Quê Hương
trong
nỗi
nhớ
Thiên Lư
Tôi
đang sống ở một thành phố nửa bên là núi, nửa bên là sa mạc. Bên phía núi
gần với tiểu bang Colorado, mùa đông có tuyết phủ trắng đường. Gió lạnh
đến tím môi,
đỏ bừng mặt mũi, ù cả hai tai. Bên phía sa mạc, ráp gianh với Arizona nhấp
nhô những ngọn đồi cát, thường có nắng khô gắt vào mùa hè nhưng
lại hiếm hoi những giọt mưa khi thời tiết sắp chuyển sang mùa xuân.
Đôi khi mây đen vần vũ kéo đến, sấm gầm rên trong ánh chớp, mưa vẫn ngập
ngừng chỉ rơi xuống vài giọt rả rích rồi lại ngưng. Người ta mong cho mưa
xuống để vùng đất cằn cỗi này mau đâm hoa, kết trái. Riêng tôi th́
chẳng thích mưa
chút nào, dù là những cơn mưa ngắn không đủ ướt đường xá…Bởi lẽ, mưa
thường làm tôi nhớ quê nhà ray rứt, nhớ nhiều kỷ niệm buồn của thời cơ cực
tối đen, lẫn vài chuyện vui đi qua trong kư
ức, thêm những điều xót xa hiện tại mà ḷng đau đến muốn khóc…
Ngày rời
Việt Nam, tôi mang một tâm trạng nửa buồn nửa vui. Tôi tưởng
chuyện nhớ quê hương chỉ là lư
thuyết trong sách vở. Nhưng
không, tôi đă nhớ
quê nhà ngay từ những ngày đầu đặt chân trên đất Mỹ. Chuyện nhớ bắt đầu từ
một vài âm thanh quen thuộc thường
ngày trong khu xóm lao động nghèo mà tôi vừa mới ra đi; như tiếng rao quà
ban đêm, tiếng trẻ chơi đùa ngoài ngơ.
Tiếng gà gáy sáng tinh mơ,
tiếng vơng đưa kẽo
kẹt buổi trưa của người hàng xóm ḥa với giọng ru con nghe buồn nẫu ruột:
“Ầu
ơ.. Gió đưa bụi
chuối sau hè
Anh mê vợ
bé bỏ bè con thơ…”
Rồi Tiếng ca cải
lương
trong vắt của con bé bán nước đầu hè vào những đêm trăng quán đông khách.
Tối tối, từ căn cḥi
ọp ẹp nằm phía sau nhà tôi là tiếng đàn bầu rung lên lạnh lẽo, những giai
điệu tỉ tê như
tâm sự buồn của chính người thương binh già đang gẩy nó. Chuyện nhớ c̣n
lẩn quẩn từ mùi vị khác lạ của thức ăn, từ những điều kiện văn minh hiện
đại trong đời sống mà tôi chưa
hề biết đến bao giờ. Tôi vẫn nhớ cái bếp than mỗi khi nấu ăn bằng bếp gas,
nhớ những lần giặt đồ bằng tay khi lúng túng trước cái máy giặt. Nhớ đến
manh chiếu mỏng khi nằm trên chiếc nệm êm. Nhớ chiếc quạt nan cầm tay suốt
ngày nóng nực khi ngồi dưới cái máy lạnh chạy êm mát. Điều tôi nhớ nhiều
hơn hết là những kỷ niệm với bạn bè, nhớ trường lớp, nhớ những đôi mắt trẻ
thơ trong sáng, nhớ nghề gơ
đầu trẻ ở Việt Nam lúc ḿnh đang đương đầu với công việc “rửa chén” cực
nhọc trên xứ người.
Nỗi
nhớ cứ ngày càng đầy ắp theo mỗi ḍng kỷ niệm chảy tràn trề trong trí năo.
Tôi nhớ đến mùa mưa
ở Sàig̣n, những cơn
mưa lớn như trút nước, đường phố ngập lụt tới đầu gối. Ngày ấy, cứ chiều
nào mà mưa ngập phố th́
tôi thường
phải nán lại trường với các bạn đồng nghiệp, để chờ nước rút xuống dưới
mắt cá chân mới đạp xe về nhà được. Cả một nhóm con gái độc thân gần mười
mấy đứa ngồi nh́n mưa
tán gẫu đủ mọi chuyện trên đời. Có khi chờ măi
mà nước
chưa chịu rút, chúng tôi rủ nhau đội mưa, lội nước đi ăn “cháo ḷng”
ở một quán ăn nhỏ gần trường. Lại có ngày, những anh chàng “ḅ vàng”
(công an) đi công vụ, bị mắc mưa “cố t́nh” ghé vào trường
tôi trú mưa để “tán tỉnh “ các cô giáo trẻ . Thuở đó, tôi rất ghét công
an, ḷng tôi có một
sự “kỳ thị” ra mặt. Theo tôi, họ cũng là những người
góp phần làm khổ cả miền nam, khổ cả gia đ́nh
tôi. Nếu họ không vào chiếm miền nam, th́ mẹ tôi đâu đă mất sớm, cha tôi
đâu phải đi tù. Anh và em trai tôi cũng không phải đi lao động, lăn lóc từ
nông trường này sang nông trường
khác. Để lại hậu quả cho anh trai tôi bịnh “cụp xương sống” sau mấy năm
miệt mài “ lao động vinh quang”, báo hại bà mẹ đau yếu phải đi nuôi anh
trong bệnh viện. Cứ thấy bản mặt họ là bao nhiêu điều đó lại hiện ra trong
đầu óc tôi làm bừng lên sự tức giận, tôi ghét công an, tôi hận bộ đội, tôi
chán ngán chế độ
...
Ngày ấy, vào mùa nắng cũng là những ngày rất vui. Trong sân
trường tôi dạo đó có một cây xoài to rất sai trái. Những trái xoài xanh
chưa kịp chín đă bị
chúng tôi “thanh toán” xuống hết để gọt ăn với nước mắm đường sau giờ tan
học. Thời tuổi trẻ sao mà vui thế! Niềm vui gắng gượng
khoả lấp bao nỗi nhọc nhằn và bất công trong cuộc sống lúc bấy giờ.
Ngày
ấy, tôi có một mối t́nh đơn phương rất buồn. Tôi yêu một người
đàn ông thất thế, nghèo xơ xác, lại lớn hơn tôi cả một thập niên rưỡi.
Trước năm 75, chàng là trung úy trực thăng của phi đoàn 245. Tôi gặp chàng
trong một chuyến đi thăm cha tôi về, c̣n
chàng th́ mới được thả sau 7 năm tù khổ nhục. Chúng tôi cùng đi chung một
chuyến xe lửa từ Biên Hoà về Sàig̣n. Tôi có cảm t́nh ngay với giọng bắc
trầm ấm cùng vẻ điềm đạm, trầm tĩnh của chàng. Thoạt đầu, t́nh cảm của tôi
chỉ là sự quí mến và đồng cảm xót xa cho số phận của một người lính. Ra
tù, chàng mất tất cả, nhà cửa, vợ con, người
mẹ già yêu quí, c̣n
mất luôn cả niềm tin vào cuộc sống. Rồi, dần dần qua sự tiếp xúc, tôi nhận
ra nhiều cá tính đặc biệt rất đáng phục ở nơi chàng. Tính nhẫn nại bền bỉ
vươn lên
từ nghịch cảnh khó khăn, tính kiên quyết với lập trường sống, cách cư xử
chân t́nh với bạn
bè, nét cương
nghị trong đôi mắt sáng ngời và một nụ cười thân thiện luôn nở rộng. Thời
đó, những cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hoà tuy nghèo mà ḷng
tự trọng rất cao, chàng cũng không phải là người
thích “gặm cỏ non”. Dưới mắt chàng, tôi chỉ là một cô em nhỏ, chưa hiểu
hết chuyện đời, nên không thể nào chia xẻ cùng chàng những cay đắng trong
cuộc đời đầy giông băo.
Sau đó, với sự quyết tâm chàng đă ra đi để t́m đến bến bờ tự do…
Ngày
ấy so với ngày nay, theo sự tiến hoá của văn minh thời đại, quê hương
ḿnh đă càng tuột
dốc hơn
cho dù có khoác lên một bộ mặt thay đổi hào nhoáng bên ngoài. Những người
tôi quen biết có dịp trở lại Việt Nam, ai cũng nói:
“Sài g̣n bây giờ
vui lắm, thay đổi rất nhiều, nhà cửa khang trang rộng lớn…” Nhưng
có mấy ai trong số nhiều người về thăm quê hương, nói hết được mặt trái
của sự thay da đổi thịt ở Sài g̣n,
là muôn h́nh vạn trạng những điều “trông thấy mà đau đớn ḷng”.
Có một
lần, tôi tham dự một buổi học nghiệp vụ về đề tài “Child Abuse”. Người
giảng viên đă đề
cập đến nhiều vấn đề gây tổn thương cho thể xác và tâm hồn trẻ thơ.
Đau xót đến nát ḷng
nhất, vẫn là vấn nạn “child sexual abuse”, “child sex tourism” lan tràn
ở các nước
nghèo vùng Đông Nam Á, nhiều nhất là ở Cambodia, Thái Lan, và những vùng
ven lân cận Việt Nam cũng đang bắt đầu. Nạn nhân phần lớn là trẻ em dưới
12 tuổi, nghe bà giảng viên nhắc đến Việt Nam, và hướng mắt về phiá tôi
hỏi một vài cảm nghĩ về chuyện này. Một nỗi tủi nhục, đau đớn xoáy vào
trái tim tôi nhức nhối. Thêm bao nhiêu đôi mắt của cả cử toạ trong hội
trường đổ dồn vào tôi chờ câu trả lời. Ai cũng biết tôi là người Việt Nam
duy nhất giữa cả trăm nhân viên của lớp nghiệp vụ chuyên ngành giáo dục
mầm non thuộc San Juan county này. Tôi càng như bị tê liệt v́
sự xấu hổ cho cái tệ nạn bạo hành trẻ khủng khiếp đang xảy ra vài nơi
trên đất nước Việt Nam khốn khổ. Trong sự hồi hộp lẫn nghẹn ngào phẫn
uất, tôi chỉ nói được một câu rằng:
“Tôi mong muốn với sức mạnh của những người
có ḷng yêu thương
trẻ trên toàn thế giới, sẽ hợp sức cùng nhau bằng mọi cách để bảo vệ và
ngăn chận t́nh
trạng buôn bán trẻ này…” Nói đến đó nước mắt tôi tự nhiên ứa ra, bởi tôi
cảm thấy quá bất lực ngay trong lời nói của ḿnh. Bởi, tôi biết chính phủ
cộng sản chẳng làm được ǵ cho trẻ thơ
nghèo hôm nay…
Ôi! đất
nước tôi, đất nước có
bốn
ngh́n năm văn hiến, trải qua bao nhiêu lịch sử oai hùng, đánh Tàu, đuổi
Pháp, nội chiến tuơng tàn. Cuối cùng, kẻ ác đă thắng người
hiền lương bằng sự bạo tàn, cướp cạn. Hậu quả của bao nhiêu năm xây dựng
hoà b́nh
trong tay kẻ ác là sự giàu có tăng lên gấp bội theo thời gian của những
nhà lănh đạo “tài ba”. Là sự phát triển rộng răi ăn chơi sa đọa thời mở
cửa, là sự suy đồi đạo đức một cách thảm hại… Dân nghèo khổ vẫn hoàn nghèo
khổ. Họa xâm lăng đă kề cận mà chính phủ vẫn làm ngơ,
c̣n
tàn nhẫn ra tay đánh gục những người dân yêu nước
đă hợp nhau lên
tiếng về chủ quyền cho quê hương
và đ̣i hỏi nhân
quyền cho con người.
Ôi! đất nước tôi, những điều “trông thấy mà đau đớn ḷng”
vẫn măi là điệp khúc buồn rạn nứt tâm can. Ôi, đất nước tôi:
“Bốn ngh́n năm ṛng ră buồn
vui,
khóc cười
theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi…”
*
Câu hát gắn liền với số phận đất nước
cứ làm nhói ḷng tôi trong nỗi
nhớ quê. Nh́n những hạt mưa
bay nhẹ ngoài song cửa, tôi mơ màng thấy một màu xanh kỳ diệu toả sáng
trên mảnh đất nhỏ bé cong cong h́nh
chữ S. Màu xanh của ruộng nương
tươi tốt, màu xanh đầy hy vọng trên những mầm non sắp ra lá. Màu xanh
thanh b́nh
êm ả, dân t́nh ấm no hạnh phúc. Màu xanh của một trời yêu thương
đẹp đẽ cho toàn trẻ thơ . Màu xanh của sự sống chân thành và nhân ái…Tuy
là mơ, tôi vẫn tin rằng có một ngày, màu xanh chính nghĩa sẽ làm mất đi
màu đỏ tham vọng của kẻ bạo tàn trên quê hương ḿnh.
Từ trong nỗi nhớ dày đặc, tôi muốn mơ măi những giấc mơ
đẹp về Việt Nam, để quên đi nỗi khổ đau của dân tộc ḿnh
trong phút chốc… Bỗng dưng
tôi thấy đầu nhức buốt, cảm giác chóng mặt bắt đầu hành hạ tôi. Những ḍng
chữ đang nhảy múa với sự choáng váng. Áp suất máu của tôi lại lên rồi,
chao ôi, quê hương
trong nỗi nhớ không chỉ làm nhức nhối con tim; mà c̣n
tổn hại đến bộ năo nữa!…Tôi phải dừng lại đây thôi, nhưng tôi sẽ tiếp tục
trải nỗi nhớ vào một ngày khác trên những
ước mơ xanh dưới
bầu trời Việt Nam bao la, bát ngát.
Thiên Lư
*
(Trích từ bài hát “T́nh
Ca” của Phạm Duy)