Nhân ngày ban hành Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà 26-10-1956 nghĩ về: SỰ H̀NH THÀNH NỀN CỘNG HOÀ VÀ CHẾ ĐỘ VIỆT NAM CỘNG HOÀ TẠI VIỆT NAM
Thiện Ư
· Thấm thoát mà đă 56 năm (1956-2012), nền cộng hoà được thiết lập tại Việt Nam với bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà ban hành ngày 26-10-1956 tại Miền Nam Việt Nam, đối kháng với chế độ độc tài toàn trị cộng sản Bắc Việt mang bảng hiệu giả mạo “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà”, bảng hiệu mà Hồ Chí Minh đă dựng lên sau cái gọi là Cách Mạng Tháng 8 năm 1945 cướp được chính quyền bằng xảo thuật.
· Giả mạo về một nền dân chủ cộng hoà, v́ trước sau đều chỉ nhằm mục đích lừa bịp công luận thế giới để t́m hậu thuẫn quốc tế, ru ngủ nhân dân, trong khi thực chất cũng như thực tế vẫn là độc tài cộng sản phản dân chủ.
· Và v́ vậy, có thể nói nền cộng hoà thực sự đă chỉ được thiết lập và thực hiện tại Việt Nam kể từ khi Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà được ban hành ngày 26-10-1956. V́ nền cộng hoà ấy đă là nền tảng cho một chế độ chính trị chủquyền thuộc về toàn dân, một chế độ dân chủ cả h́nh thức lẫn nội dung, dù phôi thai c̣n nhiều khuyết tật, song đă phản ánh đúng ư nghĩa của từ ngữ Cộng Ḥa và ư nguyện của toàn dân Việt Nam.
Hôm nay, nhân ngày 26-10- 2012, nghĩ về Hiến pháp Việt Nam Cộng Hoà ban hành ngày 26-10-1956, chúng tôi muốn gửi bài viết này đến quư độc giả người Việt Nam không cộng sản trong cũng như ngoài nước, đề cùng tự hào với quá khứ rằng chúng ta đă chọn đúng nền tảng một chế độ chính trị phù hợp với ư nguyện của toàn dân và tin tưởng mănh liệt ở tương lại, rằng nhất định chúng ta sẽ thiết lập được một chế độ dân chủ trên nền tảng cộng hoà đă được xác lập 56 năm qua tại Việt Nam.Nội dung bài viết lần lượt tŕnh bày: 1.- Bối cảnh h́nh thành Nền Cộng Ḥa tại Việt Nam. 2.- Nền Cộng Ḥa và Cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. 3.- Nền Cộng Ḥa và các bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Ḥa. 4.- Nền Cộng Ḥa và các chế độ Việt Nam Cộng Ḥa (Đệ nhất và Đệ Nhị VNCH).
I/- BỐI CẢNH H̀NH THÀNH NỀN CỘNG H̉A TẠI VIỆT NAM.
Như quư độc giả đă biết, sau Thế Chiến Hai, chủ nghĩa thực dân cũ đă buớc vào thời kỳ suy tàn, xu thế giải thực đă buộc các đế quốc từng có nhiều thuộc địa như Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan... đă phải lần lược trao trả độc lập cho các nước bị trị. Điển h́nh là một số nước trong vùng như Ấn Độ và Hồi Quốc được Đế Quốc Anh trao trả độc lập năm 1947; Indonesia được Hà Lan trao trả độc lập năm 1949; Triều Tiên được Nhật trao trả độc lập năm 1945; Lào và Cao Miên Pháp trao trả độc lập năm 1953. . . Do đó, theo nhận định của nhiều sử gia và học giả nghiên cứu chính trị và lịch sử, th́ chẳng cần cuộc kháng chiến gian khổ 10 năm do đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) phát động và chủ đạo tiến hành (1945- 1954) làm hao tổn nhiều xương máu nhân dân, tàn phá tài nguyên đất nước vô ích, để có được cái gọi là “Chiến thắng Điện Biên lịch sử” (7-5-1954), th́ thực dân Pháp sớm muộn cũng phải trao trả độc lập cho Việt Nam cũng như nhiều thuộc địa khác. Chẳng qua Hồ Chí Minh và Cộng đảng Việt Nam tiến hành cuộc chiến tranh này, chỉ là lợi dụng ḷng yêu nước của nhân dân, dùng chiêu bài độc lập dân tộc để chiếm quyền thống trị đất nước, để áp đặt chế độ độc tài đảng trị CS, theo chủ trương bành trướng lănh thổ, nhuộm đỏ ṭan cầu của cộng sản quốc tế, đứng đầu là hai tân đế quốc Đỏ Nga – Tầu.
Thật vậy, trên thực tế, trước áp lực của xu thế giải thực, thực dân Pháp đă phải lùi từng bước, trao trả độc lập từng phần cho Việt Nam, qua các Hiệp Định Vịnh Hạ Long ngày 5 tháng 6 năm 1948,“đề cử” ḥang đế Bảo Đại làm Quốc Trưởng, và Pháp thừa nhận Việt Nam dưới sự lănh đạo của Quốc Trưởng Bảo Đại như là một quốc gia độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp. Ngày 8 tháng 3 năm 1949 Tổng Thống Pháp Vicent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại đă kư “Thỏa Ước Elysée”.Theo đó, Pháp hứa sẽ xây dựng cho Việt Nam một quân đội quốc gia chống cộng. Đây là khởi điểm của sự thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, gốm có các binh lính và sĩ quan “Khố Xanh Khố Đỏ” của Pháp chuyển qua. Chính những sĩ quan có xuất thân này, đă nắm vận mệnh quốc gia sau khi đảo chánh lật đổ Tổng Thống Diệm, cho đến ngày Miền Nam mất vào tay cộng sản (30-4-1975).
Thề rồi, cuối cùng thực dân Pháp cũng đă phải trao trả độc lập ḥan ṭan cho Việt Nam. NhưngViệt Nam có số phận không may đă rơi vào thế gọng ḱm của một chiến lược quốc tếmới, với cuộc chiến tranh ư thức hệ (cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa), nên đất nước bị qua phân theo Hiệp Định Genève ngày 20-7-1954, do sự áp đặt của các cường quốc, trái với nguyện vọng quốc dân Việt Nam.
Hệ quả là một nửa nước Miền Bắc rơi vào tay đảng Cộng sản Việt Nam, thiết lập “Nền Chuyên Chính Vô Sản”, trên đó xây dựng chế độ độc tài ṭan trịcộng sản, với quyền thống trị độc tôn, độc quyền của đảng CSVN, một công cụchiến lược của hai tân đế quốc đỏ Nga-Tầu. Nửa nước Miền Nam Việt Namđược trao trả cho chính quyền chính thống quốc gia Việt Nam, thiết lập nền Cộng Ḥa trên đó xây dựng chế độ tự do dân chủ, tức Việt Nam Cộng Ḥa, với sự hổ trợcủa Hoa Kỳ và các đồng minh Thế Giới Tự Do trên nguyên tắc, song trên thực tế đă bị Hoa Kỳ biến thành công cụ chiến lược của ḿnh, một công cụ ngay t́nh khác với công cụ tri t́nh cho Nga- Tầu của Cộng đảng VN và chế độ Cộng sản Bắc Việt. V́ đảng Cộng sản Việt Nam vốn là một công cụ bành trướng của cộng sản quốc tế,đứng đầu là Nga Tầu lúc đó, nên đă phát động và tiến hành cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn để thôn tính Miền Nam Việt Nam.
Chính quyền chính thống quốc gia và nhân dân Miền Nam,trong thế chẳng đặng đừng đă phải làm tiền đồn chống cộng cho Hoa Kỳ và Thếgiới tự do, buộc ḷng phải thực hiện cuộc chiến tranh tự vệ để ngăn chặn, đẩy lùi cuộc chiến tranh xâm lược đó của Cộng sản Bắc Việt, để bảo vệ phần đất tựdo Miền Nam, trong ư hướng giữ vững độc lập quốc gia, chủ quyền dân tộc, để vừa chiến đấu chống cuộc xâm lăng của CSBV, vừa nỗ lực xây dựng thành công chế độdân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Ḥa, tiến tới thống nhất đất nước, không phải bằng bạo lực quân sự, mà bằng sự ưu thắng của chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Ḥa và nền kinh tế phát triển phồn vinh ở Miền Nam, trên chế độ độc tài ṭan trị CS và nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu ở Miền Bắc. Nghĩa là Việt quốc chúng ta, muốn tiến tới t́nh trạng như Nam Bắc Hàn hiện nay, mà sự thống nhất Hàn Quốc một cách ḥa b́nh, với sự ưu thắng của Nam Hàn dân chủ phồn vinh trên Bắc Hàn độc tài cộng sản nghèo đói và lạc hậu, chỉ c̣n là vấn đề thời gian.
Chính v́ mục tiêu và lư tưởng vừa nêu, Nền Cộng Ḥa đă được xác lập tại Việt Nam, trên đó xây dựng chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Ḥa thay thế cho chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại nhiều thế kỷ trước đó tại Việt Nam.
II/- NỀN CỘNG H̉A VÀ CỐ TỔNG THỐNG NGÔ Đ̀NH DIỆM:
Theo tự điển Hán Việt của học giả Đào Duy Anh, Cộng Ḥa (Republic:Cộng đồng, dân chúng) có ư nghĩa như là nền tảng cho một chế độ dân chủ, “Chế độ Cộng Ḥa” (Repubican Regime) với “Chủ quyền quốc gia thuộc về ṭan dân”. Cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm được coi là người khai sáng Nền Cộng Ḥa như thế tại Việt Nam.
Sử liệu cận đại Việt Nam ghi nhận các sự kiện có ư nghĩa sau đây: ngày 7 tháng 7 năm 1954, chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm đang sống lưu vong ở hải ngọai đă về nước chấp chánh theo sự ủy thác của Vua Bảo Đại trong ngôi vị Thủ Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam, để chống cộng và nếu cần chống cả thực dân và phong kiến để bảo vệ tổ quốc (Như hồi kư của cựu ḥang Bảo Đại đă viết). V́ xu thế thời đại, Thủ Tướng Diệm không thể duy tŕ thể chế quân chủ chuyên chế, nên với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ đứng đầu phe Thế giới tự do (Thời kỳ chiến tranh ư thức hệ) và 18 đ̣an thể chính trị (Hội Đồng Cách Mạng Quốc gia), họp tại Dinh Độc Lập đă quyết định thiết lập chế độ Cộng Ḥa, theo xu thế thời đại, đáp ứng ư nguyện của quốc dân, qua cuộc trưng cầu dân ư ngày 23-10-1955 truất phế vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của nền quân chủ chuyên chế Việt Nam thiết lập nhiều thế kỷ trước đó, tôn vinh Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm là Tổng Thống đầu tiên chế độ Việt Nam Cộng Ḥa.
Để có căn bản pháp lư, ngày 26-10-1955 Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm đă ban hành Hiến Ước Tạm Thời Số 1, và ngày 23 tháng 1 năm 1956 đă kư ban hành Dụ Số 8 thiết lập Quốc Hội Lập Hiếnđịnh hướng cho chế độ Cộng Ḥa sẽ được xác lập. Trên căn bản các văn kiện pháp lư hành chánh này, nhân dân Miền Nam lần đầu tiên được cầm lá phiếu với tư cách là người dân một nước độc lập, bầu người đại diện vào Quốc Hội Lập Hiến để thay mặt ḿnh sọan thảo ra một bản hiến pháp dân chủ trên nền tảng Cộng Ḥa đầu tiên. Trong ṿng 9 tháng sau, Quốc hội do dân bầu này đă ḥan thành bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Ḥa và ngày 26 tháng 10 năm 1956, Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm đă kư ban hành bản hiến pháp đầu tiên làm căn bản thíêt lập các định chế quốc gia, với tam quyền phân lập và cơ cấu của một chính quyền cộng ḥa với chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân.
III/- NỀN CỘNG H̉A VÀ CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM CỘNG H̉A.
Như trên đă tŕnh bầy Nền Cộng Ḥa là nền tảng của một chế độ chính trị với chủ quyền quốc gia thuộc về ṭan dân, theo học thuyết chính trị dân chủ Phương Tây, tương tự quan niệm dân chủ PhươngĐông “Dân vi quư, xă tắc thứ chi, quân vi khinh”, đều lấy “Dân làm gốc”. Tiếc rằng, quan niệm dân chủ này chỉ có trong sách vở trong chế độ “Quân chủ chuyên chế”, thực tế Vua vẫn là tối thượng, chủ quyền quốc gia thuộc về vua, chứ không phải của ṭan dân. Cũng như trong “nền chuyên chính vô sản” chủ quyền quốc gia thuộc về đảng cộng sản, quyền “Làm chủ của nhân dân” chỉ là bánh vẽ.
V́ vậy muốn chủ quyền quốc gia thuộc về ṭan dân, cần xây dựng một chế độ dân chủ trên nền tảng Cộng Ḥa. Để thiết định chế độ Dân Chủ Cộng Ḥa này, cần có một bản Hiến Pháp, một văn kiện pháp lư căn bản qui định rơ quyền lợi nghĩa vụ người dân và chính quyền, trong tương quan với các cơ quan công quyền, với các viên chức được người dân ủy quyền qua lá phiếu trong các cuộc bầu cử tự do, cử người đại diện cho dân, làm nhiệm vụ công bộc ăn lương của nhân dân, điều hành guồng máy công quyền quốc gia, từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở, theo ư nguyện của người dân, sao cho xă hội ổn định, phát triển, quốc gia phú cường, mọi tầng lớp nhân dân có điều kiện phát triển đồng đều, “cộng đồng đồng tiến”, có đời sống sống ấm no, tự do mưu cầu hạnh phúc riêng (cá nhân) cũng như chung (tập thể).
Trong ư hướng trên, bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Ḥa đầu tiên được sọan thảo và ban hành ngày 26-10-1956 và bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Ḥa thứ hai đuơc ban hành ngày 1-4-1967. Bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Ḥa 26-10-1956 được sọan thảo dựa trên hai nền tảng triết lư và chính trị. Nền tảng triết lư là triết học duy tâm, lấy con nguời là trung tâm, là chủ thể xă hội và là đối tượng phục vụ của xă hội.Nền tảng chính trị là chủ nghĩa nhân vị, trên đó thiệt lập chế độ cộng ḥa với chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân, các quyền dân chủ, dân sinh và nhân quyền được tôn trọng và bảo vệ. Chủ đích của các nhà lập hiến khi chọn chủ nghĩa Nhân Vị làm nền tảng cho chế độ Cộng Ḥa để soạn thảo ra Hiến Pháp hữu thần Việt Nam Cộng Ḥa là để đối kháng với triết học duy vật và chủ nghĩa Cộng Sản vô thần, là nền tảng hiến pháp của chế độ vô thần Cộng sản Bắc Việt, vốn coi con người là sản phẩm, là công cụ của xă hội, cá nhân phải phục vụ xă hội và quyền lợi cá nhân phải hy sinh cho quyền lợi tập thể (thực chất cũng như thực tế là hy sinh cho quyền lợi của một tập đ̣an thống trị là Đảng CSVN), trong một xă hội mà những người cộng sản muốn thiết lập, đó là xă hội “Xă hội chủ nghĩa”, giai đọan đầu của xă hội cộng sản.
Tham vọng của các nhà lập hiến Việt Nam khi chọn chủ nghĩa Nhân Vị làm nền tảng cho chế độ Cộng Ḥa đối kháng với chủ nghĩa cộng sản Bắc Việt làm nền tảng cho chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (giả hiệu) như là một vơ khí lư luận để đánh bại đối phương về mặt ư thức hệ, song song với nỗ lực quân sự đập tan cuồng vọng xâm lăng Miền Nam của Cộng sản Bắc Việt lúc bấy giờ, và nỗ lực xây dựng phát triển chính trị, kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hóa, xă hội để chứng tỏ tính ưu việt của chế độ Cộng Ḥa dân chủ ở Miền Nam trên chế độ độc tài đảng trị cộng sản ở Miền Bắc.
Với vơ khí lư luận là chủ nghĩa Nhân Vị và chế độ Cộng Ḥa, các nhà lập hiến Việt Nam Cộng Ḥa tin rằng, nguời dân sẽ thấy được hai con đường “Nhân vị chủ nghĩa” và “Cộng sản chủ nghĩa” dẫn đến mục tiếu tối hậu ḥan toàn trái ngược: Chủ nghĩa nhân vị “Xây dựng một xă hội v́ con người, tôn trọng phẩm giá con người và xă hội phải phục vụ lợi ích tối thượng của con nguời”. Trong khi chủ nghĩa cộng sản “xây dựng một xă hội V́ đảng cộng sản, nô dịch và xă hội hóa con người, biến con người thành công cụ phục vụ xă hội (thực chất là phụng vụ giai cấp thống trị), nhân vị bị hạ thấp ngang tầm ḷai vật" (theo lư luận và thực hành Duy vật biện chứng của CS).
Đồng thời, chủ nghĩa Nhân Vịsẽ là nền tảng cho chế độ chính trị Cộng Ḥa, để bảo đảm được nhân vị và các nhân quyền căn bản của người dân. Trong bối cảnh cuộc chiến tranh chống cộng bảo vệ nền Cộng Ḥa và chế độ dân chủ VNCH, chủ nghĩa Nhân Vị giúp nguời dân phân biệt đuợc mục tiêu và lư tuởng tranh đấu tối hậu của nguời Việt Quốc gia là thiết lập cho kỳ đuợc một chế độ dân chủ cộng ḥa là v́ nhân vị và phẩm giá con người, v́ hạnh phúc của nhân dân, quyền dân chủ dân sinh và nhân quyền được bảo đảm với tam quyền phân lập, trái nguợc với chế độ độc tài ṭan trị cộng sản độc tài, độc tôn và độc quyền thống trị của đảng CSVN, v́ quyền lợi của giai cấp thống trị là các cán bộ đảng viên CS.
Chính v́ vậy mà chủ thuyết nhân vị đuợc xác tín qua phần “Mở Đầu” của Hiến Pháp Việt Nam Cộng Ḥa ngày 26-10-1956 như sau: “ Tin tuởng ở sự trường tồn của nền văn minh Việt Nam, cần có trên nền tảng duy linh mà ṭan dân đều có nhiệm vụ phát huy; “Tin tưởng ở giá trị siêu việt của con người mà sự phát triển tự do. Điều ḥa vàđầy đủ trong cương vị cá nhân cũng như trong đời sống tập thể phải là mục đích của mọi họat động quốc gia...”.
Như vậy, chính trên nền tảng chủ nghĩa Nhân Vị, Quốc hội Lập Hiến đầu tiên của Quốc Gia Việt Nam đă sọan ra bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Ḥa đầu tiên, (ḥan ṭan khác với cái gọi là Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa của Cộng sản Bắc việt “ngụy cộng ḥa”),và đă đuợc Thủ Tướng Ngô Đinh Diệm, sau trở thành vị Tổng Thống đầu tiên chế độ Việt Nam Cộng Ḥa, đă kư ban hành ngày 26-10-1956.
Nội dung Bản Hiến Pháp này,ng̣ai phần“Mở Đầu”, gồm 10 Thiên và 98 Điều thể hiện rơ Nguyên tắc phân quyền: Thiên thứ nhất quy định những “Điều khỏan căn bản”; Thiên Thứ Hai: “Quyền lợi và Nhiệm vụnguời dân”; Thiên thứ ba:“Tổng Thống”; Thiên thứ tư: “Quốc Hội”; Thiên thứ năm“Thẩm Phán”; Thiên Thứ sáu “Đặc biệt Pháp Viện”; Thiên Thứ Bẩy “Hội ĐồngKinh TếQuốc gia”; Thiên thứ tám “Viện Bảo Hiến”; Thiên Thứ Chín “Sửa Đổi Hiến Pháp” và Thiên Thứ muời “Các Điều Khỏan Chung”.
Cuộc đảo chánh quân sự ngày 1-11-1963, với sự trợ giúp của ngọai bang đăđưa đến cái chết thảm thương cho Cố Tổng Thống Ngô Đinh Diệm, nguời có công khai sáng nền Cộng Ḥa Việt Nam. Hiến pháp Việt Nam Cộng Ḥa ngày 26-10-1956 bị hủy bỏ cùng với sự cáo chung nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Ḥa.
Sau những năm bất ổn chính trị, xă hội xáo trộn do các phe phái chính trị quân sự tranh giành quyền lực (1963-1967) Bản Hiến Pháp Đệ Nhị Việt Nam Cộng Ḥa đă được Quốc Hội Lập Hiến thông quan ngày 18-3-1967 và đă được Tướng Nguyễn Văn Thiệu trong tư cách Chủ Tịch Ủy Ban LănhĐạo Quốc gia ban hành ngày 1-4-1967. Cuộc bầu cử ngày 3-9-1967 đăđưa Tướng Nguyễn Văn Thiệu lên ngôi vị Tổng Thống Việt Nam Cộng Ḥa, là vị Tổng Thống thứ hai của nền Cộng Ḥa Việt Nam.
Ngày 5-4-1975,truớc áp lực của ngọai bang và biến chuyển của t́nh thế, Tổng Thống Thiệu đă phải từ chức và trao quyền cho Phó Thổng Thống Trần Văn Hương theo qui định của Hiến Pháp. Chưa đầy một tháng sau, ngày 28-4-1975, Tổng Thống Trần Văn Huong, vị Tổng Thống thứ ba và cũng là vị Tổng Thống cuối cùng của Việt Nam Cộng Ḥa theo Hiến Pháp, do áp lực của t́nh thế, đă lại phải từ chức để trao quyền ngoài dự liệu của Hiến Pháp cho Tướng Dương Văn Minh làm nhiệm vụ khai tử chế độ đệ nhị Việt Nam Cộng Ḥa theo sự đạo diễn, sắp xếp của ngọai bang, như ông ta đă từng theo lệnh ngọai bang cầm đầu nhóm đảo chánh phá đổ chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng Ḥa, sát hại Tổng Thống Diệm, người khai sáng nền Cộng Ḥa Việt Nam 12 năm trước đó (1963-1975).
Nếu so sánh tổng quát hai bản Hiến Pháp chế đô đệ nhất và đệnhị Việt Nam Cộng Ḥa, cả hai có nền tảng chung là Cộng Ḥa, cùng vận dụng nguyên tắc phân quyền theo học thuyết chính trị dân chủ Phương Tây, trong việc thiết lập và điều hành các định chế quốc gia và guống máy công quyền, nhằm thểhiện “Quyền lực quốc gia thuộc về ṭan dân” và bảo đảm các nhân quyền và dân quyền cơ bản của công dân được tôn trọng, bảo vệ và hành xử.
Nhưng khác là Hiến pháp 26-10-1956 dựa trên hai nền tảng chủ nghĩa nhân vị và học thuyết dân chủ Phương Tây để thiết lập chế độ Cộng Ḥa, với nguyên tắc phân quyền,c̣n bản Hiến Pháp 1-4-1967, chỉ dựa trên nền tảng chủ thuyết chính trị dân chủ Phương Tây để thiết lập chế độ Cộng Ḥa.
Nếu so sánh nội dung th́ Hiến pháp VNCH ngày 1-4-1967 ḥan chỉnh hơn Hiến Pháp 26-10- 1956, với các định chế quốc gia và cơ cấu tổ chức chính quyền có nhiều điểm giống Hiến Pháp Hoa Kỳ nên có tính dân chủ cao hơn, như phân định rơ Tổng Thống nắm quyền hành pháp, Quốc Hội lưỡng viện (Thượng viện và Hạ viện)lập pháp và Tối cao Pháp Viện nắm quyền tưpháp, thể hiện rơ quyền lực quân b́nh của nguyên tắc tam quyền phân lập. Trong khi, Hiến pháp 26-10-1956, chỉ có quyền hành pháp mạnh (Tổng Thống) và lập pháp yếu (Quốc Hội) là thể hiện qua cơ chế, c̣n tư pháp chỉ quy định như một đ̣an thể (Thẩm phán đoàn) không có tính cơ cấu mạnh. Thế nhưng, việc vận dụng Hiến Pháp vào thực tế th́ có lẽ, Hiến Pháp VNCH 26-10-1956 có thể là phù hợp hơn trong bối cảnh đất nước đang có chíến tranh lúc bấy giờ (cần một hành pháp mạnh), với tŕnh độ ư thức dân chủ người dân chưa cao và đối phương CS có thể lợi dụng quyền dân chủ rộng răi để lũng đọan chính quyền, quân đội và các lực lương an ninh của VNCH, như thực tế cho thấy.
IV/- NỀN CỘNG H̉A VÀ CÁC CHẾ ĐỘ VIỆT NAM CỘNG H̉A.
Như vậy nền cộng ḥa thể hiện rơ mục tiêu chống cộng bấy lâu nay của người Việt Quốc gia hay là người Việt Nam không cộng sản là để nhằm thành đạt mục tiêu tối hậu là xây dựng một chế độ dân chủ đích thực, chế độ Việt Nam Cộng Ḥa đă được xác lập tại Việt Nam, đánh dấu bằng sự ra đời của bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Ḥa 26-10-1956. Chế độ đó là chế độ đệ nhất và đệ nhị Việt Nam Cộng Ḥa kế tiếp nhau (1956-1975).
Ngày 30-4-1975, cộng sản Bắc Việt đă cưỡng chiếm Miền Nam, vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973 , tức vi phạm luật pháp quốc tế, trước sự đồng lơa, phủi tay của đồng minh Hoa kỳ, và sự làm ngơ của quốc tế, cụ thể là các cường quốc đế quốc đóng vai tṛ trung tâm quyền lực thế giới bảo đảm việc thực thi Hiệp Định Paris, thông qua tổ chức Liên Hiệp Quốc, vốn là công cụ của họ, do họ dựng lên và v́ quyền lợi ưu tiên của họ, nhân danh nền ḥa b́nh thế giới áp chế các dân tộc nhược tiểu.
Sau đây là nguyên văn Điều 15, Chương V. “Vấn đề thống nhất Việt Nam và vấn đề quan hệ giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam”(Bản tiếng Việt) của Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973:
Điều 15: Việc thống nhất nước Việt Nam sẽ được thực hiện từng bước bằng phương pháp ḥa b́nh trên cơ sở bàn bạc và thỏa thuận giữa Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam, không bên nào cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào và không có sự can thiệp của nước ng̣ai. Thời gian thống nhất sẽ do Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam thỏa thuận.
Trong khi chờ đợi thống nhất:
a) Giới tuyến quân sự giữa hai miền tại vĩ thuyến thứ mười bẩy chỉ là tạm thời và không phải là một ranh giới về chính trị hoặc về lănh thổ, như quy định trongđọan 6 của Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơ-ne-vơ năm một ngh́n chín trăm năm mươi tư.
b) Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam sẽtôn trọng khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến quân sự tạm thời..
c) Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam sẽsớm bắt đầu thương lượng nhằm lập lại quan hệ b́nh thường về nhiều mặt. Trong các vấn đề sẽ được thương lượng, có vấn đề thể thức đi lại dân sự qua giới tuyến quân sự tạm thời.
d) Miền Bắc và Miền Nam Việt Nam sẽ không tham gia bất cứ liên minh quân sự hoặc khối quân sự nào và không cho phép nước ng̣ai có căn cứ quân sự, quân đội, cố vấn.
quânsự và nhân viên quân sự trên đất ḿnh, như Hiệp định Giơ-ne-vơ năm một ngh́n chínm trăm năm mươi tư về Việt Nam quy định.”
Đọc Điều 15 trên đây, người ta không khỏi liên tưởng đến việc tiếp xúc bí mật giữa Cố vấn chính trị Ngô Đ́nh Nhu và Phạm Hùng, một lănh tụ Cộng Đảng Việt Nam lúc đó đang làm nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo cuộc chiến tranh thôn tính Miền Nam, vào thời điểm Chính quyền Ngô Đ́nh Diệm bị áp lực nặng nề nhất của Hoa Kỳ (62-63), muốn mưu t́m một giải pháp thương lượng ḥa b́nh giữa người Việt (Quốc gia) và người Việt (Cộng sản). Việc làm này có thể chỉ là động tác giả của ông Nhu như môt thủ thuật chính trị nhằm cảnh cáo Hoa Kỳrằng nếu ép chúng tôi quá, chúng tôi sẽtrực tiếp nói chuyện với đối phương, trên tinh thần người Việt nói chuyện với người Việt để chấm dứt xung đột, (bằng sự duy tŕ nguyên trang qua phân lănh thổ tạm thời, với hai chế độ trên hai miền hiệp thương tương tự như quy định của Điều 15 Hiệp Định Paris vừa nêu, chứkhông nhất thiết phải “Dâng Miền Nam cho CSBV” như sự gán ghép chủ quan để kết tội và làm lư cớ lật đổ của một số người có định kiến với cá nhân TT. Diệm và chính quyền Đệ nhất Việt Nam Cộng Ḥa) . Đây có thể coi là một viễn kiến có giá trị thực tiễn, tương tự như ư hướng quy định trên của bản Hiệp Định Geneve 1954. Nhưng việc làm này đă là quá sớm đối với Hoa Kỳ, nên đă bị Hoa Kỳ kết án và làm một trong những lư cớ xúi dục nhóm Tướng tá làm cuộc đảo chánh lật đổ và sát hại Tổng Thống Diệm và bào đệ Ngô Đ́nh Nhu như mọi người đă biết.
V́ lúc đó người Mỹ chưa muốn chấm dứt mà muốn mở rộng và trực tiếp tham chiến và chỉ đạo chiến tranh, để những nhà tưbản quân sự, quốc pḥng Mỹ có thêm thời gian tiêu thụ cho hết những vũ khí đạn dược c̣n tồn đọng sau Chiến tranh Thế Giới II và cần môi trường thử nghiệm thêm các lọai vũ khí mới. Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, người tha thiết và cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, không muốn chiến tranh lan rộng có hại cho đất nước, không muốn đối phương xuyên tác chính nghĩa chống cộng của chính quyền quốc gia, song đă là bức cản trở mà Hoa Kỳ cần phải lọai trừ bằng mọi cách, với những lư cơ giả tạo, như các tài liệu được giải mât sau này cho thấy.
Như thế là Chế độ Việt Nam Cộng Ḥa đă bị cưỡng tử về mặt thực tế, song chúng tôi cho rằng vẫn tồn tại về mặt pháp lư căn cứ theo Điều 15 và nhiều điều khỏan khác trong Hiệp Định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại ḥa b́nh cho Việt Nam. Chế độ Việt Nam Công Ḥa chỉkhông tồn tại trên đất nước Việt Nam trong tư thế một quốc gia với đầy đủ ba yếu tố cấu thành: lănh thổ, chính quyền và dân chúng, song vẫn tồn tại về mặt pháp lư, với thực tế là hầu hết bộ phận đầu năo chính quyền, và một số khá đông (nay ước chừng 3-4 triệu) các thế hệ quân, dân, cán chính của chế độ Việt Nam Cộng Ḥa đă kịp di tản ra nước ng̣ai trước ngày 30-4-1975, hay chậy trốn chế độ CS sau này, trong thân phận lưu vong, vẫn không bỏ cuộc, đă quy tụ lại tại hải ngọai tiếp tục cuộc chiến đấu chống cộng, với cùng mục tiêu đánh đổ chế độ độc tài cộng sản, thànhđạt mục tiêu tối hậu là tái lập chế độ Dân Chủ trên nền Nền Cộng Ḥa đă được xác lập tại Việt Nam từ năm 1956;và hiện vẫn tồn tại trên đất nước Việt Nam, trong ḷng hơn 85 triệu nhân dân Việt Nam với khát vọng tự do dân chủ, v́ các quyền tự do, dân chủ, dân sinh, nhân quyền đă và đang bị “nền chuyên chính vô sản” với chế độ“Độc tài ṭan trị cộng sản” cướp đọat và chà đạp. Khát vọng này đă và đang được nhân dân trong nước thể hiện ngày một lan rộng và mạnh mẽ qua các cuộc đấu tranh đ̣i dân chủ, dân sinh, nhân quyền, tức đ̣i tái lập nền Cộng Ḥa đă được xác lập trước đây,bởi chính quyền Quốc gia chính danh, kế thừa lịch sử dựng nước và giữ nước của tiền nhân; trái với chính quyền cộng sản ngụy danh, kếthừa lịch sử bành trướng quyền thống trị thế giới của cộng sản quốc tế, phản dân hại nước, như mọi người đều biết qua việc làm của họ, kề từkhi những môn đồ đầu tiên, đứng đầu là Hồ Chí Minh t́nh nguyện làm môn đồ của cộng sản quốc tế, du nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam, tụ đảng từ ngày 3-2-1930 làm công cụ thực hiện nghĩa vụ quốc tế cộng sản để mở mang bờ cơi cho các tân đếquốc đỏ Nga-Tầu, phá họai ṭan diện đất nước, để lại hậu quả nghiêm trọng nhiều mặt, lâu dài cho dân tộc Việt Nam, mà mai hậu sẽ mất nhiều thời gian và công sức dọn dẹp, tái tạo.
• KẾT LUẬN:
Tóm lại, như vậy là cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân Miền Nam bảo vệ chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Ḥa đă thất bại, song chỉ là thất bại tạm thời, có tính giai đọan. V́ sau đó và cho đến nay, cuộc chiến đấu chống cộng sản độc tài để tái lập chế độ cộng ḥa trên cả nuớc vẫn đang tiếp diễn. Đây là giai đọan chống cộng cuối cùng v́ dân chủ, cho nền cộng ḥa Việt Nam của nguời Việt Quốc gia hay là nguời Việt Nam không cộng sản trong cũng như ng̣ai nuớc. Thực tế đă và đang ngày một khẳngđịnh chính nghĩa “Cộng Ḥa” (Chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân) tất thắng ngụy nghĩa “Cộng sản” (Chủ quyền quốc gia thuộc về đảng CSVN).
Nhân dân Việt Nam nhất định sẽ thiết lập đuợc nền “ĐệTam Cộng Ḥa” trên ṭan cơi Việt Nam trong một tương lai không xa, với một Bản Hiến Pháp Cộng Ḥa “thể hiện đuợc nguyện vọng của nhân dân (Việt Nam), từ Mũi Cà Mâu đến Ải Nam Quan”, như từng đuợc khẳngđịnh trong lời “Mở Đầu” của bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Ḥa tiên khởi ngày 26-10- 1956.
Năm mươi sáu năm qua, mục tiêu chống cộng để thực hiện lư tướng thiết lập cho kỳ được môt chế độ dân chủ cộng ḥa trên quê hương đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta vẫn kiên định. Chúng ta tạm thời thất bại trong giai đọan chiến đấu bảo vệ chế độ Việt Nam Cộng Ḥa trong cuộc chiến tranh Quốc-Công vừa qua (1954-1975), song không chỉ có niềm tin mănh liệt mà cả thực tế đă và đang ngày một khẳng định: Chân lư tất thắng, chính nghĩa quốc gia tất thắng ngụy nghĩa cộng sản. Nền cộng ḥa nhất định sẽ thay thế nền độc tài chuyên chính cộng sản hiện nay tạiViệt Nam trong tương lai không xa.
Kỷ niệm 56 năm ngày thành lập nền Cộng Ḥa Việt Nam vào thời điểm này, ng̣ai mục đích tưởng niệm và ghi ơn những người đă có công thiết lập nền cộng ḥa Việt Nam, như Cố TổngThống Ngô Đ́nh Diệm và các dân biểu Quốc Hội Lập Hiền đă sọan thảo ra bản Hiến Pháp Việt Nam Công Ḥa ngày 26-10-1956, chúng ta c̣n tưởng nhớ và ghi ơn hai vịTổng Thống kế nhiệm Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương (dù các vị Tổng Thống ai cũng có những khiếm khuyết sai lầm về lănh đạo khi c̣n tại chúc, song đều một ḷng thực tâm bảo vệnền Cộng Ḥa Việt Nam), cũng như các Tướng lănh, quân dân cán chính Việt Nam Cộng Ḥa đă chiến đấu hy sinh để bảo vệnền Cộng Ḥa non trẻ ấy. Đồng thời, cũng là dịp nhắc nhở chúng ta về mục tiếu chống cộng để thành đạt lư tưởng xây dựng một chế độ dân chủ cộng ḥa đích thực trên quê hương Việt Nam hậu cộng sản, chứ không nhằm thay thế chế độ độc tài cộng sản bằng một chế độ độc tài không cộng sản.
V́ thực tế, đă có những biểu hiện cho thấy một số cá nhân và một số chính đảng quốc gia, đ̣an thể chống cộng ở Hải ngọai nói chung, Houston nói riêng, dường như đă coi nhẹ mục tiêu tối hậu này của sự nghệp chống cộng. Do đó đă có những chủ trương, họat động và cách ứng xử thiếu khôn ngoan, có tính “Độc tài không cộng sản” với những chiến hữu và đồng hương cùng bè quốc gia dân tộc, phái tự do dân chủ cộng ḥa, có chung mục tiêu chống cộng với ḿnh, chỉ v́ khác quan điểm và phương thức chống cộng.
Thực tế điều này đă tác hại rất lớn đến sức mạnh đ̣an kết, niềm tin tất thắng vào “Chính nghĩa Quốc gia” của quần chúng và các lực lượng lănh đạo công cuộc chống cộng ở hải ngọai cũng như trong nước. Do đó cần phải được chấn chính kịp thời,nếu chúng ta, những cá nhân hay đ̣an thể muốn chống cộng v́ dân chủ và chống cộng để thắng cộng, chứ không phải chống cộng để lấy tiếng, chống cộng mà chơi, chống cộng chỉ để cho vơi bớt thù hận, dù cộng sản thực tế quả đă gây và để lại quá nhiều thù hận trong ḷng mỗi người Việt chúng ta. Nhưng chúng ta không chống cộng v́ thù hận mà v́ ḷng yêu nước muốn đem lại những điều tốt đẹp cho Đất nước, cho tự do, dân chủ và hạnh phúc thật sự cho quốc dân Việt Nam thế hệ hiện tại cũng như tương lai, và cho sự trường tồn của Dân Tộc Việt.
Thiện Ư Houston, ngày 26 tháng 10 năm 2011. Hiệu đính ngày 26-10-2012 (E.M.)
|