng Ḥa, mà ưu điểm là nếp sống Tự do – Dân chủ đă trở thành một thói quen không thể xóa bỏ của người miền Nam. Trong nếp sống đó, điểm dễ nhận thấy là sự tôn trọng quyền Tư Hữu, ḷng tương trợ cưu mang những người cơ nhỡ, nhất là tính kỷ luật thể hiện trong đời sống hàng ngày, một ưu điểm của xă hội Tự Do.

 

Trước sự thất thủ của miền Nam sau ngày 30-4-1975, Ông Josh Gelernter đă nuối tiếc về thành quả của Việt Nam Cộng Ḥa và đưa ra lời nhận định trong bài viết: “If South Vietnam Were free Today” đăng trên báo National Review (Politic & Policy) ngày 25 tháng 4 năm 2015: (6)

 

“Hăy nh́n phần c̣n lại của Đông Nam Á và mường tượng miền Nam Việt Nam sẽ ra sao…”, và đưa ra trường hợp của 3 quốc gia được Mỹ hỗ trợ để chống lại cộng sản như: Đài Loan chống Trung cộng, Nam Hàn chống Bắc hàn và Nam Việt Nam chống cộng sản miền Bắc. Hiện nay về chỉ số phát triển, tính trên mức sống của người dân của 2 trong 3 nước kể trên: Nam Hàn đứng vị trí 15, Đài Loan vị trí 21 trong số những quốc gia phát triển nhất Âu Châu. Đài Loan hơn Trung quốc 70 bậc, c̣n XHCN Việt Nam đứng vị trí 122.

 

Cũng trong chiều hướng trên, Dân biểu phản chiến Hoa Kỳ, ông Leo J. Ryan (1925-1978) cũng nhận định về t́nh trạng chính trị của VNCH:

“Mặc dù Nam Việt Nam không phải là pháo đài của nền dân chủ, những cáo buộc nặng nề nhất về việc đàn áp những quyền cơ bản của con người đă bị thổi phồng. Vẫn có lực lượng chính trị và báo chí đối lập hoạt động và lên tiếng. Vẫn có một số tù nhân chính trị, nhưng dân chúng cũng như các nhà đối lập không phải sống trong sự sợ hăi và đàn áp của chính quyền…”

 

Quan trọng hơn nữa, Đài Loan và Nam Hàn có bầu cử tự do, tự do báo chí, tự do tôn giáo, tự do hội họp và tự do ngôn luận mà Trung cộng và Bắc Triều tiên đều không có quyền tự do này. C̣n XHCN Việt Nam sẽ không bao giờ có tự do khi đảng cộng sản c̣n cầm quyền cai trị dưới chính sách độc tài công an trị.

 

o0o

 

Nh́n vào Việt Nam hôm nay dưới chế độ Xă Hội Chủ Nghĩa, người dân được hưởng những ǵ hay chỉ có đàn áp, bất công. Đảng cộng sản vẫn độc quyền chính trị, chiếm dụng tài sản của người dân bằng bạo lực. Một chủ thuyết không lối thoát, như ông Nguyễn Phú Trọng nghi ngờ về tương lai của Chủ nghĩa Xă hội khi tuyên bố “không biết đến cuối thế kỷ này đă có Xă hội Chủ nghĩa ở Việt Nam hay không?”

 

Như nhiều người nhận định, đă đến lúc phải từ bỏ Chủ nghĩa Xă hội, một chủ nghĩa chỉ giúp cho giới lănh đạo nhờ tham nhũng hối lộ, trở thành một giai cấp giầu có, của ăn của để dư thừa, trong khi người dân nghèo đầu tắt mặt tối, miếng ăn lần không ra. Một xă hội mà văn hóa ích kỷ đố kỵ tràn lan, không c̣n đất sống cho những người có thiện tâm v́ quốc gia dân tộc.

 

Đứng trước sự suy sụp của văn hóa hiện tại, nhiều người nuối tiếc nền văn hóa Nhân bản của Việt Nam Cộng Ḥa, được thực hiện dưới thời Đệ Nhất và Đệ Nhị VNCH gồm những nguyên tắc: Giáo dục Việt Nam là giáo dục nhân bản, lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người làm căn bản. Chấp nhận sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận sự kỳ thị phân biệt giầu nghèo, địa phương, tôn giáo hay chủng tộc và mọi người có quyền được hưởng một nền giáo dục đồng đều. Giáo dục phải bảo tồn hay phát huy truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc. V́ giáo dục Việt Nam là giáo dục khai phóng, nên phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học tân tiến cũng như tiếp cận với văn minh thế giới. Hơn nữa, VNCH theo thể chế “Tam quyền phân lập” để bảo vệ quyền tự do của người dân, cũng như tổ chức bầu cử tự do các chức vụ từ thượng tầng đến các đơn vị địa phương.

 

Tôi tiếc cho Hà Nội đă một thời vang danh là cái nôi của văn hóa dân tộc, được ca tụng:

 

Chẳng thơm cũng thể hoa Nhài
Dẫu chưa thanh lịch cũng người Tràng An

 

Nhưng sau 20 năm dưới sự cai trị của cộng sản, Hà Nội đă để mất phong thái ngày xưa.

 

Sau 4 thập niên bị áp bức trù dập, danh xưng Sài G̣n với nếp sống tự do dân chủ vẫn là tiếng nói, là nhịp thở trong trái tim người miền Nam. Ư tưởng “Tự do-Dân chủ” chan ḥa trong nếp sống của “Người Sài G̣n”, quen thuộc như một hơi thở, một thói quen có từ thời khai sinh vùng đất này. Mà trong nếp sống ấy, Tự do được nêu cao vừa là quyền lợi vừa là sự chọn lựa của mỗi con người, một cá thể độc lập, có suy nghĩ, tư tưởng riêng và có quyền lựa chọn cách sống sao cho phù hợp với trào lưu của xă hội để được vui hưởng hạnh phúc toàn vẹn.

 

Mặc dù chỉ với 21 năm trong nếp sống Tự do – Dân chủ của Việt Nam Cộng Ḥa, một nền Dân chủ c̣n non trẻ, nhưng ở đó người dân luôn sống trong hạnh phúc và tự hào có một đời sống xứng đáng là một “Con Người”.

 

Sài G̣n là nhịp thở trong trái tim của người miền Nam. Bất cứ sự thay đổi nào đối với thành phố này, dù là tên gọi, cũng chỉ là tạm bợ, nhất thời. V́ tên gọi Sài G̣n măi măi thuộc về thành phố Sài G̣n.

 

 

Trần Nhật Kim
2-2023

_________________________

 

Chú thích:

 

(1) “Tiến quân ca”: một bài hát do nhạc sĩ Văn Cao (1923-1995) sáng tác vào năm 1944 được dùng làm Quốc ca của nước “Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa” từ năm 1945. Bài hát Tiến quân ca được viết tại căn gác số 45 Nguyễn Thượng Hiền. Sự h́nh thành bản Tiến quân ca được ghi nhận: “Mùa đông năm 1944, Văn Cao gặp Vũ Quư, một cán bộ Việt Minh, ở ga Hàng Cỏ, đă động viên ông viết những bài hát như Đống đa, Thăng Long hành khúc…Vũ Quư đề nghị Văn Cao thoát ly và nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một bài hành khúc cho quân đội Việt Minh.

Về bản Tiến quân ca, ông Văn Cao có ghi lại vào tháng 7 năm 1976:

“Tôi chỉ đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết đến chiến khu, chỉ biết những con đường Phố Ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen tôi đi. Tôi chưa gặp chiến sĩ cách mạng của chúng ta trong khóa quân chính đầu tiên ấy và chỉ biết họ hát như thế nào…

(2) Bàn về Saigon là Ḥn ngọc Viễn Đông (Trương Nhân Tuấn)
https://www.bbc.com/vietnamese

(3) Danh từ Tứ Trấn (của Hà Nội) xuất hiện vào cuối thế kỷ 15 dưới thời vua Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức 21 (1490), gồm cư dân của bốn Trấn bao quanh kinh thành Thăng Long như một lớp vỏ bọc: Trấn Kinh Bắc, Trấn Sơn Nam, Trấn Hải Dương và Trấn Sơn Tây.

(4) Lư giải mỹ danh ‘Ḥn ngọc Viễn Đông’ của Sài G̣n xưa
https://vnexpress.net/ly-giai-my-danh-hon-ngoc-vien-dong-cua-sai-gon-xua-3399077.html

(5) Lư Quang Diệu từng ước Singapore sẽ được như Sài G̣n:
https://danlambaovn.blogspot.com/2012/03/ly-quang-dieu-tung-uoc-singapore-se-uoc.html

(6) If South Vietnam were free today

https://www.nationalreview.com/2015/04/if-south-vietnam-were-free-today-josh-gelernter/

(7) Theo tài liệu của Giáo sư nguyễn Thanh Liêm

https://vietcatholic.net/Media/giaoducvnch.pdf

(*) Dân trí được quan tâm tại “ATM Gạo” miễn phí vào lần cứu trợ tại “Sài G̣n – Hà Nội”

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính