Những “con ngựa thành Troy”[1]

 

Trần Doăn Nho

 

 

“Phong trào đô thị” (Huế) là nhóm chữ được một số trí thức và sinh viên học sinh cộng sản nằm vùng quy cho các hoạt động tranh đấu của họ trong ḷng chế độ VNCH. Lâu lâu, những cựu “nằm-vùng-viên” này lại tụ họp nhau để hâm nóng niềm kiêu hănh “kéo dài” của họ bằng cách nhắc nhở lại những ngày tháng cũ. Một bản tin trên trang “Thừa Thiên-Huế online ngày 9/1/2014 viết:

 

Với nhà thơ Vơ Quê, nguyên Trưởng khối Báo chí – văn nghệ của Tổng hội Sinh viên trước 1975, thời thanh xuân là những năm tháng sôi nổi khi được ḥa ḿnh vào phong trào yêu nước của tuổi trẻ học đường. Thế hệ của ông, h́nh ảnh những cuộc hội thảo, mít-tinh, tuyệt thực, đêm không ngủ, băi khóa, xuống đường, đốt xe Mỹ trên đường phố Huế… đ̣i ḥa b́nh, thống nhất đất nước và những tháng năm ngục tù tại nhà lao Thừa Phủ, Chí Ḥa, Côn Đảo… măi măi là những hồi ức hào hùng. Quá khứ đầy dũng khí trong một bối cảnh hiểm nguy, gian khổ ấy đă cho họ nhiều kỷ niệm với đầy đủ ư nghĩa vui buồn, khổ đau, hạnh phúc.

 

“Tôi vẫn nhớ như in h́nh ảnh những người bạn tù sơ sinh đồng hành cùng chúng tôi trên chiếc tàu HQ 500 của nhà cầm quyền Sài G̣n với 5 ngày 5 đêm lênh đênh trên biển cả thiếu nước, đói cơm, hôi hám, bệnh tật đi từ bến cảng Thuận An ra Côn Đảo”, nhà thơ Vơ Quê nhớ lại. Và bài thơ “Gởi người bạn tù sơ sinh” được ông viết trong bối cảnh ấy, bí mật gởi về đất liền đăng trên báo Đối Diện. Đối diện với hiểm nguy, sống chết nhưng bài thơ lại toát lên một tinh thần lạc quan: “Ngủ đi bé thơ!/ đời xanh tươi lắm/ ngoài cánh cửa đề lao trời cao và rộng/ trên mái nhà tù gió lộng trăng thanh/ gió lộng trăng thanh bé lành giấc ngủ/ đợi ba về mở cửa tự do/ đêm nay mẹ lại khoan ḥ/ đọc trong lời mẹ ngàn pho sử hồng…”.

 

Và một bài thơ khác của nhà thơ Vơ Quê “Thừa Phủ ơi ḷng ta hồng biển lửa!”, thai nghén trong phong trào đấu tranh sục sôi của sinh viên những năm 1970 đă được tuổi trẻ học đường miền Nam hồi đó yêu thích. Nó đă được chép chuyền tay và đọc trong các cuộc xuống đường, trong giảng đường ở Sài G̣n và ở Huế. Bài thơ càng có sức lan tỏa khi nhạc sĩ Nguyễn Phú Yên phổ nhạc. H́nh ảnh những nữ tù quét lá trên đường Lê Lợi, bị khiêng qua nhà xác Bệnh viện Huế trở thành ám ảnh lớn trong ông: Ơi người tù thiếu nữ trưa nay / Đang âm thầm quét lá khô rơi trên vỉa hè Lê Lợi / Hồn em đau trong từng nhát chổi lạnh lùng / Ta biết ḷng em đang rực hồng / biển lửa / Chờ gió ngày băo lớn thổi bùng lên…

 

(…)

Hồi tưởng những năm tháng có mặt trong phong trào sinh viên yêu nước, nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hoa cho rằng, Huế là một trong những trung tâm khởi phát phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh mạnh mẽ và liên tục, được ví như một ng̣i nổ, làm bùng phát phong trào đấu tranh yêu nước ở đô thị.

 

“Theo tôi 5 yếu tố dẫn đến h́nh thành phong trào là: khát vọng về dân chủ và công bằng xă hội được cuộc đấu tranh của Phật giáo khơi dậy và cuốn hút; sự tự thức tỉnh về ư thức dân tộc khi Mỹ đổ quân vào Việt Nam; có sự chỉ đạo của tổ chức Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam và trong đó có sự chỉ đạo của Thành uỷ Huế; khát vọng hoà b́nh của tuổi trẻ trong thời điểm chiến tranh, phản chiến đ̣i hoà b́nh độc lập thống nhất đất nước thôi thúc thanh niên rất mạnh mẽ; và mọi phong trào của thanh niên sinh viên học sinh Huế liên tục được là nhờ có một tổ chức rất hợp pháp ngay trong xă hội của miền Nam làm ngọn cờ là Tổng hội Sinh viên Huế. Đây chính là trung tâm liên kết giữa sinh viên học sinh với trí thức công chức, người lao động, tiểu thương…”, ông Hoa đúc kết.[2]

 

Một bản tin khác trên Tuổi Trẻ ngày 18/10/2015 viết:

 

Cứ h́nh dung những người thanh niên, sinh viên học sinh hồi trước năm 1975 trong phong trào đô thị Huế nay cũng tṛm trèm sáu, bảy mươi tuổi, bỗng gặp nhau tay bắt mặt mừng, cầm trên tay tập sách dày dặn “nóng hổi” vừa in xong, bảo nhau kư tặng làm lưu niệm… cũng đủ thấy chất sôi nổi ngày xưa quả chưa mất đi trong những con người đặc biệt ấy.

 

Nhạc sĩ Tôn Thất Lập cho biết đến nay đă tṛn 50 năm ngày ông viết ca khúc Hát cho dân tôi nghe tại giảng đường đại học ở Huế. Cái năm 1965 ấy, khởi đi từ bài này, phong trào đô thị Huế h́nh thành một ḍng chảy “Hát cho đồng bào tôi nghe” lan rộng khắp các đô thị và bùng lên ở Sài G̣n thành sức mạnh đáng kể.

Điểm lại quá tŕnh h́nh thành bản thảo tập sách Lịch sử phong trào đô thị Huế 1954-1975, ông Nguyễn Kim Dũng – nguyên bí thư Thành ủy Huế – cho biết việc viết lại lịch sử phong trào đô thị Huế trong những năm chống Mỹ là ư nguyện, mong muốn của nhiều thế hệ lănh đạo kể từ sau 30-4-1975, tuy nhiên măi đến gần đây mới thực hiện được. Buổi ra mắt sách hôm nay tại TP.HCM c̣n có cả đương kim Bí thư Thành ủy Huế Huỳnh Cư và đại diện ban biên soạn vào dự cùng các thành viên phong trào năm xưa.

 

Ông Lê Văn Thuyên – nguyên chủ tịch Tổng hội sinh viên Huế 1971-1972, đại diện ban biên soạn tập sách – tŕnh bày các phần nội dung và lược thuật những nét chính trong diễn biến phong trào đô thị Huế từ 1954-1975, mà các mốc quan trọng như phong trào năm 1963, t́nh h́nh thử lửa năm 1965, cuộc biến động miền Trung năm 1966…

 

(…)

Ông Trần Hoài – đại diện ban biên soạn – cho biết: “Mỗi thế hệ đều có nhu cầu riêng của thời đại để giải quyết, nhưng chúng ta cùng một tâm nguyện là làm cho đất nước, cho cuộc đời tốt đẹp hơn lên. Bởi thế hệ chúng tôi cũng có nguyện ước là mong đất nước yên ổn để chúng tôi được học hành, trên cơ sở đó đóng góp cho đất nước, để đất nước phát triển có thể sánh vai với thế giới, thế lực nào cản trở khát vọng này là chúng tôi đấu tranh”.[3]         

 

Từ trái: Lê Nhược Thủy (đứng hát); Tôn Thất Lập (đội mũ, đứng hát) – Vơ Quê (đội mũ, ngồi)

(H́nh: L. Điền – Tuổi trẻ online)

 

Có khá nhiều “nằm vùng viên” nổi tiếng thời đó được nhắc đến trong hai bản tin: Nguyễn Xuân Hoa, Bửu Chỉ, Vơ Quê, Phan Hữu Lượng, Trần Hoài, Tôn Thất Lập, Miên Đức Thắng, Thái Ngọc San, Hoàng Thị Thọ, Nguyễn Duy Hiền, Lê Văn Thuyên, Lê Nhược Thủy, Nguyễn Phú Yên…, trong đó một số đă qua đời như Bửu Chỉ, Tôn Thất Lập, Thái Ngọc San. Hầu hết những khuôn mặt này đều là bạn bè hay người quen kiểu này kiểu khác của tôi, nếu không th́ cũng đă từng có lúc ngồi cùng bàn cà phê.

           

Gạt qua một bên tính cách tuyên truyền, hai bản tin trên cho ta một số thông tin về khung cảnh sinh hoạt dưới thời VNCH. Đó là một xă hội, trong đó, sinh viên học sinh được tổ chức “hội thảo, mít tinh, tuyệt thực, đêm không ngủ, băi khóa, xuống đường,” không những thế, có khi c̣n “đốt xe Mỹ trên đường phố Huế, đ̣i ḥa b́nh, thống nhất đất nước”; thơ tù th́ “được chép chuyền tay và đọc trong các cuộc xuống đường, trong giảng đường ở Sài G̣n và ở Huế”; đoàn văn nghệ được phép thành lập, đi biểu diễn ở các địa điểm công cộng như Giảng đường C, Giảng đường Karate, các trường trung học, chợ Đông Ba, khu dân cư; sinh viên học sinh được ra những tờ báo như “Tiếng Gọi Học Sinh”, “Tiếng Gọi Sinh Viên” , “Sinh Hoạt” hay sử dụng Tổng Hội Sinh Viên Huế, một tổ chức hợp pháp được quy chế tự trị đại học bảo vệ, để lưu trữ tài liệu cộng sản và tổ chức các hoạt động chống chính quyền và chống Mỹ. Tóm lại, đó là một xă hội mở, dành cho người dân nhiều thứ quyền, nhờ đó, người trí thức vừa được hưởng lương nhà nước và sinh viên học sinh vừa được học tập miễn phí, lại vừa được tranh đấu chống chính quyền một cách thoải mái. Sau 1975, tất cả các quyền công dân căn bản nói trên  đều bị triệt tiêu: chỉ cần đưa ra một vài ư kiến trên Face Book không vừa ḷng quan chức là bị kết tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ” với những bản án vô cùng tùy tiện, bất chấp luật pháp, kể cả thứ luật pháp do chính nhà nước cộng sản đề ra.

           

Theo các phát biểu nêu ra trong bản tin, động lực thúc đẩy các nằm-vùng-viên là: khát vọng dân chủ và công bằng xă hội, đ̣i ḥa b́nh, thống nhất, độc lập, chống lao tù, chống nghèo đói, chống các tệ nạn xă hội, muốn đất nước phát triển sánh vai với thế giới. Một “nằm vùng viên” than phiền cảnh “thiếu nước, đói cơm, hôi hám, bệnh tật…” của những tù nhân. (Cần nhấn mạnh, những khát vọng như thế là của mọi người, chứ không riêng ǵ của những “nằm vùng viên”). Điều đó cũng có nghĩa là: nếu cộng sản nắm được chính quyền th́ những khát vọng trên sẽ trở thành hiện thực và tất nhiên, các h́ện tượng tiêu cực sẽ hoàn toàn chấm dứt. Tuy nhiên, sau 1975, khi cộng sản nắm toàn quyền sinh sát từ bắc chí nam, tất cả những khát vọng vẫn chỉ là khát vọng; các tệ nạn xă hội, sau gần nửa thế kỷ, vẫn tồn tại một cách dai dẳng với tầm mức sâu rộng hơn trong lúc h́nh thức lộng quyền, tham nhũng của các đảng viên cộng sản và quan chức từ địa phương tới trong ương, kể cả bộ phận chóp bu, phát triển tràn lan, hoàn toàn bất khả trị. Trước th́ đổ lỗi cho Mỹ-Nguỵ, bây giờ đổ lỗi cho ai? Ấy thế mà, trong lúc khá nhiều văn nghệ sĩ cùng lứa tuổi được đào tạo ở miền Bắc cũng như nhiều giới trẻ khác trưởng thành sau 1975 kư tên vào những bản lên tiếng hay viết bài góp ư, lên án các hành vi ngang ngược của Trung Quốc trên biển Đông, vụ Formosa, vụ thảm sát Đồng Tâm, các bản án oan khuất, các vụ tham nhũng tày trời, th́ hầu hết các khuôn mặt trong phong trào đô thị, điển h́nh là các “nằm vùng viên” nói trên, đều hoàn toàn  ngậm miệng. Họ đứng về phía nhà nước và đảng Cộng Sản, tụ họp nhau, nhắm mắt trước hiện thực tồi tệ của đất nước, ôn lại chút quá khứ như một phép “thắng lợi tinh thần” (kiểu AQ của Lỗ Tấn)!

           

Trước các chính sách trưng thu đất đai, hiện tượng phá rừng, phá núi tràn lan, hơn lúc nào hết, những lời hát cũ ngày nào cần phải được lập lại:

–   Đất hoang ta phá đất khô ta gầy

đất mang hoa thắm tương lai ta đầy

đất ta ta xới đất ta ta bồi

đất ta ta tới đất ta ta ngồi. (Miên Đức Thắng)

 

–   Dành lại ḍng sông này cho lúa chín khắp đồng xanh

Dành lại thành-phố đó bàn tay nâng cao ḥa-b́nh (Tôn Thất Lập)

 

Với sự đóng góp xương máu của nhiều thế hệ, rốt cuộc, đảng cộng sản có được tất cả, nhưng nhân dân th́ chẳng có ǵ.

 

*

 

Nhưng không phải tất cả những “con ngựa thành Troy” đều giữ măi niềm tự-hào-như-một-quán-tính đó. Trong thời gian đầu, với tư cách người thắng trận và trở thành những chủ nhân ông mới của thành phố, một số nằm-vùng-viên được đảng bổ nhiệm nắm giữ những vai tṛ quan trọng của các ty, sở hay các phân khoa, trường học. Họ “hồ hởi phấn khởi”, hănh diện tiến hành cuộc cách mạng thay đổi lịch sử mà họ đă từng đ̣i hỏi và mơ ước. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, mọi sự bỗng chững lại. Bộ máy đảng và nhà nước – kẻ chiến thắng thực sự – không hành xử theo thứ cung cách mà họ tưởng tượng. Với thành tích tranh đấu, họ tưởng ḿnh là những người cộng sản tiêu biểu; nhưng đối với bộ máy đó, hóa ra, họ chỉ là những đứa con ngoại hôn. Được trưởng thành dưới chế độ VNCH, họ mang những tố chất của cái xă hội mà họ được giáo dục và đào tạo: ḷng yêu chuộng tự do, tinh thần phản kháng, thich bàn căi và tranh luận để t́m cái đúng, cái sai. Thế nhưng, đối với bộ máy đảng, những tố chất đó hoàn toàn không thích hợp, nếu không muốn nói là “phản động”, là tiêm nhiễm “nọc độc” của chế độ cũ. Họ được la lối, chí trích, rủa sả cái cơ chế đă giành cho họ quyền được chỉ trích, rủa sả, nhưng không được hành xử quyền đó đối với các đồng chí của ḿnh. Rốt cuộc, những con ngựa thành Troy bị bịt miệng. Hoặc tự bịt miệng ḿnh.

 

Lần lượt, những chàng sinh viên Huế nhiệt huyết, tỏa sáng trong những cuộc tranh đấu, hội thảo, xuống đường trong chế độ cũ dần dà bị loại khỏi guồng máy. Các vai tṛ trưởng ty, hiệu trưởng hay một số chức vụ cao cấp nào đó được “cách mạng” ban phát như một h́nh thức thưởng công, rốt cuộc, chỉ có tính cách lót đường và lần lượt được thay thế bởi những thành phần ṇng cốt, gắn bó thâm căn cố đế với đảng cộng sản. Thất vọng và bất măn, người th́ bỏ Huế vào Sài G̣n làm nghề tự do kiếm sống, người th́ lặng lẽ rút chân ra khỏi cơ quan nhà nước, kẻ th́ dứt khoát hơn, trả lại thẻ đảng hay t́m cách trốn ra nước ngoài theo phong trào vượt biên hay bảo lănh. Trong chốn riêng tư, họ không tiếc lời chửi đảng và nhà nước. Anh bạn láng giềng của tôi, người đă bao phen rủ rê tôi vào rừng theo “Mặt trận”, – khi đội mũ cối từ trên rừng về, việc đầu tiên là đập phá ngay cái am thờ trước mặt nhà, để chứng minh tinh thần chống mê tín dị đoan của ḿnh,- được phong cho giữ một trưởng ty ǵ đó, nhưng rồi bị thất sủng, thất vọng, một thời gian sau, nhuốm bệnh, chết. Một trí thức trẻ, ḍng dơi quan gia, người đă nhiều đêm đến ngủ lại nhà tôi vừa đánh cờ vừa nhỏ nhẹ khuyên tôi nên ủng hộ ḥa b́nh và thống nhất đất nước, được bố trí làm quyền khoa trưởng một phân khoa đại học, bỏ vào Sài G̣n đi bán thuốc Tây. Một nhà thơ, một thời nắm quyền sinh sát một tờ tạp chí địa phương, trả thẻ đảng. Một nhà thơ khác, bỏ học, lên rừng, ra Bắc, có tư tưởng chống chiến tranh, bị giam lỏng, trở về Huế sống không có hộ khẩu. Một giáo sư đại học, người từng được cho sắm vai chủ tịch một lực lượng hữu danh vô thực, chạy chọt ra nước ngoài rồi xin tỵ nạn.[4] Sau khi đi ở tù về, tôi gặp lại một số trong những người bạn “đối thủ” cũ đó với một quan hệ hoàn toàn mới mẻ: tôi là người của chế độ cũ mất đất đứng, họ là những người của chế độ mới, sống trong hụt hẫng. H́nh bóng ngày nào của những thanh niên đầy hào khí cách mạng – những người đă từng chết mê chệt với h́nh ảnh của  “Che” Guevara (1928-1967) và Fidel Castro (1926-2016) – làm thành phố nóng bỏng lên với những lời lên án, kêu gào trong các buổi hội thảo, xuống đường, bây giờ im re, thủ phận, nhu ḿ như những chiếc bong bóng x́ hơi.

 

Phong trào tranh đấu ở các đô thị miền Nam nói chung, rốt cuộc, là một khát khao bị bội phản. Hào khí cách mạng mà họ sử dụng để chống chính quyền miền Nam trở thành một h́nh thức lấy dây thừng tự trói chính ḿnh, một mặt và mặt khác, là một đóng góp lớn lao đưa đất nước theo con đường đi xuống. Cả miền Nam năng động trước 1975, thoắt một cái, bị nhận ch́m theo chiếc thuyền miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu. Để cuối cùng phải muối mặt đi theo con đường tư bản, thậm chí ngửa tay nhận tất cả mọi h́nh thức viện trợ – không trừ một thứ ǵ -, của các nước tư bản, để cứu ḿnh. Cao điểm là, mới đây, Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Việt Nam ngồi chén chú chén anh với Tổng Thống Mỹ, tay trùm ṣ tư bản, bằng một hiệp ước “Đối Tác Chiến Lược Toàn Diện”. Tờ Tuổi Trẻ lên giọng ca ngợi “Việc nâng cấp quan hệ Việt – Mỹ lên Đối tác chiến lược toàn diện là một minh chứng thuyết phục với các nước trên thế giới về thành quả của một quá tŕnh gây dựng ḷng tin, sự hợp tác bền bỉ, chân thành và hiệu quả của công tác ngoại giao.”[5]

              

Điều này khiến tôi nhớ đến “Trại súc vật” của George Orwell. Có lẽ cũng nên đọc lại trích đoạn cuối của tác phẩm đầy tính tiên tri này:

Napoleon ngồi ngay đầu bàn, chỗ trang trọng nhất. Có vẻ như lũ lợn đă quen với việc ngồi ghế từ lâu. Cả bọn vừa đánh bài, nhưng lúc ấy đă ngưng, chắc là để nâng cốc chúc mừng nhau. Một chiếc b́nh khá to được chuyền tay nhau và tất cả các li đều được rót đầy bia. Không ai để ư đến lũ súc vật đang ṭ ṃ nh́n qua cửa sổ. Ông Pilkington, Trại Cáo, tay cầm li bia, đứng dậy. Ông nói rằng sau đây ông sẽ đề nghị  nâng li chúc mừng. (…) Và bây giờ, Pilkington đề nghị mọi người cùng đứng dậy, đổ đầy bia vào li. ʺThưa các ngài!ʺ, Pilkington kết thúc bài diễn văn như vậy, ʺThưa các ngài, xin các ngài cùng nâng cốc chúc Trại Súc Vật ngày càng thịnh vượng.ʺ  Tiếng vỗ tay, tiếng dậm chân ầm ầm. Napoleon khoái bài diễn văn đến nỗi đến chạm cốc với Pilkington rồi mới uống. Khi tiếng vỗ tay  đă dịu xuống, th́ Napoleon, lúc  đó vẫn đứng, tuyên bố rằng nó cũng xin được phát biểu vài câu. Napoleon bao giờ cũng nói ngắn và đi ngay vào thực chất vấn đề. Napoleon bảo rằng nó cũng rất mừng là đă thanh toán hết mọi hiểu lầm. Trước đây từng có những tin đồn, chắc chắn là do những thế lực thù địch tuyên truyền, rằng dường như nó và các cộng sự đang theo đuổi những ư tưởng phá hoại, nếu không nói là có tính cách mạng. Người ta vu cho chúng ư định kích động súc vật trong các trại khác đứng lên khởi nghĩa. Vu khống, bịa đặt từ đầu tới cuối! Ước muốn duy nhất của chúng, hiện nay cũng như trong quá khứ, là được sống trong hoà b́nh và có quan hệ  làm  ăn b́nh thường với những người láng giềng. Trại mà nó được vinh dự lănh đạo, Napoleon nói thêm, là một loại hợp tác xă. Tất cả những thứ nằm dưới sự quản lí của nó là tài sản chung của cả loài lợn trong trại. Napoleon nói, nó tin là mọi nghi ngờ đă được giải toả và những thay đổi gần đây càng làm tăng thêm sự tin cậy lẫn nhau hơn nữa. Cho đến nay các con vật trong trang trại có một thói quen không hay là gọi nhau bằng ʺĐồng chíʺ. Thói quen này sẽ bị băi bỏ. C̣n một thói quen nữa, không biết bắt đầu từ khi nào, ấy là việc sáng nào cũng đi thành hàng ngũ trong sân, xung quanh một cái sọ heo cắm trên cọc. Thói quen này cũng bị băi bỏ và cái đầu heo đă được đem chôn rồi. Các vị khách chắc đă có dịp trông thấy lá cờ xanh tung bay. Nếu quả họ đă trông thấy th́ chắc chắn là họ phải nhận ra rằng biểu tượng sừng và móng màu trắng cũng đă bị xóa bỏ rồi. Từ nay trở đi lá cờ sẽ chỉ có một màu xanh tinh khiết mà thôi. Nó nói rằng nó xin phép được sửa lại chút xíu bài diễn văn vô cùng súc tích và đầy thiện ư của ngài Pilkington. Trong suốt bài diễn văn ngài Pilkington đă gọi trại này là Trại Súc Vật. Ngài Pilkington dĩ nhiên không thể biết, v́ hôm nay, đây là lần đầu tiên Napoleon tuyên bố hủy bỏ tên Trại Súc Vật. Từ nay trở đi trại sẽ lấy tên là Điền Trang, cần phải gọi như thế v́ từ nguyên uỷ trại này vốn vẫn mang tên như thế.

              

ʺThưa các ngài!ʺ, Napoleon kết luận, ʺTôi đề nghị các ngài nâng cốc chúc mừng, nhưng với một chút xíu sửa đổi. Xin các ngài rót đầy cốc đi đă. Xin các ngài nâng cốc chúc Điền Trang ngày càng thịnh vượng!ʺ  Tiếng vỗ tay vang lên, mọi người cạn cốc. Nhưng những con vật đang đứng bên ngoài th́ thấy như đang xảy ra một chuyện ḱ lạ. Tại sao mặt những con heo lại thành như thế kia nhỉ? Đôi mắt đục mờ của Bà Mập hết nh́n con này lại nh́n sang con khác. Con th́ cằm có đến năm ngấn, con lại có bốn, con th́ có ba. Tại sao mọi thứ lại trở nên mờ ảo và thay đổi nhanh thế nhỉ? Tiếng vỗ tay chấm dứt, bàn tiệc quay lại với ván bài bỏ dở, những con đứng xem bên ngoài lục tục ḅ trở ra. Nhưng chúng vừa ḅ cách khoảng hai mươi mét th́ tất cả cùng dừng lại. Có tiếng ḥ hét ầm ĩ vọng ra từ toà nhà. Chúng lập tức quay lại và tiếp tục nh́n qua cửa sổ. Cuộc tranh căi đang hồi quyết liệt. Có tiếng hét, tiếng đập bàn, tiếng tranh luận và những ánh mắt nghi kị. Nguyên nhân cuộc tranh căi có lẽ là do Napoleon và Pilkington đưa ra con đầm pích cùng một lúc. Mười hai cái miệng tức giận cùng lên tiếng, có trời mới phân biệt được ai với ai. Bọn súc vật không c̣n  để  ư  đến mặt mấy con lợn bên trong nữa. Chúng nh́n lợn rồi lại nh́n người, nh́n người rồi lại nh́n lợn, một lúc sau th́ chúng chịu, không thể phân biệt được đâu là người, đâu là lợn nữa.”[6]

 

Không giống như nước bạn Cuba, nhà nước Cộng Sản Việt Nam đă làm “cách mạng” bằng con đường “phản cách mạng”: xuôi tay cho “mệ” tư bản nuốt! Và tự hào y như thể họ đă làm cuộc cách mạng vô sản thành công.

 

Thái Bá Tân đặt một câu hỏi vô cùng chí lư:

 

Để có được cộng sản

Trên đất nước Việt Nam,

Hai triệu người phải chết,

Chiến tranh hàng chục năm.

Nay họ học tư bản 

Để làm giàu, lạ thay.

Vậy v́ sao phải chết

Hai triệu con người này?[7]

 

Nhưng đó không phải là điều người cộng sản quan tâm. Cộng sản là cộng sản, vốn là thể, đă là thế và sẽ như thế. Có lẽ khái niệm chính xác nhất để diễn tả cái cơ chế lạ lùng đó là h́nh ảnh của một “khối đặc” mà Lê Đ́nh Nhất Lang gọi là “Bọn tao” (4/2011).[8]

 

Bọn tao là một khối đặc

Bọn tao già đi nhưng không lệ thuộc vào một niên đại

Bọn tao không chấp nhận sự thông suốt

Bởi sự thông suốt đe dọa tính đặc của bọn tao

Bọn tao ngăn cản mọi sự túa ra

Bọn tao bưng bít

Bởi sự túa ra làm cho bọn tao hở

Bọn tao chống mọi lực đẩy

Bọn tao tŕ kéo

Bọn tao kết chùm

Bọn tao vinh danh quán tính và thần thoại quá tŕnh quánh

Bọn tao hút hết mọi điều hiển nhiên vào chất ruột đen kịt

Từ lớp bụi mỏng phập phù của chứng cứ

Cho tới những hạt sạn gân gổ của phản biện

Trộn chúng vào làm ruột bọn tao đen thêm

Bọn tao xử thế bằng cách lăn tṛn

Đó là truyền thống của bọn tao

Lăn tṛn làm tất cả nhỏ đi

Nhưng tất cả sẽ không phát hiện ra sự nhỏ đi

Cho nên làm ǵ có sự nhỏ đi

           

 “Bọn tao” diễn tả được tất cả tính chất then chốt của khối đặc “cộng sản”: không chấp nhận sự thông suốt, bưng bít, chống mọi lực đẩy, vinh danh quán tính, lăn tṛn…Để đối phó với sự thay đổi tất yếu sẽ phải xảy ra, khối “bọn tao” ấy nghĩ đến một giải pháp rất…cộng sản: phơi khô thành một xác ướp.

 

Bọn tao biết trước sau rồi cũng bị toát hơi

Hoặc nhăo ra dưới sức vặn khổng lồ của những viễn kiến nhân loại

Bọn tao nghĩ tới chuyện phơi khô

Để dành và không bao giờ rữa

Không bao giờ được rữa

 

 

Trần Doăn Nho

 

 [1] Xem chú thích 8

[2] Ngọc Hà, Hồi ức hào hùng về những tháng năm không ngủ, trang mạng “Thừa Thiên-Huế online”:

https://baothuathienhue.vn/chinh-tri-xa-hoi/thanh-nien/hoi-uc-hao-hung-ve-nhung-thang-nam-khong-ngu-6137.html

[3] Lam Điền, Phong trào đô thị Huế bên trang sách sử, trang mạng “Tuổi Trẻ online”

https://tuoitre.vn/phong-trao-do-thi-hue-ben-trang-sach-su-987202.htm

[4] V́ những lư do riêng, xin được miễn nêu tên những nhân vật nêu ra. Tuy nhiên, những ai có mặt ở Huế vào thời gian đó, đều  ít nhiều biết rơ những sự kiện này.

[5] TS Nguyễn Thành Trung, Tuổi Trẻ online, ngày 14/9/2023.

https://tuoitre.vn/viet-my-la-doi-tac-chien-luoc-toan-dien-thanh-qua-cua-hop-tac-ben-bi-20230914001151367.htm

[6] “Trại Súc Vật”, Phan Minh Ngọc dịch và giới thiệu.

https://thuvienhoasen.org/images/file/5bdIV51G0QgQADp7/animal-farm-truyen-suc-vat.pdf

[7] Thái Bá Tân, Những câu nói nổi tiếng về Cộng Sản

Trang Đào Viên:

https://www.daovien.net/t6548p20-topic

[8] Lê Đ́nh Nhất Lang

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính