Nhân Văn Giai Phẩm phần VI: Trí thức và dân chủ tại Việt Nam trong thế kỷ XX, một truyền thống đấu tranh từ Phan Châu Trinh, Hoàng Đạo đến Nhân Văn Giai Phẩm.

  

Thụy Khuê

 

 

Các cột mốc quan trọng của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.

 

“Khi đưa ra khẩu hiệu “thà chết 10 người oan c̣n hơn để sót một địch” th́ khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lư mà phản lại cách mạng là đằng khác nữa (...) Khẩu hiệu của pháp lư th́ khác hẳn: “Thà 10 địch sót c̣n hơn một người bị kết án oan” (Nguyễn Mạnh Tường).

 

Trương Tửu: Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lănh đạo văn nghệ

 

Trương Tửu bước vào diễn đàn với lập luận chặt chẽ và đanh thép của nhà phê b́nh, ông viết hai bài quan trọng trong chủ đề tự do tư tưởng: Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lănh đạo văn nghệ (Giai phẩm mùa thu tập II, 30/9/56) và Văn nghệ và chính trị (Giai phẩm mùa thu tập III, 30/10/56) với phần hai là Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lănh đạo của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích. (Giai phẩm mùa đông tập I, 28/11/56). Hai bài viết này xác định Trương Tửu như một trong những người lănh đạo tư tưởng của phong trào NVGP.

 

Trong bài Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lănh đạo văn nghệ, ông trực tiếp đưa ngay vấn đề: “Tôi viết bài này, nối gót nhà văn lăo thành dũng cảm Phan Khôi, góp ư kiến phê b́nh lănh đạo văn nghệ, đặc biệt sự sùng bái cá nhân trong giới lănh đạo văn nghệ”.

 

Nhà phê b́nh Trương Tửu và h́nh b́a Giai phẩm mùa thu tập II (30/09/1956) có bài “Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lănh đạo văn nghệ”. (Ảnh: DR)

 

Trước tiên, ông xác định bệnh sùng bái cá nhân là bệnh của lănh đạo văn nghệ:

“Sùng bái cá nhân là một bệnh phổ biến trong giới lănh đạo văn nghệ (...) Tôi không nói đó là bệnh của văn nghệ sĩ; v́ rằng, hôm qua cũng như hôm nay, người văn nghệ sĩ tự trọng không bao giờ thừa nhận sự sùng bái cá nhân. Nghệ thuật là sáng tạo, là tự do. Sùng bái cá nhân là phục tùng mù quáng, là nô lệ. Hai thứ đó như nước với lửa; có cái này th́ không có cái kia được”.

 

Rồi ông dẫn chứng những trường hợp cụ thể không chịu sùng bài cá nhân của Tô Ngọc Vân, Sĩ Ngọc đối với Trường Chinh:

 ”Ai cũng c̣n nhớ, năm 1948, cố hoạ sĩ Tô Ngọc Vân đă tranh luận khá gay gắt với ông Trường Chinh về vấn đề: quần chúng phê b́nh nghệ thuật. Ng̣i bút tranh luận của Tô Ngọc Vân chứng tỏ một khối óc độc lập, một tâm hồn có cá tính không v́ uy quyền của lănh tụ này hay lănh tụ khác mà thủ tiêu ư kiến riêng của ḿnh”.

Cùng năm 1948, trong một buổi nói chuyện khác ở Thanh Hóa “có đoạn ông Trường Chinh lớn tiếng mạt sát hoạ phái lập thể chủ nghĩa (của Picasso). Ông cho hoạ phái ấy, cũng như các phái nghệ thuật Đa đa, Dă thú v.v…, chỉ là những cái nấm độc mọc trên trạng thái thối tha của chế độ tư bản chủ nghĩa ở Âu châu đầu thế kỷ 20”.

 

 ”Sau buổi nói chuyện này, hoạ sĩ Sỹ Ngọc đă viết một bài nói về chủ nghĩa lập thể trong tạp chí Sáng tạo số 4” “để gián tiếp bác ư kiến của ông Trường Chinh”.

Trương Tửu xác định nhiệm vụ của văn nghệ sĩ trong cách mạng kháng chiến:

“Người văn nghệ sĩ kháng chiến đi t́m chân lư, đi t́m chính nghĩa, đi t́m tự do chứ không đi t́m cuộc đời nô lệ dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác. Lấy sáng tạo nghệ thuật để phục vụ cách mạng làm lẽ sống chủ yếu, họ không thể sùng bái bất cứ cá nhân nào, không thể thừa nhận bất cứ uy quyền độc đoán nào, chống lại bất cứ sức áp chế tư tưởng nào.

 

Với những văn nghệ sĩ yêu chuộng tự do như thế, hễ lănh đạo độc tài, bè phái th́ tất yếu sự phản kháng nẩy ra ngay. Đó là t́nh trạng văn nghệ của ta từ sau 1949.”

Trong khi ấy th́ lănh đạo văn nghệ:

“Giống như bọn thầy bùa phong kiến, các nhà lănh đạo văn nghệ của chúng ta muốn “yểm” tất cả các tâm hồn cứng rắn và tự do cho đến trở thành những ḥn đất thó “tṛn méo mặc dầu tay kẻ nặn”. Những lá bùa của họ chế tạo ra kể cũng đă khá nhiều: mất lập trường, phạm chính sách, phá đoàn kết, phá tổ chức, vô kỷ luật, chống Đảng, địch lợi dụng, có vấn đề, bất măn cá nhân, óc địa vị, v.v… c̣n ǵ nữa?”

 

Sự đe nẹt của lănh đạo văn nghệ cũng đă ảnh hưởng đến một số người:

“Và phải nói ngay rằng ngần ấy lá bùa yểm cũng đă linh nghiệm ít nhiều. Một số văn nghệ sĩ non gan (...) biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục lợi. Một số khác trốn vào thái độ tiêu cực, chán nản công tác, tâm tư nặng trĩu hờn oán và uất ức. Một số khác nữa “cất kín” cá tính và nghệ thuật xuống “đáy ba lô”, yên lặng làm bổn phận một người công dân kháng chiến bằng bút, bằng màu sắc, bằng dây đàn, bằng sân khấu – “đánh giặc đă!”. C̣n một số không khuất phục, kịch liệt phê phán tác phong và đường lối lănh đạo của thường vụ Hội th́ bị chụp mũ, bị chèn ép, bị “trù”, bị hành hạ, bị gạt sang một bên…”

 

T́nh trạng trù dập, chụp mũ này dẫn đến hậu quả là: “Cho đến hôm nay: sự phải xẩy ra đă xẩy ra. Nhân đă đẻ ra quả. Cuộc đấu tranh âm ỷ dai dẳng chống lănh đạo độc đoán, quan liêu, bè phái, trong những năm cuối kháng chiến, khi hoà b́nh trở lại, đă bùng nổ. Khởi điểm là ở trong Pḥng Văn nghệ Quân đội. Trần Dần, Phùng Quán, Trần Công, Tử Phác, Hoàng Cầm v.v… đề đạt nguyện vọng lên ban lănh đạo yêu cầu một chế độ công tác hợp với tính chất đặc biệt của sự sáng tạo văn nghệ, yêu cầu trao trả quyền điều khiển văn nghệ cho văn nghệ sĩ, yêu cầu tự do trong sáng tác và sinh hoạt văn nghệ. Các nhà lănh đạo văn nghệ quân đội, chủ quan và độc đoán, cương quyết đàn áp phong trào đấu tranh chính đáng ấy. Kết quả là cuộc đấu tranh càng ngày càng lan rộng. Điểm cuối cùng của nó là lớp học tập lư luận văn nghệ tháng Tám vừa qua ở trụ sở Hội Văn nghệ. Suốt mười tám ngày, anh em văn nghệ sĩ trong Đảng cũng như ngoài Đảng đă đứng dậy đồng thanh tố cáo những hành động và thái độ độc tài, bè phái của ban lănh đạo văn nghệ. Học tập văn kiện của Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô (đặc biệt bản tham luận của Cholokov), học tập văn kiện “Bách khoa tề phóng, bách gia tranh minh” của ông Lục Đỉnh Nhất, ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, anh em văn nghệ sĩ càng phấn khởi và mạnh bạo nêu cao khẩu hiệu tự do tư tưởng, trăm hoa đua nở, lấy đó làm mục tiêu đấu tranh chủ yếu. Hôm tổng kết học tập, ông Nguyễn Hữu Đang, đại diện giới văn nghệ sĩ, đă đọc một bản tham luận lên án đường lối lănh đạo độc tài bè phái của thường vụ Hội, sự việc thật là cụ thể, lời lẽ thật là tha thiết. Ông Tố Hữu, người có trách nhiệm chính về phong trào văn nghệ từ thời kháng chiến đến giờ, đă đứng lên sơ bộ tự kiểm thảo về tác phong quan liêu trong lănh đạo văn nghệ. Anh em văn nghệ sĩ chưa thoả măn về những lời tự kiểm thảo của ông Tố Hữu và có yêu cầu được gặp Trung ương Đảng để tŕnh bày nguyện vọng. Cuộc đấu tranh c̣n tiếp tục…”

Nguyên nhân nào đă đưa đến t́nh trạng này: Bệnh sùng bái cá nhân. Sau khi dẫn chứng chứng những cử chỉ, thái độ sùng bái cá nhân của các lănh đạo văn nghệ, từ Lưu Trọng Lư đến Tố Hữu, mà theo ông đó là những kẻ có tâm lư “bảo hoàng hơn vua”, “ở cửa miệng họ, bao giờ ta cũng bắt gặp cái điệp khúc bất di bất dịch này: Đảng không bao giờ sai lầm. Rồi từ chỗ nói: Đảng không bao giờ sai lầm, họ tiến đến chỗ nói: các cá nhân lănh đạo Đảng không bao giờ sai lầm”.

 

Họ sùng bái cá nhân để làm ǵ? Trương Tửu trả lời:

“Họ sùng bái một người (cấp trên) để vạn người (cấp dưới) sợ cá nhân họ. Nhờ phương châm ấy, họ bám vào gót giầy cấp ủy ban này, cấp ủy ban khác, leo dần lên thang danh lợi, oai quyền hống hách, đàn áp cấp dưới, khinh miệt quần chúng, báo cáo lên trên th́ xuyên tạc sự thực có dụng ư, lănh đạo anh em th́ mệnh lệnh độc tài. Họ sùng bái cá nhân là để trục lợi. Họ chỉ có thể tiến thân bằng đường lối ấy (...)

 

 ”Thêm vào tư cách lănh đạo ấy sự hiểu biết nông cạn và lệch lạc về văn nghệ, sự áp dụng máy móc phương châm phục vụ kịp thời, sự bắt buộc lồng một cách công thức chủ trương chính sách vào tác phẩm nghệ thuật, sự độc quyền và bè phái trong việc xuất bản báo, sự áp chế có tính cách hành chính hoặc quân sự đối với những văn nghệ sĩ dám nói thực, nói thẳng, nói hết… là ta có tất cả cái t́nh trạng văn nghệ ngột ngạt năm sáu năm nay. Bao nhiêu năng lực sáng tạo văn nghệ v́ thế mà quằn quại không phát triển mạnh được.”

 

Sau khi tóm tắt t́nh h́nh toàn bộ đời sống văn nghệ trong kháng chiến, Trương Tửu kêu gọi:

 ”Đă đến lúc phải sa thải những “nhà lănh đạo” thiếu tư cách mà quần chúng tuyệt đối không tin tưởng nữa để quần chúng văn nghệ tự tay ḿnh điều khiển công việc chuyên môn của ḿnh một cách thực sự dân chủ”.

 

 ”Đă đến lúc phải thanh toán lối đàn áp tự do tư tưởng, khinh miệt quần chúng, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái chủ nghĩa do bệnh sùng bái cá nhân đẻ ra, để mở đường cho trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói”.

 

 Về nguyện vọng của văn nghệ sĩ, Trương Tửu viết:

 ”Họ muốn tiêu diệt bệnh sùng bái cá nhân trong việc lănh đạo văn nghệ đă cản trở sức phát triển nghệ thuật”

 

“Họ muốn chấm dứt lề lối mệnh lệnh, độc đoán, quan liêu, bè phái, chụp mũ, trong sự lănh đạo văn nghệ, giành lại quyền tự do tư tưởng bị chà đạp bấy lâu nay; v́ thiếu tự do tư tưởng th́ nghệ thuật sẽ co quắp, ṃn mỏi như cụm hoa thiếu ánh sáng mặt trời.

 

“Họ muốn công việc lănh đạo văn nghệ phải trả lại cho những văn nghệ sĩ – bất kể trong Đảng hay ngoài Đảng – được quần chúng văn nghệ tự ư lựa chọn và tín nhiệm”

 

Bài viết đầu tiên của Trương Tửu tố cáo toàn diện bộ mặt lănh đạo văn nghệ, qua đó ông phê phán bộ mặt lănh đạo nói chung. Trong bài viết thứ nh́, ông đi sâu vào vấn đề tự do sáng tạo.

 

Trương Tửu: Văn nghệ và chính trị

 

Đối diện với Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, là những người có tư tưởng quốc gia, triệt để chống lại quan niệm đấu tranh giai cấp của cộng sản, Trương Tửu là người cộng sản đệ tứ, đứng trên quan niệm đấu tranh giai cấp để đ̣i hỏi tự do dân chủ.

 

Trước tiên, ông xác định quan hệ mật thiết giữa chính trị và văn nghệ:

“Văn nghệ, tự thân nó, tất yếu phải mang chính trị tính và có tác dụng chính trị” “Văn nghệ, căn bản, là một thể cách nhận thức và tái tạo thế giới thực tại, một thể cách biến cải xă hội, biến cải con người bằng đường lối thẩm mỹ”.

 

Cho nên, người nghệ sĩ khi sáng tác bắt buộc phải “dấn thân”, nhưng sự dấn thân ở đây có tính cách “đấu tranh giai cấp”, ông viết: “Sáng tác văn nghệ là tự xác định một thái độ, một lập trường đối với cuộc đấu tranh giai cấp đương thời”.

 

Đồng ư hay không đồng ư với quan niệm đấu tranh giai cấp này của Trưong Tửu, nhưng không ai có thể phủ nhận quan niệm tự do của văn nghệ sĩ mà ông tŕnh bày trong bài viết. Vẫn đứng trên quan niệm đấu tranh giai cấp, chống lại các chế độ người bóc lột người, ông viết về thời cổ điển:

“Lịch sử văn nghệ căn bản là lịch sử chiến đấu của những văn nghệ sĩ nhân đạo chủ nghĩa đối kháng với chế độ áp bức con người, bảo vệ quyền tự do tư tưởng, tự do nói sự thực trong tác phẩm”. Mà sự thực lại là điều mà các chế độ độc tài ghê sợ nhất. “Bao nhiêu chính sách, biện pháp, công cụ đàn áp khủng bố của bọn thống trị đều chỉ nhằm mục đích: che giấu sự thực, cấm nói sự thực – v́ sự thực lên án chúng”. Nhưng: “Các văn nghệ sĩ cổ điển đă nói sự thực, bất chấp mọi đe doạ. Đại thi hào Pouchkine có câu: “Nhà văn không nên hèn nhát kêu ca oán thán v́ phải bất thần chịu đựng những viên đạn đầu tiên trên mặt trận, v́ phải nếm trải những nỗi khổ cực nguy hiểm do sự viết văn gây ra”.

 

 ”Đó cũng là thái độ của tất cả những văn nghệ sĩ cổ điển Đông và Tây - của những Đỗ Phủ, Nguyễn Du, Molière, Heine, Rousseau, Diderot v.v… Họ dũng cảm bảo vệ tự do tư tưởng, tự do nói thực đến kỳ cùng trước sức tấn công hiểm độc của các giai cấp bóc lột – như người lính cách mạng bảo vệ khẩu súng, như người nông dân cách mạng bảo vệ làng xóm, như người công nhân cách mạng bảo vệ nhà máy, trước sức xâm lược khốc liệt của quân thù dân tộc và giai cấp. Đó là điều kiện cơ bản của sự thành công nghệ thuật. Sự thực về con người, chân lư cuộc sống là huyết mạch của nghệ thuật. “Thiếu chân lư đó, không thể có tác phẩm nghệ thuật thực sự quan trọng được”.

 

Trương Tửu đă viết những lời kêu gọi và biện hộ tha thiết cho sự tự do của văn nghệ sĩ:

“Muốn sáng tạo ra một thế giới độc đáo, văn nghệ sĩ phải có một cái nh́n độc đáo, một nhận thức độc đáo về thực tại, một trí tưởng tượng độc đáo, một lối nói độc đáo. Phải duy tŕ, bảo vệ, phát triển tính độc đáo ấy không để một sức mạnh bên ngoài nào xâm phạm đến hay làm cho mất đi. Phải tự do nh́n sự thực, tự do xúc cảm, tự do suy nghĩ, tự do tưởng tượng, tự do vận dụng ngôn ngữ nghệ thuật - để có thể phản ánh hiện thực một cách trung thành. Tự do đây có nghĩa là: chống lại mọi áp bức tư tưởng, mọi mệnh lệnh, mọi công thức, mọi quyền uy bắt ḿnh nói điều ḿnh không muốn nói, nghĩ điều ḿnh không muốn nghĩ, nhận là đúng điều ḿnh cho là sai, yêu những cái mà ḿnh ghét, ca tụng những cái mà ḿnh phản đối. Không có tự do ấy, sự sáng tác của văn nghệ sĩ sẽ giả tạo. Giả tạo là kẻ thù của nghệ thuật. Giả tạo là tiêu diệt nghệ thuật. Một tác phẩm văn nghệ không tiết ra từ những cảm nghĩ thành thực và sâu sắc của chính tâm hồn tác giả sẽ là một phản ảnh nhạt nhẽo của thực tại. Nó khô khẳng v́ thiếu chất sống. Nó bất thành nghệ thuật, và do đó, chẳng xúc động được ai cả.”

 

Ông kêu gọi người nghệ sĩ phải “có can đảm “là ḿnh” trong những điều kiện xă hội bắt họ “không được là ḿnh”. Họ phải “tự do nh́n, cảm, nghĩ, nói theo chủ định cá nhân ḿnh trong những điều kiện xă hội buộc họ phải nh́n, cảm, nghĩ, nói theo những công thức thống trị”.

 
Và ông kết luận: “Người văn nghệ sĩ sống bằng tự do tư tưởng. Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ là bất khả xâm đoạt”. “Không có tự do tư tưởng th́ không thể có nghệ thuật chân chính được. Đó là một chân lư bất di bất dịch.”

 

Văn nghệ và chính trị là bài viết đấu tranh cho tự do tư tưởng hay nhất và mạnh mẽ nhất trong thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm.

 

Lê Đạt: Nhân câu chuyện mấy người tự tử  

 

Nhà thơ Lê Đạt và bài thơ nổi tiếng đăng trên báo Nhân Văn số 1 ngày 20/09/1956.
(Ảnh: DR)

 

Lê Đạt, trên Nhân Văn số 1 (20/9/56), mượn một câu chuyện thời sự trên báo: một đôi t́nh nhân tự tử để gợi lại chuyện riêng của ḿnh (Lê Đạt yêu Thúy Thúy -Nguyễn Thị Thúy- một nghệ sĩ sân khấu, ly dị vợ, bị cấp trên khiển trách). Nhưng bài thơ đă vượt trên bi kịch cá nhân, để tố cáo sự độc tài đảng trị, kiểm soát cả trái tim con người:

 

Chế độ ta không cấm họ yêu nhau

 Mà sao họ chết?

Người công an đứng ngă tư đường phố

Chỉ huy

              bên trái

                          bên phải

              xe chạy

              xe dừng

Rất cần cho việc giao thông.

Nhưng đem bục công an

              máy móc

                          đặt giữa tim người

Bắt t́nh cảm ngược xuôi

              theo đúng luật đi đường nhà nước

Có thể gây rất nhiều chua xót

              ngoài đời

 

Từ bi kịch của đôi t́nh nhân, nhà thơ nh́n lại chính ḿnh, từ bấy lâu nay đă ngủ quên trong chế độ:

 

Thơ tôi bị cuộc đời ruồng bỏ

V́ tôi đă ngủ quên trong chế độ

Vẽ phấn bôi son, tô toàn màu đỏ

La liệt đầy đường hoa nở

                          chim kêu

(...)

Giữa năm Cộng hoà lớn khôn mười một tuổi

Vẫn c̣n lọt lưới

                          nhiều thói “an nam”

Dán nhăn hiệu

“Made in Cách mạng”

Ngang nhiên xúc phạm con người

Đẩy họ đi tự tử

 Nay bừng tỉnh, nhà thơ kêu gọi mọi người, hăy “Quét sạch mây đen”, “Chặt hết gông xiềng”:

Phải quét sạch mây đen

              cho chân trời rộng mở

Chặt hết gông xiềng

              cho những cánh tung lên

Ngày và đêm

              mộng bay đầy cuộc sống

Khát vọng theo khát vọng

Không ǵ ngăn cản con người

 

Tác phẩm chiếm trọn trang ba của tờ báo, có vị trí một bài xă luận, xác định lập trường chính trị của Lê Đạt và của báo Nhân Văn. Những câu: Đem bục công an máy móc đặt giữa tim người. Bắt t́nh cảm ngược xuôi theo đúng luật đi đường nhà nước đă vượt thời gian, đi vào tim người như bức h́nh rơ nhất chụp lại chế độ công an trị trên đất nước Việt Nam.

 

Nguyễn Mạnh Tường: Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lănh đạo

 

Ngày 30/10/1956, luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài diễn văn “Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lănh đạo” trước Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội.

 

Đây là một bài chính luận sâu sắc, nội dung phân tích những sai lầm của chế độ, đi từ sai lầm cải cách ruộng đất ở thôn quê, sang sai lầm trong chế độ mậu dịch ở thị thành, tất cả nằm trong bản chất thiếu dân chủ của chế độ. Ông truy nguyên nguồn gốc những sai lầm và tŕnh bày những nguyên tắc mới để sửa sang lại guồng máy luật pháp, chính trị của đất nước.

 

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đă viết lại bài “Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất” để đăng trên báo Tự Do Diễn Đàn, ra tháng 12 năm 1956 nhưng bị cấm. - (Ảnh: DR)

 

Với giọng văn vừa mỉa mai, vừa chua xót, Nguyễn Mạnh Tường nói thẳng với Trường Chinh:

“Tôi phấn khởi được nghe bản phê b́nh của Đảng Lao động do ông Trường Chinh đọc trước Hội nghị. Nhưng tôi cũng phải thú rằng ḷng phấn khởi của tôi một phần bị giảm đi, v́ tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai lầm đă phạm trong công cuộc Cải cách Ruộng đất. Tôi xin phép các vị được kính cẩn nghiêng ḿnh trước kỷ niệm những người vô tội đă chết oan, không phải v́ bàn tay của địch mà chính của ta. (...) Trái lại, các người chết oan v́ các sai lầm trong cuộc Cải cách Ruộng đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót v́ chết với một ô danh”

 

Với tài hùng biện, Nguyễn Mạnh Tường đă “nói” bài này trước Mặt trận tổ quốc, sau khi nghe Trường Chinh đọc bản tự phê b́nh của Đảng Lao Động về chính sách cải cách ruộng đất. [Ông ứng khẩu, sau người ta yêu cầu ông viết lại (đăng trên báo Tự do diễn đàn, ra tháng 12/56, bị cấm)].

 

Trong cuộc đối thoại trực tiếp với Trường Chinh, Nguyễn Mạnh Tường buộc tội:

Những người lănh đạo, có trách nhiệm vụ Cải cách ruộng đất làm cho bao nhiêu người chết oan, không thể chỉ đứng ra xin lỗi, hoặc nhận là Đảng đă sai lầm, mà xong đâu. Xin lỗi không phải là hành động luật pháp. Giết người rồi, không thể chỉ xin lỗi mà xí xoá được. Trong một nước dân chủ thực sự, th́ Quốc hội phải lập một ủy ban điều tra, phải đưa họ ra toà, và toà sẽ phân xử, kết án, tùy theo trách nhiệm nặng nhẹ của mỗi người, từ lănh đạo cao nhất xuống dưới.

 

Trước tiên, ông phân tích t́nh h́nh chính trị xă hội Việt Nam, bằng những chất vấn:

“T́nh h́nh nước ta hiện thời ra sao? T́nh h́nh ấy có bi quan không?”

 

“Về Mậu dịch nửa năm nay, đồng bào ca thán như thế nào, ta đă biết. Nào chèn ép các nhà kinh doanh tư nhân, nào lăng phí bao ngh́n triệu trong khi thực hiện chính sách, nào tàn nhẫn với các người bán sức lao động cho ḿnh, nào đưa ra thị trường sữa hư mà không bao giờ nghĩ đến tính mệnh của người ốm, của trẻ sơ sinh, nào tung ra bơ hỏng, thuốc lá mốc, phạm đến sức khỏe của nhân dân,nào bất lực trước hiện tượng vật giá ngày càng lên trong khi nhiệm vụ của ḿnh là phải b́nh ổn nó. Có thể nói được, suốt ngày đêm không đâu là không có lời oán trách Mậu dịch”.

 

 Sau khi tổng kết t́nh trạng bi quan về kinh tế, xă hội, Nguyễn Mạnh Tường trở lại vấn đề Cải cách ruộng đất, ông hỏi: chúng ta đă sai lầm nghiêm trọng trong cải cách ruộng đất, nhưng bây giờ phải t́m hiểu xem sai ở đâu? V́ sao mà sai?

 

 Đường lối cách mạng đề ra là người cày phải có ruộng, trên nguyên tắc điều ấy là đúng, không ai chối căi. Nhưng khi thi hành chính sách này người ta đă coi thường sinh mạng con người, và vi phạm luật pháp:

“Khi đưa ra khẩu hiệu “thà chết 10 người oan c̣n hơn để sót một địch” th́ khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lư mà phản lại cách mạng là đằng khác nữa (...) Khẩu hiệu của pháp lư th́ khác hẳn: “Thà 10 địch sót c̣n hơn một người bị kết án oan”.

 

Nguyễn Mạnh Tường nhắc lại những nguyên tắc cơ bản của pháp lư:

- không phạt các tội đă phạm quá lâu rồi mà bây giờ mới khám phá ra.

 

- Chỉ một ḿnh phạm nhân chịu trách nhiệm việc ḿnh làm, không có trách nhiệm chung của vợ con, gia đ́nh.

 

- Muốn kết án một người phải có bằng chứng xác đáng.

 

- Thủ tục điều tra, xét xử phải bảo đảm quyền lợi của bị tố nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho ḿnh.

 

Những nguyên tác cơ bản này không được áp dụng trong cải cách ruộng đất.

Sở dĩ có sai lầm như vậy v́ ba nguyên do:

 - Quan điểm ta-địch, thù-bạn mơ hồ

 - Bất chấp pháp luật

 - Bất chấp chuyên môn.

 

V́ quan điểm ta-địch, thù-bạn mơ hồ, cho nên bao nhiêu bi kịch đẫm máu xẩy ra [các hiện tượng thanh trừng trong các nước cộng sản], có “những người suốt đời hi sinh cho sự nghiệp cách mạng, rồi bỗng nhiên phải truất quyền, khai trừ ra khỏi Đảng, tống giam, thậm chí có khi bị giết nữa”. Trong cuộc cải cách ruộng đất, bao nhiêu “chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy” cũng “bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành h́nh”. Những cán bộ hành xử như vậy, nếu v́ “chủ mưu phá hoại” th́ phải đưa ra toà, c̣n nếu v́ điên cuồng th́ phải đem đi chữa bệnh thần kinh.

 

chính trị bất chấp pháp luật cho nên, muốn xử tử ai cũng được: “Quyền xử tử người một cách đơn giản như vậy trái với luật pháp”.

 

bất chấp chuyên môn cho nên “Trong 10 năm vừa qua, ta thấy một t́nh trạng quái gở. Chính trị ám ảnh đầu óc chúng ta đến nỗi hai chữ “lập trường” làm ta mất ăn mất ngủ (...) Khi chọn một người vặn lái ô tô, ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái và đă vặn lái bao năm, ta chỉ hỏi: “Có lập trường không?” Kết quả là từ hai năm nay, riêng trong thủ đô Hà Nội, hàng trăm tai nạn xảy ra do các người vặn lái ô tô có lập trường mà không nắm chuyên môn. Khi đưa tới bệnh viện một bệnh nhân cấp cứu, vấn đề mang ra thảo luận trước tiên là: Bệnh nhân thuộc thành phần giai cấp nào? Chữa cho địa chủ th́ “mất lập trường”. Để nó chết mới chứng minh ḿnh có “lập trường giai cấp” (hiện tượng do B.S. Nguyễn Xuân Nguyên đưa ra) (...) Tại sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Là v́ chính trị chiếm đóng tất cả các khu vực trong nhận thức của chúng ta làm chúng ta mất cả cái nhân đạo tối thiểu của con người, làm chúng ta khước từ các chân lư”.

 

Thiếu dân chủ

 

Quốc hội thành lập đă mười năm [từ 1946 đến 1956]. “Nhưng quyền lập pháp của Quốc hội ở đâu?” “Dư luận quần chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua các chính sách mà thôi”.

 

“Trong bản Tuyên ngôn độc lập, trong Hiến pháp cũng như trong các sắc lệnh, đạo luật, nguyên tắc dân chủ đă được ban bố”. Nhưng trong thực tế: người dân không có quyền, không có phương tiện nói lên ư kiến của ḿnh, tham gia xây dựng các chính sách của Chính phủ”.

 

Đề nghị hướng sửa chữa sai lầm: một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự.”

 

Nguyễn Mạnh Tường nói:

 Hạnh phúc của loài người xây dựng trên cơ sở dân sinh và dân quyền. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây về vấn đề dân quyền. Ta được biết từ hai thế kỷ nay chủ yếu trong vấn đề dân quyền là vấn đề dân chủ, nghĩa là quyền của người dân làm chủ trên đất nước, đồng thời là quyền của con người được sống theo các nhu cầu thiết yếu và chính đáng của nhân bản”.


Tuy rằng trong nước ta có một Bộ Tư pháp, có các toà án, có luật lệ, nhưng chế độ pháp trị hầu như không có”. V́ không có một chế độ pháp trị chân chính cho nên mới xẩy ra vụ cải cách ruộng đất.

 

Và sau khi xẩy ra rồi, th́: “phải lập một ủy ban điều tra gồm các vị đại biểu Quốc hội, Mặt trận, Đảng Lao động với sự cộng tác của các vị thẩm phán cao cấp, giàu kinh nghiệm để lập một hồ sơ theo phương pháp pháp lư đă nhận định, trên quá tŕnh đi từ lănh đạo qua chỉ đạo đến chỗ thực hiện chính sách, trách nhiệm ở chỗ nào và do những ai phải chịu. Sau khi kết thúc cuộc điều tra, ủy ban ấy sẽ phân tách trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lư. Ai chịu trách nhiệm chính trị sẽ trả lời trước Quốc hội biến thành Toà án tối cao. Ai chịu trách nhiệm pháp lư sẽ trả lời trước các ṭa án tư pháp. Dưới con mắt của quần chúng theo dơi xây dựng cuộc điều tra và xét xử, công lư phát huy, không c̣n ai thắc mắc nữa”.

 

Làm như thế mới đúng quy tắc của một chế độ dân chủ. Một chế độ thực sự dân chủ trong đó người dân được làm chủ trên đất nước không những trong hiến pháp, mà cả trong thực tế nữa.

 

Và ông nhấn mạnh: “ Lịch sử các phong trào cách mạng trong hơn một thế kỷ nay, chưa bao giờ, chưa ai có thể ngăn cản được một phong trào quần chúng tranh đấu đ̣i các tự do dân chủ”.

 

Cùng với bài Phê b́nh lănh đạo văn nghệ của Phan Khôi, bài Văn nghệ và chính trị của Trương Tửu, đây là một trong ba văn bản quan trọng nhất thời kỳ NVGP. Theo Hoàng Văn Chí, bài diễn văn của Nguyễn Mạnh Tường lọt ra ngoại quốc, không biết bằng cách nào, đă đến Rangoon, rồi truyền sang Paris và có tiếng vang trong dư luận quốc tế.

 

Cách bàn về dân chủ của các tác giả trong NVGP là nói với một quần chúng đă quen biết với dân chủ, có ư thức, có tŕnh độ cao về dân chủ, khác hẳn với lối viết giản dị và giáo khoa của Phan Châu Trinh đầu thế kỷ XX, nói với một quần chúng c̣n phôi thai vế vấn đề dân chủ. Và cũng khác cách viết tự tin và tự hào dân tộc của Hoàng Đạo đối đầu với thực dân Pháp. Như vậy đủ thấy rằng từ đầu đến giữa thế kỷ XX, trong đầu óc người Việt nam, tự do dân chủ đă có những biến chuyển lớn lao, chứ không hề dậm chân tại chỗ.

 

Chỉ từ khi đảng Cộng sản dập tắt phong trào NVGP, dẹp tan tư tưởng tự do dân chủ, giữ địa vị độc tôn cai trị, coi tất cả những đảng phái đối lập là thù nghịch, là phản động, và nhất là không c̣n giáo dục học sinh về quyền công dân, quyền con người nữa, th́ người Việt mới lại rơi vào ṿng chậm tiến, không ư thức được vấn đề tự do dân chủ, và chúng ta mới phải nghe những lời tuyên bố thoái hoá của những “trí thức”, lănh đạo, về vấn đề tự do dân chủ như ngày nay.

 

 

(Hết phần VI)

 

Thụy Khuê

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính