Thuyền đắm giữa khơi

 

Tràm cà Mau

 

 

Thỉnh thoảng, lúc mười hai giờ đêm, khi công trường xây bệnh xá cho đảo tị nạn Pulau Bidong ngưng việc, chúng tôi đốt một đống lửa lớn, ngồi quanh kể chuyện quê hương, hát ḥ đàn địch, cho đến khi không c̣n ai thức nổi nữa mới ra về đi ngủ. Đêm nay anh Nam kể một đoạn đời của anh:

 

“Khi chuẩn bị cho chuyến vượt biên đă kỹ càng, chúng tôi sẵn sàng ra đi. Dầu chạy máy cũng chôn dấu được nhiều hơn số cần dùng v́ sợ thất lạc và hao hụt. Chỉ chờ thời tiết tốt là đón người, khởi hành. Bạn tôi không tin vào thiêng liêng, nhưng cũng nấu xôi, gà cúng để xin thánh thần phù hộ cho phút cuối đừng có ǵ xui xẻo xảy ra. Tôi cũng không tin, nhưng không dám chế giễu hoặc nói đùa. Chứ thánh thần nào mà ăn hối lộ xôi, gà? Thánh thần có thương th́ chẳng cần hối lộ ǵ cả.

 

Sau buổi cúng, không biết v́ rau ráng không sạch, hay v́ thịt gà để nguội bụi bặm, đêm đó tôi đau bụng tháo dạ đi cầu. Tôi lần ṃ ra nhánh cây bổ vắt trên con kinh mà thả xuống lơm bơm, làm lũ cá vấy nước dành ăn kêu soàn soạt. Khuya không trăng, không sao, trời lành lạnh, tôi mồi thuốc hút làm đóm lửa bập bùng. Bỗng tôi nghe nhiều tiếng chân đi trên bờ, và nhiều tiếng th́ thầm; tôi tưởng là du kích đi tuần ban đêm. Nhưng không phải, họ là đám người vượt biên đang trên đường đi đến điểm hẹn xuống thuyền. Họ thấy đóm thuốc liền kêu tôi tụt xuống cây, và bắt tôi đi theo luôn v́ sợ bại lộ bí mật. Tôi năn nỉ, xin cho lui, hứa sẽ im lặng, v́ tôi cũng c̣n nhiều việc chưa xong, không thể ra đi được. Họ không c̣n nhiều th́ giờ để suy nghĩ, bắt tôi phải đi theo. Tôi nói cho họ biết, thời tiết lúc này chưa thuận tiện để ra khơi, tôi biết rơ v́ có theo dơi tin tức khí tượng. Họ thấy tôi cù nhầy lôi thôi quá, có người hăm: “Cho nó một phảng, xô xuống kinh khỏi bận trí.” Tôi sợ, và im miệng, họ trói tay tôi đem đi. Thật là khôi hài; khi tôi muốn đi, th́ không được, và c̣n phải tốn nhiều vàng bạc may ra mới chịu cho tham gia. Bây giờ tôi chưa muốn đi, th́ bị bắt theo. Tôi tiếc công chuẩn bị và tổ chức bấy lâu cho chuyến đi sắp đến, nhất là trách nhiệm với những người mà tôi đă hứa hẹn đem họ đi. Tôi là người chủ chốt, thiếu tôi th́ không biết chuyến đi có c̣n chu đáo, tốt đẹp như dự định không, nhưng chuyện vượt biên là may rủi không chừng. Có khi thật chu đáo, th́ thất bại, có khi tổ chức đơn sơ lộ liễu, th́ lại thành công. Bị bắt đi theo nhóm này là một chuyện may mắn hy hữu cho tôi nếu chuyến đi thành công. C̣n thời tiết không tốt, th́ tôi không ngại. Băo bùng đâu có đáng kể. Tôi bị xô lên thuyền lớn với đôi tay bị trói và nằm yên trong khoang. Nếu bị công an bắt, chắc t́nh trạng bị trói cũng chẳng giúp được ǵ cho tôi, v́ Cộng Sản không bao giờ xét đến trường hợp cá biệt. Cứ trên tàu vượt biên là đi vượt biên, không lôi thôi ǵ cả. Nếu khai là bị bắt buộc đi, chúng c̣n không tin, thêm nghi ngờ, và không chừng án lại thêm nặng, hoặc không giải quyết được, cứ để cho dây dưa măi, không có ngày về.

 

Chưa bốc hết người th́ bị bại lộ, thuyền phải rời bến và bỏ chạy. Nhiều gia đ́nh thất lạc nhau, kêu khóc om ṣm. Thuyền xả hết tốc lực, chạy dọc sông, thoát ra cửa biển. Trạm gác bên bờ bắn súng kêu vào để xét, thuyền cũng bỏ chạy luôn. Thuyền nhẹ chạy băng băng. Đạn bắn theo như mưa rào. Không hiểu v́ đâu, chúng không cho thuyền đuổi theo. Có lẽ chúng tôi gặp may mắn.

 

Thuyền chạy thẳng ra biển khơi về hướng đông, đáng ra phải xuôi về phía nam, cần thoát hiểm trước đă. Sống dồn cao ngất. Đúng là biển đang động. Băo tố đang cuồng nộ đâu đó trên vùng biển đông nam Thái B́nh Dương. Thuyền lắc lư vật vờ trên ngọn sóng. Những người yếu sức đều nằm mẹp, nôn thốc nôn tháo ra nước xanh, nước vàng. Thuyền nồng nặc mùi hôi hám. Sau khi thoát lưới công an, bà con hoàn hồn, kiểm điểm lại mới biết chủ tàu và gia đ́nh chưa đến kịp, bị bỏ lại đằng sau. Chỉ có người con trưởng của chủ tàu, v́ phải lái thuyền đáp bến, nên chỉ đi được một ḿnh, vợ con anh cũng chưa đến kịp. Nhiều người khác cũng đồng hoàn cảnh. Trên thuyền chia làm hai phe, một nhóm đ̣i quay về, nhóm khác, gồm các sĩ quan cải tạo, nhất quyết ra đi. V́ vậy, nên thuyền chạy lui chạy tới măi trên một quăng đường. Khi nhóm quân nhân lái, th́ thuyền đi về phía Nam Dương; khi nhóm của con chủ thuyền lái, th́ bí mật quay về.

 

Biển vẫn điên cuồng gầm thét dữ dội. Nhiều lúc thuyền bị đưa lên cao, tưởng như lơ lững giữa thinh không, rồi ném mạnh xuống kêu răng rắc, như thân ván uốn ḿnh bể nát. Bà con nào c̣n chút tỉnh táo th́ cầu nguyện liên hồi. Cộng thêm với cái sợ băo tố, nhóm lạc vợ, lạc chồng, lạc con có thêm nhiều lư do để đ̣i quay về. Tôi đă được cởi trói, và đứng theo phe ra đi, v́ quay lại là nắm chắc phần đi tù. Hai phe tranh chấp dữ dội, có khi gần như sắp xô xát. Tôi linh cảm sẽ gặp khó khăn, kiếm một cái b́nh nhựa làm phao, kiếm dây cột chắc lên người. Một người giễu tôi là liệu với cái phao đó, tôi bơi được qua biển? Tôi thoái thác là nếu có bị sóng đánh rơi ra khỏi thuyền, th́ cũng không đến nỗi chết đuối ngay. Cuộc tranh chấp của hai phe chấm dứt khi thuyền chết máy, bập bềnh giữa biển khơi. Không ai biết là thuyền đă ở nơi nào trên biển. Người th́ đoán là đă ở trong vịnh Thái Lan, người th́ cho rằng đang ở gần Côn Sơn. Thuyền cứ trôi theo từng đợt sóng dài. Thợ máy cố sửa chữa nhưng anh có vẻ vụng về thiếu kinh nghiệm. Có người bảo đó là thợ máy “dổm”, nghe đâu anh ta chỉ là thợ sửa xe gắn máy loại tài tử. Muốn được đi nên xưng đại là thợ máy.

 

Một buổi chiều, biển lặng im không một gợn sóng. Không một thoáng gió. Chiếc thuyền nằm im lặng giữa mênh mông. Nhiều người tỉnh lại, bớt say sóng. Họ mừng, có người vừa mừng vừa sợ, mừng v́ biển êm, sợ v́ không có gió th́ thuyền bất động biết bao giờ mới dạt đến bến bờ. Nhưng tôi lo lắng thật sự, không dám nói ra. Trong mắt con ông chủ tàu cũng đầy ánh âu lo. Nh́n quanh bốn bề chân trời chấm xuống biển bao la. Tôi gỡ thêm mấy lưỡi câu và sợi dây cước bọc vào túi quần. Đúng như tôi lo, khi trời sẩm tối, cuồng phong kéo đến, sóng đùa cao ngất, nhồi con thuyền mong manh như chiếc lá. Sóng lên cao như ngọn đồi và tiếng gió hú ghê hồn. Thân thuyền kêu răng rắc, các mối nối long ra, nước ào ào từ đáy thuyền phun lên. Rồi con thuyền bị vỡ toang giữa tiếng sóng gió gào; tiếng kêu con người bị át hẳn.

 

Tôi tự xem như cuộc đời chấm dứt nơi đây, không có ǵ mà hoảng hốt, không thể nào làm ǵ hơn. Nhưng tôi không buông xuôi, v́ bản năng sinh tồn c̣n mạnh. Tôi ôm chặt lấy mảnh ván thuyền lớn, dù trên lưng tôi c̣n buộc chặt cái phao nhựa. Nhiều lúc bị sóng vùi rất lâu trong nước, tôi rán nín thở, và nhớ thời c̣n bé hay đi tắm sông, lặn đua với bạn bè xuống đáy sâu. Sóng gió thét gào. Có chết cũng thôi, tôi chỉ tiếc chuyến đi đă chuẩn bị kỹ, chờ thời tiết tốt là lên đường, mà bị bắt theo những người này. Họ tổ chức đă kém, mà c̣n không biết ǵ về thời tiết. Tôi chiến đấu nhiều giờ với sóng vùi gió dập. Khi mỏi quá, tôi muốn ngất đi; tấm ván rời khỏi đôi ṿng tay, nhưng cái phao nhựa c̣n buộc chặt trên người. Nhiều lúc tôi mê man, không biết ǵ, có khi trong lúc mơ hồ tôi biết ḿnh đang bồng bềnh trên sóng. Lúc mệt quá, tôi buông xuôi, muốn chết đi cho khỏe. Cơn băo tố kinh hồn kéo dài đến khuya hôm đó.

 

Rồi gió và sóng lặng rất mau; cuối cùng tôi bị dạt vào một băi cát. Tôi nằm liệt, không cử động được, trí óc mơ hồ và thiếp đi rất lâu cho đến khi trời sáng th́ tỉnh dậy. Vừng thái dương đỏ ối vừa nhô khỏi chân trời ở phương đông. Ánh sáng ban mai vă vào mặt ấm áp. Tôi phải tập cử động từ ngón tay, rồi bàn tay, và tự xoa bóp khắp người, một lúc sau mới có thể chống tay ngồi dậy được. Tôi gắng quan sát chung quanh, không biết ḿnh đang ở đâu, nhưng mơ hồ đoán được là đang ở trên một ḥn đảo. Nếu ở đây cũng có chính quyền Cộng Sản, và bị bắt lại th́ thà chết giữa biển c̣n hơn. Thôi th́ đành liều, nếu có ở tù, th́ cũng sẽ t́m cách vượt ngục, c̣n có cơ hội đi lại nữa. Nghĩ đến đó, tôi thấy ḿnh thêm hăng hái. Tôi ráng lết vào một lùm cây để ẩn nấp. Bắt mấy con dă tràng nhỏ bỏ vào miệng nhai sống, ngon như ăn mỹ vị. Tôi liếm nước mưa đọng trên lá cây, ngọt như nước đường. Tai tôi lắng nghe, t́m xem có tiếng động sinh hoạt của loài người hay không. Chắc cũng có nhiều người dạt vào đây như tôi. Tôi cẩn thận nh́n quanh, rồi đi ṿng theo băi cát, khom người như đi phục kích. Đi chừng một tiếng đồng hồ, th́ tôi bị dốc đá dựng đứng cản đường. Tiếng chim kêu xôn xao trên đỉnh cao. Chưa thấy một dấu tích sinh hoạt nào của con người trên đảo, và tôi chợt lo. Lẽ nào ḿnh trở thành anh chàng Rô Binh Sơn (Robinson Crusoe) sống một ḿnh ngoài hoang đảo như câu chuyện tôi thích thú đọc đi, đọc lại thời thơ ấu. Anh chàng Rô Binh Sơn c̣n có một số dụng cụ cần thiết, tôi đây th́ chỉ có tấm thân và cái phao nhựa. Cảm thấy đói bụng vô cùng, nhưng không có ǵ ăn. Cá th́ lội tung tăng từng đàn, nhưng với tay không, tôi c̣n chưa nghĩ được cách bắt. Tôi dùng cuội lớn, đập mấy con ṣ dính vào đá tảng, móc thịt ṣ ăn sống. Giá mà có chút chanh, chút muối và chai đế th́ hưởng lạc có thua chi thi sĩ Tản Đà. Tiếng đập của tôi vang dội lên vách đá vọng lại mồn một, làm tôi lo. Khi đă bớt đói th́ tôi đâm lo. Tiếng đập vang sẽ tố cáo tôi hiện diện nơi đây. Tôi đi sâu vào lùm cây, t́m một nơi kín đáo um tùm tạm thời ẩn nấp và nghĩ ngơi.

 

Nằm trên nhánh cây, tôi suy nghĩ, sắp đặt chương tŕnh hành động đối phó với các trường hợp có thể xảy ra. Cùng lắm là bị bắt, khi đă chấp nhận có thể bị bắt rồi, th́ ḷng tôi lắng xuống. Nếu nơi đây có người ở, và có chính quyền Cộng Sản, th́ tôi phải tiếp tục trốn tránh, rồi t́m cách, lấy một chiếc thuyền đi về đất liền, nhưng giờ th́ phải tránh sao cho khỏi bị bắt trước đă.

 

Đă ở tù Cộng Sản một lần rồi, tôi ngán lắm. Trưa hôm đó, tôi leo lên đỉnh đá cao nh́n xuống, thấy xa xa bên kia, có bóng cây dừa, và h́nh như có băi cát bằng. Tôi cẩn thận đi về hướng băi dừa, đi rất chậm, nh́n quanh ḍ xét đặt từng bước, vạch cây, vén lá, cố không để lại dấu vết nào. Khi qua một quăng đất trũng, tôi thấy cả một vường khoai ḿ, có vẻ như mọc hoang, nhưng nhiều gốc ḿ trốc đất nằm ngổn ngang. Đúng là đảo có người ở. Tôi yên lặng nằm sát đất có cây cỏ cao che kín, đợi chờ xem có ǵ lạ không. Chỉ có tiếng chim kêu và mấy con sóc chuyền từ cành này qua cành khác.

 

Tôi ra ŕa đá, nh́n xuống xa xa, thấy có căn cḥi lá nhỏ, và một bóng người thấp thoáng. Tôi yên lặng quan sát và ŕnh xem sinh hoạt động tĩnh. Bóng người đi vào căn cḥi rồi khuất dạng. Tôi chờ đợi thêm nhiều tiếng mà không thấy ǵ, bèn đi ṿng quanh, cố t́m hiểu dân số và tổ chức chính quyền trên đảo. Nhưng h́nh như chỉ có căn cḥi duy nhất đó mà thôi. Tôi quay lại vườn khoai ḿ, dùng nhánh cây nhọn đào được mấy củ lớn, bóc vỏ và ngâm vào vũng nước cho bớt chất nhựa, rồi cẩn thận ăn thật ít, ăn thật chậm. Kinh nghiệm ở tù cho tôi biết say khoai ḿ có thể tán mạng dễ dàng. Thế này th́ cũng không lo đói. Tôi leo lên nhánh cây có lá phủ kín nh́n xuống căn cḥi, biết đâu đó là trạm canh gác của công an biên pḥng Cộng Sản. Không biết vùng này thuộc lănh thổ nước nào, Việt Nam, Cao Miên hay Thái Lan? Buổi chiều, khi nắng phai màu, tôi thấy có thêm hai bóng người nữa đi về căn cḥi. Ba người ngồi trên tảng đá, h́nh như họ đang ăn và nói chuyện. Bóng chiều xuống dần, tôi tự họi, không biết mấy người này làm ǵ trên hoang đảo, họ là ai, có nhiệm vụ ǵ.

 

Hoàng hôn dần dần phủ lấp hải đảo. Khi trời tối hẳn, tôi lom khom đi về phía căn cḥi, cố gắng để không gây tiếng động. Cố thở thật nhẹ, và chỉ di chuyển khi có gió gây tiếng động xào xạc trong tàn lá. Tôi nằm yên nghe ngóng. Họ đang nói chuyện, tôi chỉ nghe loáng thoáng tiếng nói mà không biết họ dùng ngôn ngữ nào. Khi ba bóng người đi vào căn cḥi, th́ tôi cũng quay trở lại hướng núi đá cao, t́m một nơi ngủ qua đêm. Gió quá, tôi lần xuống băi cát đào một cái hố chắn gió, và nằm ngủ ngon giấc. Suốt một ngày lo lắng, mệt nhọc, tôi ngủ thật say, gió biển lành lạnh. Sóng đập ŕ rầm, tôi nằm mơ thấy ḿnh đang đi ngữa Sàig̣n vào thời Cộng Sản chưa chiếm đóng.

 

Sáng dậy, tôi xoá dấu tích của ḿnh trên cát, và vào rừng cây rậm ẩn nấp. Cái phao nhựa thành b́nh đựng nước. Tôi đập vỡ một số ṣ bám trên mặt đá, ăn với khoai ḿ sống đă được ngâm nước từ hôm qua. Leo lên dốc đá, tôi nh́n xuống căn cḥi ŕnh rập. Mấy cây dừa sai trái, thân cao vút, làm tôi thèm lắm, nhưng không biết làm sao hái được. Đă là dân thành thị không biết leo trèo, lại c̣n phải ẩn nấp dấu diếm, th́ mong chi có dừa ăn. Nhưng dù sao đi nữa, đêm nay tôi sẽ cố gắng, t́m cách leo thử. H́nh như đă có lần tôi thấy người ta dùng một ṿng dây máng vào hai chân, móc quàng qua thân cây mà leo lên dần. Tôi cẩn thận đi ṿng xuống băi bên kia, thấy rau lang và giàn dưa leo. Tôi hái dưa ăn, dưa thơm và ngọt lịm như tôi chưa từng ăn bao giờ, tôi bỏ thêm mấy trái vào túi quần và thử ṃ xuống cát xem khoai lang đă có củ chưa, nhưng chỉ thấy toàn dây và rễ nhỏ.

 

Có lẽ v́ ăn quá nhiều khoai ḿ sống, buổi trưa tôi thấy say say và buồn ngủ. Tôi nằm dài trên tảng đá bằng phẳng, đánh một giấc ngon lành, không biết ngủ được bao lâu. Đang nằm ngủ mê man, bỗng tôi chợt thức giấc và có linh cảm như ai đang nh́n ḿnh. Tôi vùng ngồi dậy khi thấy có đôi mắt nh́n sát vào mắt tôi. Tôi chợt nhận ra một chú bé chừng mười lăm tuổi. Nó hốt hoảng thối ui, và vấp chân té ngửa. Nhanh như chớp, một viên đá lớn từ xa bay đến đánh bốp vào đầu tôi, làm tôi ngă xuống, hai tay ôm đầu rên rỉ, máu chảy ướt tay. Trán tôi sưng vù như quả ổi, đầu nhức nhối, cố gắng chống tay dậy, nhưng không dậy nổi. Chuyện ǵ xẩy đến đây. Dân làng họ có bắt tôi giao cho chính quyền không? Tôi chợt ân hận đă hớ hênh nằm ngủ quên. Tôi nằm quằn quại trên tảng đá. Thôi th́ đành liều. Có bị bắt th́ sẽ tính sau. Tôi nghe đối thoại bằng tiếng Việt, giọng rất khó nghe, mới hiểu rằng, chị cậu bé tưởng tôi tấn công, nên ném đá yểm trợ cậu em. Một lúc sau có tiếng đàn ông, và tôi được đắp lá nhai dập lên vết thương. Tôi hé mắt nh́n, thấy một người đàn ông tóc tai phủ ra sau vai, râu ria xồm xoàm như người vượn, mặt sạm đen, đóng một cái khố nhỏ bằng da thú, chỉ có đôi mắt sáng đợm ánh lạ kỳ. Cả ba người đều đóng khố, thân trên để trần. Có lẽ thổ dân trên đảo, hoặc giống dân thiểu số trong vùng này. Khi bớt đau đớn, tôi cho họ biết là bị đắm tàu, dạt vào đây. Họ d́u tôi về căn cḥi mà hôm qua tôi ŕnh rập ḍ xét. Chú bé đưa cho tôi nước uống trong chén vỏ dừa. Người đàn ông tự giới thiệu là ông Tư, sinh quán trên đảo này. Ông nội của ông Tư ngày xưa làm quan vơ, pḥ tá vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở. Khi vua bị Tây bắt, ông cụ cùng một nhóm quan sĩ tiếp tục kháng chiến theo hịch cần vương. Sau đó, theo cụ Phan Đ́nh Phùng khởi nghĩa kháng chiến trong nhiều năm. Cuối cùng, khi tan ră, cụ nội đem gia đ́nh và một nhóm thuộc hạ xuống thuyền đi Xiêm La, nhưng gặp băo giữa đường, phải ghé lại đảo này. Sau đó không đi được v́ thuyền ch́m. Ban đầu có bốn gia đ́nh lập cư. Dần dần chết hết, chỉ c̣n ông Tư và hai người con. Bà Tư trẻ hơn ông Tư chừng hai mươi tuổi, nhưng mất sớm.

 

Trên tường đá treo mấy cây kiếm và bao kiếm chạm trổ rất tỉ mỉ và đă hoen ố bụi thời gian. Không là chuyên môn, tôi cũng đoán ra được đó là những thanh bảo kiếm. Ông Tư cho biết, một trong những thanh kiếm là của ông Tôn Thất Thiệp, kiếm pḥ vua. Mấy đời cha ông, mong có cơ hội trở về đánh đuổi giặc Tây ra khỏi nước. Khôi phục gian sơn. Ông nói rằng, có lẽ đời ông không làm ǵ được nữa, chờ cho thằng Ba lớn lên, mong nó nối mộng cha ông. Ông thở dài năo ruột. Th́ ra, ông không biết ǵ về t́nh h́nh thế giới, t́nh h́nh đất nước trong gần tám mươi năm qua. Tôi chậm răi cho ông biết, Tây đă về nước hơn hai mươi năm rồi. Bây giờ th́ Cộng Sản cai trị đất nước, họ c̣n tàn bạo, khắt khe và áp bức hơn cả giặc Pháp. Nhân dân đau khổ và đói rét hơn cả thời nô lệ ngoại bang. Có lẽ ông Tư không hiểu nhiều về những lời tôi nói v́ không lẽ dân ḿnh cai trị nhau mà khắt khe tàn bạo hơn ngoại quốc thực dân. Nhưng ông cũng vui khi nghe giặc Tây đă ra đi, và theo ông, th́ nay không c̣n băn khoăn, cánh cánh bên ḷng v́ lời di huấn của tổ tiên. Yên tâm sống. Ông không c̣n sợ tuyệt tự, không c̣n ai nối chí cha ông. Tôi cảm thương tấm ḷng của ông Tư. Giấc mơ đuổi giặc Tây đă truyền qua ba đời mà vẫn chưa nguội lạnh. Tôi cũng mang một giấc mơ tương tự, đuổi giặc Cộng ra khỏi quê hương. Chính ông Tư cũng không biết tuổi tác của ông và cả hai con ông. Ngày tháng cứ trôi đi, không ai để ư đến thời gian. Cô Hai, theo tôi đoán th́ xấp xỉ trên dưới hai mươi, và chú Ba, th́ khoảng mười lăm. Thân ḿnh cô Hai mảnh khảnh, chắc như tượng đồng. Mái tóc đen dài thả lỏng trên lưng. Vầng trán cao, bóng. Đôi mày cong che đôi mắt long lanh sáng, trong mắt như có nụ cười. Hai làn môi thanh tú. Cổ cô dài nối liền tấm ngực mà hai vú lớn cong ngược lên. Lưng thon, mông chắc chắn, đôi chân dài. Cô Hai chỉ đóng cái khố da thú nhỏ che ngang người. Chú Ba th́ như con gà mới lớn, lỏng thỏng, dáng dấp vụng về, chỉ có đầu tóc dài không cắt làm cho thêm phần hoang dă.

 

Tôi được gia đ́nh này đón nhận với ḷng hoan hỉ. Ông Tư tường nh́n tôi với ánh mắt tràn đầy t́nh cảm dịu dàng. Cậu Ba quấn quưt quanh tôi, không rời nửa bước, và hỏi, nói đủ thứ chuyện. Phần cô Hai, th́ rất tự nhiên, không có chút e lệ nào, h́nh như không biết phân biệt trai gái và có những đụng chạm cùng tôi, mà đôi khi tôi ái ngại. Để hoà hợp, tôi chỉ đóng cái khố nhỏ qua người. Tham gia sinh hoạt trong gia đ́nh này. Tôi từ từ kể cho ông Tư nghe về diễn biến lịch sử xảy ra cho đất nước từ khi Tây chiếm Việt Nam, những phong trào khởi nghĩa chống Pháp, Đệ Nhất, Đệ Nhị Thế Chiến, Nhật Bản vào, rồi Pháp trở lại, chiến tranh dành độc lập, Pháp rút về, tiếp theo là cuộc nội chiến gần 20 năm, Cộng Sản miền Bắc thắng. Dân niềm Nam không chịu nổi chính sách hà khắc bỏ nước ra đi. Ông Tư th́ c̣n hiểu nhiều, chú Ba và cô Hai th́ nghe, mù mờ, ngơ ngác. Tôi cũng bỏ nước trốn đi như ngày xưa cụ tổ của gia đ́nh này, v́ không chịu được giặc Pháp. Không phải chỉ ḿnh tôi, cả nước muốn trốn đi, tránh cái chế độ khắt khe chưa từng có trong lịch sử Việt Nam.

 

 

Tràm cà Mau

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính