Nhân Văn Giai Phẩm phần II:

Nguyên nhân phát xuất

  

 

Thụy Khuê

 

Bài đăng ngày 01/06/2009 Cập nhật lần cuối ngày  05/12/2009 13:56 TU

 

Trang bià báo Nhân Văn số 1 và Giai Phẩm Muà Xuân (Ảnh: DR)

 

Mặc dù bắt nguồn từ quân đội, nhưng không t́m thấy văn bản nào của ba tướng lănh Lê Quang Đạo, Trần Độ và Lê Liêm trong tổng cục chính trị lên án phong trào. Trong vụ thanh trừng Nhân Văn Giai Phẩm, quân đội đứng ngoài. Quân đội sạch tay hơn dân sự. Nhân Văn Giai Phẩm mở đầu cho tinh thần đấu tranh cho tự do tư tưởng, cho công cuộc đổi mới văn học, tinh thần này không chấm dứt khi phong trào bị dập tắt, chỉ ngủ yên trong ba mươi năm rồi lại bùng lên những năm 1987- 88, với vai tṛ chủ đạo của Trần Độ.

 

Với những tư liệu và nhân chứng hiện hành, chúng ta có thể tóm tắt lịch tŕnh hoạt động của phong trào NVGP, theo thứ tự ngày tháng, như sau:

 

Tháng 3/1955: Trong quân đội, Trần Dần, Tử Phác, với sự cộng tác của Hoàng Cầm, Lê Đạt, chủ trương việc phê b́nh tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.

 

Tháng 4/1955: Nhóm Trần Dần, Tử Phác kư “Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá”, chủ yếu đ̣i quyền tự do sáng tác. Bác bỏ chế độ chính trị viên trong văn nghệ quân đội.

 

Từ 13/6/55 đến 14/9/55: Trần Dần, Tử Phác bị bắt, bị phạt cấm trại trong trại 3 tháng v́ lư do phạm quân kỷ, sau đó được đưa đi cải tạo ở Yên Viên (tham gia Cải cách ruộng đất đợt 5).

 

Tháng1/1956: Giai phẩm mùa xuân ra đời do Lê Đạt, Hoàng Cầm chủ trương (có bàn  với Trần Dần) với những bài chính: Nhất định thắng của Trần Dần, Anh có nghe thấy không của Văn Cao, Làm thơMới của Lê Đạt,...

 

Tháng 2/56 (Tết Nguyên đán): Lê Đạt bị gọi lên Tuyên huấn để kiểm thảo. Trần Dần, Tử Phác bị bắt lần thứ nh́. Giai phẩm mùa thu bị tịch thu. Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ. Chiến dịch đánh Trần Dần bắt đầu với bài của Hoài Thanh “Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần” trên báo Văn Nghệ số 110, ra ngày 7/3/56.

 

Ngày 24/2/1956: Khrouchtchev tường tŕnh tội ác của Staline tại đại hội XX của đảng Cộng sản Liên xô. Ngày 26/5/1956: Mao Trạch Đông phát động phong trào “Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng”. Ngày 28/6/1956: Ba Lan nổi dậy.

 

Theo chính sách của Liên Xô và Trung Quốc, đảng Lao Động nới rộng tự do:

 

Tháng 8/56: Hội Văn Nghệ được chỉ định tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày.

 

Ngày 26/8/1956: Nguyễn Hữu Đang đọc tham luận tổng kết lớp học 18 ngày của Hội Văn Nghệ, chỉ trích gắt gao đường lối lănh đạo văn nghệ của Trung ương đảng. Tố Hữu, Nguyễn Đ́nh Thi và bộ phận lănh đạo văn nghệ phải “thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sẽ sửa chữa”. Hoài Thanh viết bài nhận lỗi đánh Trần Dần.

 

Ngày 29/8/56: Giai phẩm mùa thu, tập I ra đời, với những bài chủ chốt: Phê b́nh lănh đạo văn nghệ của Phan Khôi, Tỉnh giấc chiêm bao của Nguyễn Bính, Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy,...

 

Ngày 20 /9/1956: Nhân văn số 1, với bài Phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ, bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, bài Con người Trần Dần của Hoàng Cầm và tranh Nguyễn Sáng vẽ Trần Dần với vết sẹo ở cổ, bài Chống bè phái trong văn nghệ của Lê Đạt (kư tên Trần Công),...

 

Tờ Nhân Văn số 1 và bài phỏng vấn luật sư Nguyễn Mạnh Tường về dân chủ
(Ảnh: DR)

 

Ngày 30/9/1956: Nhân văn số 2, với bài Phỏng vấn Đào Duy Anh về mở rộng tự do và dân chủ, bài Trả lời Nguyễn Chương và báo Nhân dân của Nguyễn Hữu Đang (kư tên Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Duy), bài Phấn đấu cho trăm hoa đua nở của Trần Duy...

 

Ngày 30/9/56: Giai phẩm mùa thu, tập II, với bài Bệnh sùng bái cá nhân của Trương Tửu, Ông b́nh vôi của Phan Khôi, Những người khổng lồ của Trần Duy, Chống tham ô lăng phí của Phùng Quán,...

 

Ngày 8/10/1956: Giai phẩm mùa xuân tái bản.

 

Ngày 15/10/56: Nhân văn số 3, Kỷ niệm ngày Vũ Trọng Phụng tạ thế 13/10/1939, và các bài Nỗ lực phát triển tự do dân chủ của Trần Đức Thảo, Phỏng vấn bác sĩ Đặng Văn Ngữ về mở rộng tự do và dân chủ,...

 

Ngày 30/10/56: Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài diễn văn “Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất xây dựng quan điểm lănh đạo” tại Mặt Trận Tổ Quốc, Hà nội.

 

Ngày 30/10/1956: Giai phẩm mùa thu, tập III, với bài Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu, Muốn phát triển học thuật của Đào Duy Anh,...

 

Ngày 5/11/56: Nhân văn số 4, với bài Cần phải chính quy hơn nữa của Nguyễn Hữu Đang, Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm Hoa của Người Quan Sát, Thành thật đấu tranh cho dân chủ của Trần Duy, Con ngựa già của chúa Trịnh của Phùng Cung, Những ngày báo hiệu mùa xuân của Văn Cao,...

 

Ngày 10/11/56: Đất mới, báo sinh viên, với bài Phê b́nh lănh đạo sinh viên của Q. Ngọc và T. Hồng, Lịch sử một câu chuyện t́nh của Bùi Quang Đoài,...

 

Ngày 20/11/56: Nhân văn số 5, với bài Hiến pháp Việt nam năm 1946 và hiến pháp Trung hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? của Nguyễn Hữu Đang, Bài học Ba lan và Hung-ga-ri của Lê Đạt (kư tên Người Quan Sát),...

 

Tháng 12/56: Giai phẩm mùa đông, tập I, với bài Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lănh đạo của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích của Trương Tửu, Nội dung xă hội và h́nh thức tự do của Trần Đức Thảo,...

 

Ngày 09/12/1956: Hồ Chí Minh kư sắc lệnh băi bỏ quyền tự do báo chí.

Ngày 15/12/56: Nhân văn số 6 đang in, bị đ́nh chỉ.

 

Cuối tháng 12/56: Tự Do diễn đàn, tập một, tạp chí chuyên về Lư luận, Phê b́nh, Sáng tác, do Minh Đức phát hành cuối tháng 12, bị cấm.

 

Tự do diễn đàn gồm có các bài: Qua sai lầm của Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lănh đạo của Nguyễn Mạnh Tường; truyện ngắn Chú bé làm văn của Trần Dần; Tại sao quần chúng nhân dân tha thiết đến cuộc đấu tranh văn nghệ? của Nguyễn Hữu Đang; Nhiệm vụ của văn học không phải là giải thích chính sách của Phan Ngọc; Động Long Mạch của Lê Đạt; Vài ư nghĩ sau khi đọc bài thơ Động Long Mạch của Hoàng Cầm; Sinh hoạt văn hoá của Trương Tửu - Trần Đức Thảo [theo tư liệu của Boudarel, trong bài Le tort de parler trop tot (Sai lầm v́ nói quá sớm) viết về Nguyễn Mạnh Tường, Revue Sud Est Asie, số 52].

 

Từ 20 đến 28/2/57: Đại hội văn nghệ II họp tại Hà Nội. Trường Chinh kêu gọi đấu tranh “đập nát bọn NVGP”.

 

Cuối năm 57: Mao Trạch Đông hạ lệnh đánh phái hữu. Huy Cận và Hà Xuân Trường  được cử đi học tập chính sách của Trung Quốc.

 

Tháng 2 và 3/58: Khi họ trở về, đảng thi hành chính sách “triệt hạ nọc độc Nhân Văn”,  tổ chức hai lớp đấu tranh ở Thái Hà ấp.

 

Ngày 4/6/58: “Trận chiến đấu chống bọn phá hoại NVGP” kết thúc bằng Đại hội văn nghệ III, tại Hà nội với bài báo cáo tổng kết của Tố Hữu, Nghị quyết của 800 văn nghệ sĩ lên án “bọn NVGP”, và các hội văn nghệ thi hành các biện pháp kỷ luật. 

 

Chớm nở từ đ̣i hỏi quyền tự do sáng tác

 

Nh́n lại lịch tŕnh trên đây, chúng ta thấy ngay sự xác định trước đây của Hoàng Văn Chí trong Trăm hoa đua nở trên đất Bắc và của Boudarel trong Trăm hoa đua nở trong đêm Việt nam (THDNTĐVN) về nguyên nhân phát xuất Nhân văn giai phẩm từ Trăm hoa đua nở ở Trung Quốc là sai, v́ phong trào ở Việt nam, chớm nở từ việc đ̣i hỏi tự do sáng tác (tháng 4/55) trong quân đội, và chính thức bắt đầu với Giai phẩm mùa xuân (tháng 1/56), trong khi  đến tháng 5/56 Mao Trạch Đông mới phát động phong trào Trăm hoa đua nở.

 

Nhưng nhờ Đảng Lao Động học tập chính sách của Mao Trạch Đông và Liên Xô, mới có việc nới rộng tự do văn nghệ ở Việt nam, mới tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày, và Nguyễn Hữu Đang mới có cơ hội trở lại văn trường và chính trường, giữ vai tṛ lănh đạo phong trào NVGP.

 

Tác phẩm của Boudarel đặt trọng tâm vào Trần Dần và bi kịch Trần Dần, theo ông Trần Dần chịu ảnh hưởng tư tương phản kháng của Hồ Phong trong chuyến đi Trung Hoa tháng 7 năm 1954 (để viết bản dẩn giải cho phim Điện Biên Phủ). Thậm chí Boudarel c̣n cho rằng hai chữ Nhân Văn lấy từ câu một của Hồ Phong: “Hiện thực xă hội theo quan niệm của tôi  phải quay về với  con người... về sự giải phóng con người... về tinh thần nhân văn” (THĐNTĐVN, Boudarel, trang 59). Trong nhận xét này, ông đă lầm trên một số điểm:

 

- Tờ Nhân Văn do Nguyễn Hữu Đang chủ trương, khi ấy Trần Dần đă mệt mỏi, lui vào mặt sau v́ chuyện tù tội, vợ con, gia đ́nh.

 

- Tên Nhân Văn là do Nguyễn Hữu Đang hay Hoàng Cầm đặt ra. Lê Đạt nói: “Anh Cầm th́ nói rằng tên Nhân Văn là do anh ấy nghĩ ra. C̣n anh Đang cũng nói Nhân Văn do anh ấy nghĩ ra, thực t́nh tôi cũng không hiểu như thế nào”. Và Hoàng Cầm, trong lần phỏng vấn năm 2007, nhận rằng ông đă nghĩ ra tên Nhân Văn; nhưng trong lời “thú nhận”, năm 1958, Hoàng Cầm viết: “Một lần nữa, có Nguyễn Bính, Đang, Tước [bác sĩ Trần Hữu Tước?], bàn về tên tờ báo và mời Nguyễn Bính làm thư kư toà soạn, th́ tôi nghĩ là “tên báo ǵ ǵ cũng được” miễn là có báo ra được”. (Những lời thú nhận của Hoàng Cầm, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58)

 

- Dù Trần Dần “thú nhận” rằng sự chống đối của ḿnh “có màu sắc tư tưởng Hồ Phong”, cũng chỉ là một lối nói, bởi những thành viên chính của phong trào NVGP hầu hết đều chịu ảnh hưởng văn hoá Pháp, không mấy người biết Hán văn để đọc Hồ Phong.

 

Tóm lại về nguyên nhân phát xuất phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, với những tư liệu hiện hành, chúng ta có thể xác định: mọi sự bắt nguồn từ quân đội, những người đầu xướng là Trần Dần, Tử Phác, với sự cộng tác của Hoàng Cầm, Lê Đạt trong hai vụ việc: Phê b́nh tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu và Bản “Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá”.

 

Vụ phê b́nh tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu

 

Gần một năm sau hiệp định Genève, ở miền Bắc, trong quân đội, nổi lên phong trào đ̣i  đổi mới văn học tranh đấu cho tự do sáng tác do Trần Dần, Tử Phác chủ trương với sự cộng tác của Hoàng Cầm, Lê Đạt và một số văn nghệ sĩ. Sự phản kháng chia làm hai đợt:

 

- Tháng 3/1955, Trần Dần, Tử Phác cộng tác với Hoàng Cầm, Lê Đạt, tổ chức việc phê b́nh tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, với những bài của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Lê Đạt.

 

- Tháng 4/1955 Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh và Trúc Lâm kư bản “Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá”.

 

Hai sự kiện này đi đôi và gắn bó với nhau. Trước kháng chiến, Trần Dần đă cùng Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch (em Vũ Hoàng Chương) ra tạp chí Dạ đài (16/11/1946), với bản tuyên ngôn tượng trưng. Trong kháng chiến, năm 1950 Trần Dần gặp Lê Đạt, cùng chí hướng đổi mới thi ca. Bước đầu của sự đổi mới là phải “chôn đàn anh” (như lời Nguyên Sa, và hành động của nhóm Sáng Tạo, trong Nam, công kích Nhất Linh và Tự Lực văn đoàn). Trong đám “đàn anh” này, ở ngoài Bắc, Tố Hữu là khuôn mặt tiêu biểu.

 

Nhân dịp tập thơ Việt Bắc vừa phát hành tháng 12/54, đă có bài ca tụng của Xuân Trường trên báo Nhân Dân (24/1/55) và một bài tràng giang đại hải tung hô hết ḿnh của Xuân Diệu trên hai số Văn Nghệ 64 và 65 (tháng 2/55). [In lại trong “Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ Việt Bắc”, do Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn, nxb Văn Hoá thông tin, 2005]

 

Ngày 4/3/55, Trần Dần và Tử Phác bèn đứng ra tổ chức một buổi phê b́nh (kiểu toạ đàm) thơ Tố Hữu trong khôn khổ văn nghệ quân đội, với sự hiện diện của tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị. Lê Đạt, kể lại không khí hôm ấy như sau:

“Lúc đến, tôi đă thấy ông Nguyễn Chí Thanh ngồi đấy rồi. Hoàng Yến lên nói về thơ Tố Hữu và bảo rằng thơ Tố Hữu bây giờ “nhỏ” hơn thơ Tố Hữu thời trước, th́ đó cũng là một cách nói thôi. Sau đó, khi anh Thanh lên diễn đàn th́ tôi thấy không khí im lặng cả, không ai nói ǵ nữa. Trần Dần đá chân tôi bảo: “Thôi, thế cậu lên đi.” Tôi lên nói một bài về thơ Tố Hữu và tôi có nhắc đến sự sùng bái chủ tịch Hồ Chí Minh của Tố Hữu. Cuộc trao đổi ấy rất vui vẻ rồi ông Thanh cũng không nói ǵ nữa. Căn cứ trên cuộc thảo luận ấy th́ anh em thấy là có thể có đủ bài để viết trên tạp chí Văn Nghệ mà lúc đó tôi là thường trực. Sau đó tôi có lên tŕnh bày với anh Tố Hữu vế tờ báo Văn Nghệ”.(phỏng vấn Lê Đạt, RFI).

 

Buổi toạ đàm, mới chỉ là nói miệng. Nhưng Lê Đạt muốn đưa lên tạp chí Văn Nghệ (Nguyễn Hữu Đang và Lê Đạt ở trong ban biên tập). Khi Lê Đạt lên gặp Tố Hữu (bàn về nội dung tờ báo), th́ t́nh cờ Tố Hữu lại “gợi ư” Lê Đạt nên viết bài phê b́nh tập thơ Việt Bắc (chắc ông chờ đợi một sự phê b́nh tâng bốc của đàn em).

 

Lê Đạt, nhân đă có sẵn bài của Hoàng Yến trong túi, bèn tập hợp thêm một số bài khác, làm  số báo đặc biệt về tập Việt Bắc. Chắc Tố Hữu không ngờ vụ việc lại xẩy ra trái hẳn ư ḿnh, và như lời Lê Đạt: “ở nước Việt Nam người ta chưa quen chê anh Tố Hữu bao giờ”.

 

Việc phê b́nh rộng ra và chuyển sang các báo khác, kéo dài nhiều tháng (xem tư liệu của Lại Nguyên Ân). Nhưng Tố Hữu cũng không vừa: hội văn nghệ tổ chức thêm hai buổi tọa đàm khác, có các vị chức sắc tham dự. Trong số những bài ca tụng Việt Bắc chủ chốt có bài của Hoài Thanh, Nguyễn Đ́nh Thi và Hoàng Trung Thông.

 

Phía chê có ba người: Hoàng Yến, Hoàng Cầm và Lê Đạt. Trần Độ trung dung: vừa khen, vừa chê.

 

Hoàng Yến muốn chê thơ Tố Hữu bịa nhưng lịch sự nói rằng Tố Hữu chưa nắm vững hiện thực: “Ta thấy thơ Tố Hữu ngày nay c̣n bé hơn thơ Tố Hữu trước kia. Bé v́ Tố Hữu chưa thổi được vào thơ ngọn lửa hừng hực chiến đấu của thời đại để đốt cháy ḷng người đọc. Bé v́ chất sống chưa thật sâu sắc nên ư thơ nhiều đoạn c̣n giả tạo công thức” (Tư liệu Lại Nguyên Ân, trang 69).

 

Hoàng Cầm chê thơ Tố Hữu “thiếu chất sống thực tế”, “nhạt nhẽo”, “hời hợt”, chỉ “lởn vởn ở bên ngoài chứ không đột phá vào một khía cạnh nào của tâm hồn”, “những câu văn đèm đẹp” “rủ rỉ một lát rồi thôi”, “chỉ thấy những h́nh ảnh chung chung, gặp bất cứ ở chỗ nào”, khi ca tụng lănh đạo th́ “đao to búa lớn”, “ bài “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên giống như một vại nước to, tràn đầy, pha loăng một màu sữa. Loăng quá”,...

 

Lê Đạt, trong bài lư luận, cho rằng Tố Hữu “cố gắng đi tới công nông” nhưng trong thơ c̣n rơi rớt tính chất “ngậm ngùi, buồn buồn... nó là cơ sở điệu tâm hồn của Tố Hữu”... Lê Đạt tổng kết ư kiến của ḿnh và các bạn trong câu: “Tính chất tiểu tư sản và xa thực tế là hai khuyết điểm căn bản nó cản trở khả năng hiện thực của Tố Hữu. Nó là nguyên nhân của cái buồn, cái công thức, cái hời hợt rải rác trong tập thơ”' (theo tư liệu Lại Nguyên Ân).

 

Trần Dần không có bài trên báo, nhưng viết trong nhật kư “Tố Hữu nh́n sự vật nó chính trị quá công thức quá, lười t́m ṭi quá. Chỗ nào hay th́ lại là lắp lại Nguyễn Du, Tản Đà, ca dao... Tố Hữu chưa đem tới một cách nh́n mới mẻ ǵ” (Trần Dần ghi trang 143). Và trong buổi toạ đàm ngày 4/3/55, theo Vũ Tú Nam mách lại, Trần Dần gọi thơ Tố Hữu là “tí ti la haine, tí ti l'amour” (tí ti căm thù, tí ti t́nh yêu) (Sự thực về con người Trần Dần, Vũ Tú Nam, QĐND tháng 4/58).

 

Tất nhiên Tố Hữu không thể nào “bỏ qua” vụ này.

 

Sang tháng sau, Trần Dần, Tử Phác lại tung ra một vụ mới, đó là bản dự thảo đề nghị một chính sách văn hoá trong quân đội.

 

Bản dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá

 

Tháng 4/1955, Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh và Trúc Lâm kư bản “Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá”, nội dung yêu cầu cải cách chính sách văn nghệ trong quân đội, đ̣i quyền tự do sáng tác.

 

Theo Hoàng Cầm: “Bản dự thảo sắp được thông qua. Một vài cán bộ cao cấp trong quân đội tỏ ư tán thành những điểm chính trong bản đề nghị đó, và nhất là hoan nghênh tinh thần xây dựng của bản đề nghị”.

 

Nhưng: “Đột nhiên trong không khí hào hứng của gần ba mươi anh em văn nghệ sĩ đang sẵn sàng cởi mở hết để xây dựng một trong những chính sách lớn của Đảng, bỗng có một câu quật lại: “Tinh thần bản đề nghị này chính là một thứ tư tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đă bắt đầu tấn công vào các đồng chí!

 

Giá câu nói ấy ở mồm một người thường th́ cũng sẽ thường thôi. Nhưng lại ở một cán bộ có đủ thẩm quyền xét lại hay bác bỏ những đề nghị của văn nghệ sĩ, th́ bắt đầu có một sự động cựa lớn. Những người trước kia tán thành bản dự án th́ bắt đầu trở nên hoang mang”. (Trích bài Con người Trần Dần của Hoàng Cầm, Nhân Văn số 1).

 

Hoàng Cầm không nói rơ những người ủng hộ kia là ai, và người “thẩm quyền bác bỏ” kia là ai. Nhưng qua bài đánh Trần Dần của Vũ Tú Nam trên Văn Nghệ Quân Đội, chúng ta có thể tóm tắt t́nh h́nh như sau: Cuối năm 54, đầu 55, Pḥng văn nghệ quân đội tổ chức một cuộc thảo luận về việc thay đổi chính sách văn nghệ với sự có mặt của tướng Nguyễn Chí Thanh. Trong buổi đó, Trần Dần đă nêu lên ba đ̣i hỏi chính, Vũ Tú Nam viết:   

 

“1- Trả lănh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ.

 

2- Thành lập trong quân đội một chi hội văn nghệ trực thuộc hội văn nghê, không qua cục tuyên huấn và tổng cục chính trị.

 

3- Bỏ mọi “chế độ quân sự hiện hành” trong văn nghệ quân đội...

 

Nghe xong đồng chí Nguyễn Chí Thanh dặn ḍ anh em phải coi chừng, đó là quan điểm tư sản, phi Đảng, phi giai cấp, phi chính trị. Hồi đó, anh em chưa vỡ lẽ, c̣n ấm ức, cho là cấp trên không thông cảm. Trần Dần và vài người khác th́ lồng lộn, chửi bới, reo rắc hoài nghi, chán nản, muốn giải ngũ”. (Vũ Tú Nam, Sự thực về con người Trần Dần, Văn Nghệ Quân đội, số 4, tháng 4/58).

 

Tuy vậy, Trần Dần vẫn được giao cho việc tổ chức hội nghị ngành văn toàn quân tháng 4/55. Lần này, Trần Dần tŕnh bày bản dự thảo do chính tay ḿnh viết tháng 2/55, dài 12 trang đánh máy. Theo vài câu trích dẫn của Vũ Tú Nam (để buộc tội quan điểm “xét lại” của Trần Dần) Trần Dần viết:

 

“Biểu hiệu cao nhất của trách nhiệm người viết là thái độ tôn trọng, trung thành với sự thực. Đó là tiêu chuẩn cao nhất đánh giá tác giả và tác phẩm... tôn trọng, trung thành với sự thực vừa là trách nhiệm, vừa là lập trường, vừa là phương pháp làm việc của người viết”

 

“... Sự thực lớn gấp triệu triệu lần bất cứ chỉ thị, lư luận nào... Nếu như sự thực ngược lại chính sách chỉ thị, th́ phải viết sự thực chứ không phải là bóp g̣ sự thực vào chính sách”

 

Tổng hợp thông tin của Hoàng Cầm và Vũ Tú Nam, chúng ta thấy: tướng Nguyễn Chí Thanh vừa bật đèn xanh cho Trần Dần và các bạn đ̣i hỏi tự do sáng tác (viết sự thật) vừa dập tắt bản dự thảo đ̣i tự do sáng tác. Nhưng ngoài Nguyễn Chí Thanh, bản dự thảo c̣n được những ai ủng hộ, khiến nó sắp được thông qua, như lời Hoàng Cầm?

 

Theo phân tích của Boudarel, th́ bản dự thảo này được sự ủng hộ của ba tướng tá cao cấp trong Tổng cục chính trị: Lê Quang Đạo, Trần Độ, và nhất là Lê Liêm. Ông viết:

“Ở những buổi thảo luận nội bộ năm 1955 trong quân đội, có những cán bộ cao cấp ủng hộ nhóm văn nghệ sĩ đ̣i hỏi quyền tự do sáng tác, nhưng không ai chỉ rơ tên họ ra, rất có thể bởi v́ muốn tránh cho họ rơi vào hoàn cảnh khó xử trước những đồng nghiệp quyết liệt.  Duy có hai người, hai tướng chính uỷ Trần Độ và Lê Liêm là dễ nhận ra, nhưng cũng không chỉ có hai người đó.

 

Một văn bản chứng minh rằng vào mùa thu năm 1956, tướng Lê Quang Đạo cũng can thiệp khi vụ việc xẩy ra. Nhưng trong chiều hướng nào? Lúc đó ông là trưởng pḥng tuyên huấn” (trích THĐNTĐVN, trang 101).

 

Boudarel phác họa chân dung Lê Quang Đạo, Lê Liêm và Trần Độ, ba tướng lănh trong tổng cục chính trị ủng hộ những nhà văn trẻ, ông phân tích những khúc mắc trên con đường của họ, khi ủng hộ tự do sáng tác và mở rộng dân chủ, lúc phải lùi bước trở lại vị trí chính thống. Điều đặc biệt đáng chú ư là trong suốt thời kỳ NVGP, ông không t́m thấy văn bản nào của các tướng lănh trong tổng cục chính trị lên án phong trào.

 

Trang bià tập sách phê phán phong trào Nhân Văn Giai Phẩm

(Ảnh: DR)

 

Cuốn Bọn Nhân văn Giai phẩm trước toà án dư luận tập hợp những bài viết của hơn 80 văn nghệ sĩ và trí thức “dân sự” tuyệt nhiên không có bài viết nào của quân đội, kể cả Nguyễn Chí Thanh, mặc dầu phong trào phát xuất từ quân đội.

 

Với mức tư liệu hiện có, chúng ta có thể hiểu rằng: Trong vụ thanh trừng  Nhân Văn Giai Phẩm, quân đội đứng ngoài. Quân đội sạch tay hơn dân sự.

 

Tướng Lê Liêm, một trong những người có công lớn trong trận Điện Biên Phủ, hết sức ủng hộ văn nghệ sĩ, Lê Liêm không viết một ḍng nào chống lại những người đ̣i tự do sáng tạo, một sự im lặng này đầy ư nghĩa. Năm 1958, ông trở thành Thứ trưởng Văn hoá, tuy được thăng chức, nhưng không có quyền, bước đầu của sự thất sủng. Phản đối việc thân Tàu, chống Nga, năm 1965, ông nhận chức Thứ trưởng giáo dục, và trong một bài diễn văn về việc cải tạo giáo dục, năm 1968, ông trở lại quan điểm chính thống. Năm 1974, người ta đồn ông bị khai trừ khỏi đảng cùng với Ưng Văn Khiêm, tướng Nguyễn Văn Vinh và Bùi Công Trừng, v́ tội thân Nga. Lê Liêm là một khuôn mặt cởi mở, chấp nhận đối thoại mà ít người biết đến.

 

Tướng Lê Quang Đạo, với trách nhiệm trưởng pḥng tuyên huấn, chắc chắn đă tác dụng vào những cuộc tranh luận văn học nội bộ trong thời kỳ này. Sau vụ Nhân Văn, ông vẫn tiếp tục con đường cởi mở đến thập niên 80. Năm 1982, ở đại hội V, khuynh hướng bảo thủ thắng thế. Đến năm 1987, làm chủ tịch quốc hội, ông tiếp tục cổ động cho công cuộc đổi mới.

 

Trần Độ kiên tŕ trong quan điểm dân chủ hoá đất nước. Sau Nhân Văn, ông trở lại chiến trường. Dường như ông chỉ tạm thời lùi bước năm 1956 để tiến mạnh hơn, ba mươi năm sau. Năm 1982, trực diện với sự bảo thủ của Hà Xuân Trường trong đại hội V, Trần Độ thua cuộc, nhưng đến năm 1986, khi làm Trưởng ban văn hoá tư tưởng trung ương, dưới sự cởi mở của Nguyễn Văn Linh, Trần Độ trở lại vai tṛ chủ đạo cho công cuộc đổi mới văn học. Nói như Boudarel: “tất cả những vấn đề cơ bản đều quy về những năm 1955- 1956”.

 

Như vậy NVGP, mở đầu cho tinh thần đấu tranh tự do tư tưởng, cho công cuộc đổi mới văn học, tinh thần này không chấm dứt khi phong trào bị dập tắt, chỉ ngủ yên trong ba mươi năm rồi lại bùng lên những năm 1987- 88.

 

Vai tṛ của tướng Nguyễn Chí Thanh khá phức tạp. Cầm đầu chính trị quân đội, ông cũng là người đă “dẹp” vụ dự thảo ngay c̣n trong trứng nước. Nhưng khi Trần Dần bị bắt lần thứ nh́, dùng dao cạo cứa cổ, được đưa vào bệnh viện, Trần Dần viết thư cho Nguyễn Chí Thanh, ông đă can thiệp để “cứu” Trần Dần. Nhưng cũng chính tướng Nguyễn Chí Thanh đă trao cho người bà con Vũ Tú Nam toàn bộ tư liệu về Trần Dần, kể cả 2 lá thư Trần Dần viết để xin ra khỏi đảng năm 55, để họ Vũ có đủ tư liệu viết bài đánh Trần Dần (THĐNTĐVN, Boudarel, trang 100 và 126).

 

Nhưng cũng không thể liệt Nguyễn Chí Thanh vào loại người xoay chiều, như Đỗ Nhuận, bạn thân của Trần Dần, cùng đi Điện Biên Phủ, cùng đi Trung Quốc, cùng kư bản dự thảo, nhưng sau này quay lại viết bài đánh Trần Dần.

 

Nhân vật Trần Dần

 

Chân dung nhà thơ Trần Dần với vết sẹo trên cổ do họa sĩ Nguyễn Sáng vẽ năm 1956 và đăng trên Nhân Văn số 1.

(Nguồn: Tư liệu G.Boudarel)

 

V́ hai sự kiện: phê b́nh thơ Tố Hữuđề nghị cải cách chính sách văn nghệ quân đội, mà Trần Dần và Tử Phác bị kỷ luật, bị giam từ 13/6/55 đến 14/9/55.

 

Nhưng về mặt chính thức, Trần Dần bị kỷ luật v́ lẽ khác: về chuyện t́nh cảm, yêu một người con gái có đạo (Cô Khuê, vợ Trần Dần sau này) cha mẹ đă đi Nam, không được đảng cho phép cưới, tự ư bỏ trại, về với người yêu ở phố Sinh Từ và không chịu lên tŕnh diện (Tử Phác cũng không chịu lên tŕnh diện). Hoàng Văn Chí thu thập được khá nhiều tin tức và tổng hợp với bài Con người Trần Dần của Hoàng Cầm, đă viết khá chi tiết về việc này từ năm 1959. Nhưng sự phân tích của Boudarel có những điểm thỏa đáng hơn:

“Đối với Trần Dần, trận bút chiến trong ba tháng đầu năm 1955 đi đôi với sự tranh đấu không cân bằng trong cục chính ủy quân đội về vấn đề lư thuyết chính trị và nhân sự, cả hai đan cài khó gỡ. Việc bản dự thảo bị hủy bỏ đối với Trần Dần là một thất bại, nhưng cũng không đau đớn bằng việc bị các bạn đồng hành bỏ rơi chạy sang phe bên kia. V́ lư do sức khỏe, Trần Dần xin nghỉ một thời gian để thoát khỏi trại nhà binh. Măi không thấy cấp trên trả lời, anh tự ư bỏ trại về nhà người bạn gái ở phố Sinh Từ. Hai lần cấp trên gọi về chờ lệnh, anh đều từ chối. Bị kiểm thảo vắng mặt, và có lẽ bị trừng phạt nữa, bởi v́ trong lần gọi thứ ba, anh đ̣i hủy bỏ những quyết định chống lại anh. Những phê phán Trần Dần phạm quân kỷ đi đôi với việc trật tự trở lại trong văn nghệ quân đội. Măi không thấy ǵ mới, đến giữa tháng 5/1955, Trần Dần viết hai lá đơn xin ra khỏi đảng và ra khỏi quân đội (một cho đảng và một cho quân đội) trong đó anh tŕnh bày những lư lẽ của ḿnh với một sự thẳng thắn, nếu không muốn nói ngây thơ lạ lùng” (THĐNTĐVN, Boudarel, trang 125-126).

 

Đây là lần thứ nhất Trần Dần, Tử Phác bị giam, thật ra là bị cấm trại, không phải bị tù. Trong thời gian này, Trần Dần viết bài thơ dài Nhất định thắng trao bản thảo cho Lê Đạt giữ (Hoàng Cầm, Con người Trần Dần). Hết ba tháng cấm trại, Trần Dần và Tử Phác được về nhà, và hơn tháng sau, cả hai được gửi đi tham gia Cải cách ruộng đất tại Yên viên, Bắc ninh, từ 2/11/1955 đến tháng 2/1956. Trong khi ấy Hoàng Cầm và Lê Đạt chuẩn bị ra tờ Giai phẩm mùa xuân.

 

Tháng giêng năm 1956, Giai phẩm mùa xuân ra đời, đăng bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần. Bài thơ đă gây tai họa cho Trần Dần và tờ giai phẩm. Báo vừa phát hành, Lê Đạt bị gọi lên Tuyên huấn để kiểm thảo. Giai phẩm mùa xuân bị tịch thu. Trần Dần và Tử Phác bị bắt. Bị giam, Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ, được đưa vào bệnh viện. Trần Dần viết thư cho tướng Nguyễn Chí Thanh ngày 21/2/56 và được tha ngày 5/5/56 (THĐNTĐVN, Boudarel, trang 46).

 

Hoàng Cầm viết: “Giai phẩm mùa Xuân bị kết tội, bài thơ “Nhất định thắng” bị kết tội. Người ta cho rằng cái bè phái độc quyền trong giới văn nghệ bị công kích (bắt đầu từ cuộc phê b́nh thơ Việt Bắc) đă t́m cách trả thù:

 

Trần Dần, Tử Phác đều bị tống giam”.

 

“Từ những ngày Tết mưa lă chă, cái bè phái độc quyền trong văn nghệ bắt đầu họp đứng họp ngồi để t́m cách đối phó với cái Giai phẩm. Một không khí ngạt thở đè nặng lên những anh em có bài trong tập sách đó. Rồi đến một đêm, bài thơ “Nhất định thắng” bị đem ra luận tội.”  (Con người Trần Dần, Hoàng Cầm, Nhân Văn số 1)

 

Hoàng Cầm trong lời “thú nhận”, kể rằng ông muốn làm “cho cả cụ Hồ, cả Trung ương cũng phải thương xót cảnh ngộ Trần Dần, mà trừng trị người nào đă gây ra cảnh ngộ đó”. Nhưng sau khi bài báo xuất hiện, Nguyễn Chí Thanh giao cho Lê Quang Đạo mời Hoàng Cầm đến để giải thích, vẫn theo lời “thú nhận” của Hoàng Cầm:

“Khi đồng chí Lê Quang Đạo có mời tôi vào giải thích rơ trường hợp Trần Dần, tôi đă nhụt đi, có ư muốn cải chính bài báo, tôi về viết bài cải chính, có nói rơ sự giáo dục của quân đội với Trần Dần, sự săn sóc của đồng chí Nguyễn Chí Thanh và của Pḥng văn nghệ quân đội đối với Trần Dần, nhưng trong ư nghĩ vẫn không chịu nhận rằng ḿnh đă xuyên tạc bóp méo sự thật, không chịu nhận rằng ḿnh bôi đen chế độ, nên vẫn viết thêm một đoạn cuối nói rằng: việc bỏ tù Trần Dần là quá đáng, đến nỗi Trần Dần phải tự tử, và tôi vẫn viết một câu đại ư:  Đồng chí Tố Hữu là người  phụ trách toàn bộ công tác lănh đạo văn nghệ, phải chịu trách nhiệm về viêc này. Thế là cải chính một nửa, để lại bôi xấu một nửa.- Bài đó (không đăng) chỉ là một hành vi không thành thật” (Những lời thú nhận của Hoàng Cầm, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58).

 

Về phía đối diện, đây là lời buộc tội của Tố Hữu:

“Cuộc tấn công vào chế độ ta và Đảng ta đă bắt đầu trên mặt trận văn nghệ từ đầu năm 1955, ngay khi ḥa b́nh vừa lập lại.

 

Trong khi bọn gián điệp c̣n giấu mặt chờ đợi thời cơ, và bọn tờ-rốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo tích cực chuẩn bị lực lượng ở trường Đại học, th́ bọn Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, hai tên phản Đảng ẩn nấp trong báo Văn Nghệ của Hội Văn Nghệ cùng bọn Trần Dần, Tử Phác cũng là những tên phản Đảng trong pḥng Văn nghệ quân đội, đă kết thành một bè phái chống Đảng trong Văn nghệ.

Như lời thú nhận của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, cuộc phê b́nh tập thơ Việt Bắc là do cái bè phái ấy sắp đặt, để đánh vào sự lănh đạo và đường lối văn nghệ của Đảng, đường lối phục vụ chính trị cách mạng, phục vụ công nông binh, và để đề xướng cái “điệu tâm hồn” ruỗng nát của chủ nghĩa cá nhân tư sản, mở cửa cho lối sống tự do sa đọa.

 

Đương nhiên cái “điệu tâm hồn” ấy của Lê Đạt xướng lên không thể nào hoà được với cái điệu lớn của cách mạng, và cũng rất tự nhiên nó chỉ hoà được với “tiếng sáo tiền kiếp” lóc gân của tên mật thám Trần Duy.

 

Cũng lúc ấy, bọn Trần Dần, Tử Phác -những đứa con hư hỏng của Hà nội cũ- nay lại trở về với “cảnh cũ người xưa” bỗng cảm thấy đời sống trong quân đội “nghẹt thở”, chỉ v́ thiếu cái tự do trở lại đời sống trụy lạc cũ. Đối với chúng, đời sống trong quân đội cách mạng chỉ c̣n là “những sợi dây xích trói buộc phải phá mà ra”. Được tiêm thêm ít nhiều chất phản động của Hồ Phong, Trần Dần gióng lên “tiếng trống tương lai” chửi cán bộ chính trị là “người bệnh”, “người ṛi”, “người ụ”. Cùng Tử Phác, khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu tranh “buộc lănh đạo thực hiện mọi yêu cầu” của họ.

 

Họ đ̣i thực hiện những ǵ? “Trả quyền lănh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một chi Hội văn nghệ trực thuộc Hội văn nghệ, không qua Cục Tuyên huấn và Tổng cục Chính trị”. Tóm lại là thủ tiêu sự lănh đạo của Đảng và kỷ luật của quân đội đối với họ”

 

(Tố Hữu, Nh́n lại 3 năm phá hoại của nhóm “Nhân Văn-Giai Phẩm”, BNVGPTTADL, nxb Sự Thật, Hà nội 1959, trang 22-24).

 

Việc Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ

 

Về việc Trần Dần cứa cổ, cho đến nay, chỉ có Hoàng Cầm kể lại: Trong bài cải chính (không in) mà Hoàng Cầm nhắc đến ở trên và trong buổi nói chuyện trên RFI, ông thuật lại ít nhiều chi tiết. Đặc biệt trong hồi kư Nguyễn Đăng Mạnh, đoạn ghi lời kể của Hoàng Cầm về việc này có nhiều chi tiết rơ ràng hơn:

 

Tố Hữu ra lệnh bắt Trần Dần:

 

Hồi Hoàng Cầm cho in tập Giai phẩm mùa xuân, có đăng bài của Trần Dần, Tử Phác. Tố Hữu triệu tập mấy người đến họp: Hoàng Cầm, Văn Phác (phụ trách tổ chức Bộ Văn Hoá), Chế Lan Viên... Tố Hữu cầm cuốn Giai phẩm mùa xuân, hỏi mọi người: “Các anh thấy tập sách này thế nào?”

 

Không ai dám trả lời, v́ không đoán được ư Tố Hữu. Chế Lan Viên nhanh trí, đoán trúng ư thủ trưởng. Anh nói: “ Cuốn sách đại phản động!”

 

Tố Hữu hỏi Văn Phác:”Hiện nay chúng nó đang ở đâu?” Văn Phác: “Thưa, các anh ấy đang đi thực tế ở Yên viên”

 

Tố Hữu lệnh - Hoàng Cầm nhớ đúng sáu tiếng: “Gọi nó về, bắt lấy nó!”

 

Thế là Văn Phác làm giấy tờ để bắt Trần Dần, Tử Phác.

 

Và đây là lời kể của Trần Dần, Hoàng Cầm thuật lại: Chiều hôm ấy, có một cái xe ô tô nhà binh đến Yên viên. Họ gọi Trần Dần, Tử Phác ra và lập tức bịt mắt. Trần Dần kịp thấy trên xe có lính mang súng, lưỡi lê tuốt trần.

 

Hoàng Cầm nói, Trần Dần là tay thần kinh rất vững. Anh ta b́nh tĩnh lắng nghe để đoán xem xe đi đâu. Qua một cái cầu dài. Thế là vào Hà nội. Nhưng xe lại chạy tiếp khá lâu. Thế là đi quá Hà nội. Đến một chỗ nào đấy, xe đỗ lại. Người ta dắt Trần Dần, Tử Phác, đi xuống một địa điểm ở sâu dưới đất - v́ cứ thấy xuống nhiều bậc, xuống măi. Đến một độ sâu nào đấy, họ dừng lại và đẩy Trần Dần vào một căn hầm, đóng cửa lại. Trần Dần nghĩ bụng, chắc bị thủ tiêu. Thủ tiêu ở đây th́ ai biết được? Coi như mất tích. Anh nghĩ phải t́m cách lên được mặt đất.

 

Sáng ra, thấy đây là một cái hầm đào sâu dưới đất. Ánh sáng lọt xuống từ nóc hầm qua một ô cửa có chấn song, ở trên thoáng thấy có bóng một anh lính gác.

 

Trần Dần thấy trong hầm có một cái phản gỗ và một b́nh nước. Anh kéo cái phản ra chỗ ánh sáng từ trên nóc hầm rọi xuống, cởi áo ngoài, để phơi áo sơ mi trắng bên trong ra, lấy một cái mince lame trong túi, nằm ngửa lên phản, dùng lưỡi dao cứa vào cổ cho máu phun ra ngực áo, rồi giẫy đạp ầm ĩ, cốt cho anh lính gác nghe thấy. Anh lính gác nh́n xuống thấy thế hoảng quá: Nó tự tử, phải đưa cấp cứu ngay! Một lát sau, cửa hầm mở, người ta đưa Trần Dần đi cấp cứu ở một bệnh viện gần đó. Té ra là bệnh viện Hà đông. Ở đây, Trần Dần may vớ được một người quen bèn viết mẩu giấy nhờ đưa đến Tổng cục chính trị nơi anh công tác. Nguyễn Chí Thanh lập tức đến bệnh viện và lệnh tha ngay cả Trần Dần và Tử Phác.

 

Hoàng Cầm rất phục Trần Dần. Thằng cha thần kinh rất vững. Hoàng Cầm cũng từng bị bắt giam. (Ông nghe Hoàng Hưng, định đưa tập thơ Về Kinh Bắc sang Pháp in). Ông nói: “Tôi nhát lắm, mọi tội tôi xin nhận hết” (Hết hạn tù, người ta cho ra, c̣n xin ở lại viết kiểm thảo. Tô Hoài cho tôi biết thế). Sợ nhất là trong tù cứ thấy tiếng phát ra đều đều không biết từ đâu: Khai thật đi! Khai thật đi! Khai thật rồi về với vợ con!

 

Chuyện nghe khá sợ. Một h́nh thức khủng bố về tâm lư. Chẳng biết Hoàng Cầm có thêm thắt ǵ vào sự thật không. Nhưng quả là đáng sợ. Hoàng Cầm cũng hay tưởng tượng thêu dệt thêm ra nữa” (trích Hồi Kư Nguyễn Đăng Mạnh, chưa in).

 

Giai phẩm mùa xuân bị tịch thu, Trần Dần, Tử Phác bị bắt, Lê Đạt bị kiểm thảo. Sự khủng bố trở nên công khai nhưng cũng mở màn cho một phong trào đấu tranh cho dân chủ rộng lớn hơn, nửa năm sau. Vậy nội dung Giai phẩm mùa xuân có những ǵ? Điều này cần đến một sự phân tích văn bản cặn kẽ. 

 

 

(Hết phần thứ nh́)

 

Thụy Khuê

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính