Khái niệm về DÂN CHỦ

 

Thế Việt

 

 

Dân chủ là một h́nh thức chính quyền, một lối sống, môt mục tiêu hay là một lư tưởng.  Dân chủ có nghiă là do người dân tự cai trị. Tổng Thống Mỹ Abraham Lincoln (1809-1865) mô tả chính quyền tự quản như thế, là ”chính quyền cuả dân, do dân, v́ dân (government of the people, by the people, for the people)”.

 

 

Tượng Nữ thần Tự do tại NewYork

 

 

Công dân của một nước dân chủ tham dự chính quyền một cách trực tiếp hay gián tiếp. Trong dân chủ trực tiếp hay dân chủ thuần túy (direct or pure democracy), người dân họp nhau ở một điạ điểm làm ra luật cho cộng đồng. H́nh thức dân chủ nầy được thực thi ở Nhă Điển (Athens) ngày xưa. Hầu hết dân chủ ngày nay là dân chủ đại diện (representative democracy). Trong những cộng đồng lớn như thành phố, tiểu bang, liên bang mọi người không thể nào gặp nhau hội họp, thảo luận, v́ thế họ phải bầu chọn một số công dân thay mặt họ để quyết định về luật lệ và những vấn đề có ảnh hưởng đến cộng đồng. H́nh thức nhóm họp cuả những người đại biểu được gọi là một hội đồng, một cơ quan lập pháp, một nghị viện hoặc một quốc hội.

 

Lối sống dân chủ nh́n nhận sự b́nh đẳng và nhân phẩm cuả tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, phái tính, điạ vị xă hội. Dân chủ đối xử mọi người công bằng truớc toà án và những vấn đề pháp lư khác. Dân chủ tôn trọng tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tôn giáo… Mục đích cuả xă hội dân chủ là bảo đảm cho mọi người có cơ hội phát triển đẩy đủ những khả năng cá nhân.

 

Trong thực tế, việc thực thi dân chủ thường không đạt đến mức độ toàn hảo. Một số quốc gia hoặc chính quyền được xếp hạng tùy theo khoảng cách với lư tưởng dân chủ. Hầu hết các chính quyền đều tuyên bố là dân chủ nhưng một số lại là toàn trị (totalitarian). Các quốc gia cộng sản c̣n lại ngày nay đều thi hành chính sách toàn trị, kiểm soát hầu hết những sinh hoạt của dân chúng.

 

Dân chủ, chế độ chính trị được h́nh thành từ thời cổ Hy Lạp vào khoảng 600 TCN. Từ ngữ dân chủ “democracy” theo nghiă Hy Lạp, “demos” là nhân dân (people) và “kratos” là chính quyền (authority). Xă hội cổ thời La Mă cũng kinh qua dân chủ. Cicero (106 TCN – 43 TCN), một nhà hoạt động chính trị La Mă cũng là một triết gia, một luật gia hùng biện đă nêu lên ư tưởng rằng con người có những quyền tự nhiên (natural rights) mà bất cứ quốc gia nào cũng phải tôn trọng.

 

Từ đó chế độ dân chủ ngày càng phát triển và có những h́nh thái khác nhau theo thời gian và không gian, tuy nhiên những đặc tính căn bản đều giống nhau trong những quốc gia dân chủ:

 

 NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA DÂN CHỦ

 

1/ Tự Do Bày Tỏ (Freedom of Expression). Công dân cuả một chế độ dân chủ chọn lựa người lảnh đạo là người đại diện thật sự cuả quần chúng và tạo ảnh hưởng đến chính sách của chính quyền từ điạ phương đến trung ương. V́ lư do nầy sự thảo luận và hiểu biết những vấn đề công ích là điều cần thiết. Nhằm khuyến khích sự trao đổi tư  tưởng, dân chủ phải bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp và thỉnh nguyện thư (petition).

 

Công dân cuả một chế độ dân chủ có nhiều cơ hội tạo nên một chính quyền thật sự đại diện cho ḿnh, nhất là cấp điạ phương. Trong xă hội dân chủ, chính quyền phải biết người dân cảm nhận như thế nào về những vấn đề công ích. Nếu có những hiểu lầm hoặc lập trường khác nhau, chính quyền phải giải thích, hoặc nếu muốn chuyển đổi ư kiến dân chúng phải thi hành bằng những phương cách giới hạn, vừa đủ. Chính quyền trong việc t́m kiếm bảo vệ ư kiến cuả ḿnh, phải luôn luôn tôn trọng quyền bày tỏ của người khác.

 

2/ Tự Do Bầu Cử. Tự do bầu cử cho người dân có cơ hội chọn lựa người lănh đạo và bày tỏ quan điểm cùa ḿnh về những vấn đề khác nhau. Những cuộc bầu cử được tổ chức định kỳ để bảo đảm những viên chức đắc cử là đại diện chân chính cuả nhân dân. Hầu hết các quốc gia dân chủ đều dành những điều kiện pháp lư giản dị cho tư cách cử tri và ứng cử viên, thường chỉ gồm các hạng mục: mức tuổi, t́nh trạng cư trú, quyền công dân. Tự do bầu cử được nh́n nhận trong những điều kiện người dân bầu phiếu trong những pḥng kín, không có cưỡng ép hoặc mua chuộc và kết quả bầu cử đă được bảo vệ chống lại sự gian trá, bất lương.

 

3/ Qui Tắc Đa Số và Quyền Thiểu Số (Majority Rule and Minority Rights). Những quyết định trong một xă hội dân chủ được lập nên do nguyên tắc đa số. Tuy nhiên, những quốc gia dân chủ luôn bảo đảm một số quyền cuả người dân không bao giờ bị tước đoạt, ngay cả khi bị chế ngự bởi tuyệt đại đa số (extremely large majority). Những quyền nầy gồm có những quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do thờ phượng tôn giáo. Đa số buộc phải lắng nghe những quan điểm cuả thiểu số. Đa số cũng phải chấp nhận quyền cuả thiểu số tích cực hoạt động bằng những phương tiện hợp pháp để chiếm vị trí đa số

 

4/ Đảng Chính Trị. Đảng chính trị là yếu tố tối cần thiết trong một chế độ dân chủ. Những đảng đối lập làm cho các cuộc bầu cử có đầy đủ ư nghiă v́ cử tri dễ dàng chọn lựa những ứng cử viên đại diện những quyền lợi và chính kiến khác nhau. Thông thường các đảng chính trị có quyền lợi và khuynh hướng chính trị không quá khác biệt, cố gắng liên kết với nhau để mưu t́m chiến thắng trong cuộc tranh cử. Nước Mỹ và nước Anh có hệ thống lưỡng đảng đáp úng với nhu cầu kết hợp những quyền lợi khác nhau.

 

Trong những quốc gia dân chủ, đảng hoặc những đảng không nắm chính quyền thuờng giữ vai tṛ đối lập để phê phán chính sách và việc làm cuả đảng đang cầm quyền. Bằng cách nầy, đảng đang cầm quyền được nhắc nhở điều chỉnh hoạt động và chịu trách nhiệm với dân chúng. Trong chế độ toàn trị, chỉ có một đảng chính quyền được tồn tại, sự phê  phán đảng cầm quyền bị kết tội phản loạn. Bầu cử trong chế độ toàn trị chỉ làm chiếu lệ, tượng trưng, dân chúng không có cơ hội chọn lựa ứng cử viên mong muốn và cũng không được phép bày tỏ sự bất măn với chính quyền.

 

5/ Phân Quyền. Điều quan trọng trong xă hội dân chủ là phân chia và phân phối quyền lực chính trị một cách đồng đều. Những thế chế dân chủ đều có những cách thức sắp đặt khác nhau để tránh một cá nhân hay một ngành nào cuả chính quyền có quyền lực áp đảo. Thí dụ hiến pháp Hiệp Chúng Quốc phân chia quyền chính trị giữa chính quyển tiểu bang và chính quyền liên bang. Một số quyền chỉ thuộc tiểu bang, một số quyền chỉ thuộc chính phủ liên bang và một số quyền đuợc phân định cho cả tiểu bang và liên bang.

 

Ngoài ra hiến pháp Mỹ cũng thiết lập một chính quyền trung ương cân đối bằng cách phân chia quyền lực giữa ba ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp độc lập với nhau. Ngành hành pháp thi hành luật pháp với Tổng Thống là đại diện chính quyền trung ương, ngành lập pháp tập trung tại Quốc Hội và làm ra luật pháp, ngành tư pháp giải thích luật pháp với Tối Cao Pháp Viện là toà án liên bang có thẩm quyền trên hết. Một người chỉ được phép phục vụ một ngành cuả chính quyền mà thôi trong cùng một thời gian. Quyền lực cuả mỗi ngành được qui định để kiểm tra hay cân bằng với quyền lực cuả ngành khác. Những quyền không được hiến pháp hoặc hiến chương xác nhận giao cho chính quyền, thường được dành riêng cho công dân.

 

6/ Chính Quyền Hiến Định (Constitutional Government). Chính quyền hiến định là chính quyền đặt căn bản trên luật pháp. Hiến pháp qui định thẩm quyền và trách nhiệm cuả chính quyền, giới hạn những điều chính quyền được phép làm. Hiến pháp cũng nói đến luật pháp được thực thi và cưỡng hành như thế nào. Hầu hết các hiến pháp cũng bao gồm một luật chi tiết về các quyền gọi là Tuyên Ngôn Nhân Quyền (Bill of  Rights) mô tả các quyền tự do căn bản cuả nhân dân và ngăn cấm chính quyền vi phạm những quyền nầy.

 

Hiến pháp nước Mỹ và hầu hết các quốc gia trên thế giới, là một văn kiện chữ viết (written constitution). Hiến pháp nước Anh không viết thành văn bản mà chỉ gồm một số luật do Nghị Viện (Parliament) đă thông qua.

 

7/ Những Tổ Chức Tư Nhân (Private Organizations). Trong chế độ dân chủ, cá nhân và những tổ chức tư nhân điều khiển nhiều hoạt động kinh tế và xă hội không thuộc quyền kiểm soát cuả chính quyền. Thí dụ: nhật báo, tuần báo, đặc san … do tư nhân làm chủ và điều hành. Nghiệp đoàn hoạt động bênh vực quyền lợi cho người lao động chứ không v́ nhà nước. Chính quyền dân chủ không can thiệp vào việc thờ phượng tôn giáo. Những trường tư thục mở lớp song song với các trường công lập. Trong xă hội dân chủ hầu hết các hoạt động thương măi đều do tư nhân sở hữu và điều hành.

 

Trong xă hội toàn trị, duy chỉ chính quyền làm chủ, kiểm soát tất cả những hiệp hôị, người dân không được thành lập hoặc gia nhập một nhóm nào nếu không có phép cuả chính quyền.

 

 

PHẢI CÓ DÂN CHỦ

 

1/ Bảo Vệ Nhân Quyền. Dân chủ nhằm bảo vệ tự do cá nhân và thăng tiến sự b́nh đẳng. Tuyên Ngôn Độc Lập cuả Hiệp Chúng Quốc (The U.S. Declaration of Independence)  bày tỏ niềm tin rằng “tất cả mọi người sinh ra b́nh đẳng, họ được Tạo Hoá (Creator) ban tặng những quyền hạn không thể chuyển nhượng như là Đời Sống, Tự Do và mưu cầu Hạnh Phúc. Tuyên ngôn cũng nói thêm rằng nhân dân có thể thay đổi hoặc xoá bỏ chính quyền nếu chính quyền cản trở những quyền nầy.

 

Lịch sử đă minh chứng một khi người dân nghĩ rằng những cản trở to lớn đối với tự do cá nhân và sự b́nh đẳng v́ lư do chính trị th́ công việc đơn giản là phải thay đổi chính quyền từ thể chế “vương quyền” sang chế độ cộng hoà, dân chủ. Trong những quốc gia dân chủ hiện nay, chính quyền giữ vai tṛ tích cực nhằm băi bỏ những bất b́nh đẳng đồng thời thăng tiến các quyền tự do cho toàn dân. Các quốc gia dân chủ đều có những chương tŕnh cung cấp an ninh kinh tế, giảm nghèo, và phát triển tiềm năng nhân lực bao gồm bảo hiểm thất nghiệp, qui định mức lương tối thiểu, hưu bổng, bảo hiểm sức khoẻ, luật dân quyền, trợ cấp giáo dục. Nhiều nước dân chủ cũng có mục tiêu cung cấp cho dân chúng một đởi sống căn bản và bảo hiểm y tế đáp ứng nhu cầu

 

2/ Bảo Đảm Hoà B́nh Trong Những Chuyển Biến. Những người có tư tưởng dân chủ tin rằng những tiến tŕnh làm chuyển biến xă hội bằng bạo lực cách mạng là không cần thiết. Họ khẳng định rằng dân chủ phải đáp ứng những ḍi hỏi chính đáng cuả người dân một cách hữu hiệu hơn bất cứ một h́nh thức chính quyền nào khác. Những người ủng hộ dân chủ muốn nhắc đến những biến chuyển kinh tế, xă hội tại Hoa Kỳ và Anh Quốc trong những năm đầu thế kỷ 20 đă xảy ra một cách hoà b́nh trong khung cảnh những định chế chính trị thời bấy giờ. Đối với những lănh đạo chính trị, dân chủ cũng tạo ra sự chuyển đổi và tiếp nối một cách trật tự. Những hiến pháp dân chủ đều qui định những cuộc tự do bầu cử định kỳ và dự liệu những thủ tục kế thừa trong trường hợp người lănh đạo chính quyền tử vong hoặc không c̣n đủ năng lực thi hành nhiệm vụ.

 

 

THỰC THI DÂN CHỦ

 

1/ Sự Tham Gia cuả Người Dân. Nền dân chủ đ̣i hỏi sự tham gia rộng răi cuà người dân trong sinh hoạt chính trị. Đấy là bổn phận cuả tất cả công dân trưởng thành đi bầu phiếu trong các cuộc tuyển cử tại điạ phương, tiểu bang, liên bang. Những cá nhân có đủ điều kiện hợp lệ nên ra tranh cử vào những chức vụ công cử, phục vụ trong hội thẩm đoàn (juries), góp phần vào an sinh xă hội với tất cả khả năng. Người công dân cũng nên dự phần hướng dẫn dư luận bằng cách nêu lên những đề tài quan trọng và giúp đỡ chọn lựa những chính đảng tốt. Một công dân tích cực là một người năng động chống tham nhũng và chống chính quyền không đủ năng lực.

 

 2/ Giáo Dục và Dân Chủ. Sự tham gia chính trị rộng khắp chưa hẳn là điều cần thiết bảo đảm một chính quyền tốt. Phẩm chất cuả chính quyền lệ thuộc vào phẩm chất cuả sự tham gia. Những người công dân với đầy đủ kiến thức và học vấn mới có đủ khả năng đóng góp chính quyền một cách thông minh. Lịch sử chứng tỏ rằng dân chủ thường thành công trong những quốc gia có nền giáo dục tốt và dân chúng có nhiều cơ hội về học vấn. Với lư do nầy, những chính quyền dân chủ thường yểm trợ mạnh mẽ sự giáo dục cho toàn dân.

 

Nền dân chủ cần đến những công dân có học vấn v́ họ có thể chia sẻ những vấn đề công ích, hiểu biết những vấn đề cuả quần chúng và bầu phiếu đúng theo nhu cầu. Từ đó, định chế dân chủ tạo  nên những nhà cầm quyền có đủ khả năng thi hành trách nhiệm và được nhân dân tin tưởng.

 

Trong xă hội kỹ nghệ hiện đại, hầu hết mọi người đều có những kiến thức khoa học, kỹ thuật để hiểu biết, phán xét những vấn đề cuả chính quyền, ngoại trừ một số ít cử tri quá bận rộn không  có đủ thời giờ hoặc thiếu những hiểu biết sâu xa chuyên ngành về những đề mục vượt quá tầm cỡ.  Tuy nhiên, ngay cả những viên chức đắc cử cũng cần đến những chuyên gia góp ư, giúp đỡ. Do đó, nhiệm vụ cuả cử tri trong tầm giới hạn quyết định những chính sách và phương hướng. Cử tri chuyển những  quan điểm cuả họ đến những đại biểu bằng cách bầu phiếu những ứng viên  cùng chung một ḍng suy nghĩ và được họ tin cậy.

 

 3/ Dân Chủ và Phát Triển Kinh Tế. Lịch sử đă chứng minh rằng dân chủ là cơ hội tốt nhất để thành công trong những quốc gia ổn định, đang phát triển và sự giàu nghèo không quá chênh lệch. Một số học giả cho rằng dân chủ phát triển thích hợp trong những quốc gia thành phần trung lưu chiếm đa số.

 

Nhiều quốc gia dân chủ bị sụp đổ trong thời kỳ kinh tế suy thoái trầm trọng. Khi số đông dân chúng không t́m được việc làm, họ thường ủng hộ những nhóm lật đô chính quyền. Một quốc gia đang bị nạn đói hoành hành, thực phẩm cúu trợ quan trọng hơn là quyền bầu cử và những quyền năng chính trị khác.

 

4/ Chuyển Đổi Giai Cấp. Điều cốt yếu cuả dân chủ là sự chuyển biến cuả con người hoặc cuả nhóm người từ giai cấp nầy qua giai cấp khác. Mỗi người đều có cơ hội hoàn toàn b́nh đẳng để gia tăng lợi tức, thăng tiến nghề nghiệp, nâng cao điạ vị xă hội. Xă hội với một hệ thống giai cấp chặc chẽ không cung cấp cơ hội cho cá nhân thăng tiến là phản dân chủ. Một quốc gia dân chủ không có bất cứ sự hạn chế nào đối với cá nhân v́ lư do chủng tộc, tôn giáo, giai cấp xă hội. 

 

 5/ Đồng Thuận trên Những Nền Tảng (Agreement on Fundamentals). Đây là vấn đề trọng yếu cuả dân chủ. Đa số dân chúng trong một chế độ dân chủ phải tin vào phẩm giá căn bản và sự b́nh đẳng cuả tất cả mọi người. Mặc dù dân chủ nhấn mạnh đến sự quan trọng cuả cá nhân, tuy nhiên người công dân phải đặt sự an nguy cuả đất nước trên quyền lợi riêng tư cuả mỗi người. Người dân cũng phải thuận thảo tổng quát những muc tiêu cuả chính quyền. Họ phải phân tách, t́m kiếm cách tốt nhất để thành đạt các mục tiêu. Nếu những mục tiêu, chính nó không trong sáng, nền móng dân chủ sẽ không vững chắc.    

 

 

DIỄN TIẾN PHÁT TRIỂN DÂN CHỦ

 

 1/ Nguồn Gốc Dân Chủ. Dân chủ bắt đầu khai sinh từ Hy Lạp cổ thời, vào khoảng 600 năm TCN. Từ ngữdemocracy (dân chủ) phát sinh từ tiếng Hy Lạp demos có nghiă là nhân dân và kratos có nghiă là cai trị hoặc chính quyền. Những nhà tư tưởng chính trị (political thinkers) Hy Lạp nhấn mạnh đến ư nghiă cai trị bằng luật pháp. Họ chỉ trích chế độ độc tài như là h́nh thức chính quyền tồi tệ nhất. Nhă Điển (Athens) và một số đô thị khác cuả Hy Lạp đă có chính quyền dân chủ ngay từ thời bấy giờ.

 

Dân chủ ngày xưa tại Nhă Điển là dân chủ trực tiếp khác với cung cách dân chủ ngày nay là dân chủ đại diện. Mỗi nam công dân có bổn phận phục vụ thường xuyên trong quốc hội để thông qua luật lệ và quyết định tất cả những chính sách quan trọng cuả chính phủ, tuy nhiên không có sự phân chia giữa hai ngành lập pháp và hành pháp trong chính quyền. Những người nô lệ chiếm một phần lớn dân số cuả Nhă Điển đều phài làm việc. Nô lệ và phụ nữ không được bầu phiếu.

Người La Mă cổ thời cũng kinh qua dân chủ nhưng thực hiện khác với cư dân Nhă Điển. Những nhà  tư tưởng chính trị La Mă chỉ dạy rằng quyền lực chính trị phát xuất từ sự đồng thuận cuả dân chúng. Chính trị gia La Mă Cicero nêu lên ư tưởng rằng con người có những quyền tự nhiên mà tất cả chính quyền đều phải tôn trọng.

 

 2/ Thời Trung Cổ. Cơ Đốc Giáo dạy rằng tất cả mọi người đều b́nh đẳng trước Thượng Đế. Lời giáo huấn nầy làm gia tăng lư tưởng dân chủ coi mọi người đều là huynh đệ. Cơ Đốc Giáo cũng khai mở thêm tư tưởng rằng tín đồ Cơ  Đốc Giáo là công dân cuả hai vương quốc: vương quốc cuả  Thiên Chuá và vương quốc cuả trần gian. Điều nầy giải thích rằng không một quốc gia nào đ̣i hỏi người dân phải trung thành tuyệt đối, v́ lẽ người dân cũng phải tuân phục Thượng Đế và những Điều Răn Dạy. Trong suốt thời Trung Cổ (400-1500), sự tranh chấp giữa hai sự trung thành nầy là cơ hội t́m thấy nền tảng cho chính quyền dựa trên hiến pháp.

 

 3/Thời Phục Hưng và Thời  Cải Cách (the Renaissance and the Reformation). Cuộc bùng nổ lớn về văn hoá được gọi là Thời Phục Hưng trải khắp Âu Châu trong suốt những thế kỷ 1300’s, 1400’s, 1500’s. Một tinh thần mới về tư tưởng cá nhân và độc lập được phát triển mạnh, ành hường đến tư duy chính trị và thúc đẩy dân chủ. Con người bắt đầu đ̣i hỏi tự do hơn nữa về tất cả những lĩnh vực trong đời sống.

 

Sự chuyển hướng mới mẻ cuả tư tưởng cá nhân độc lập được thể hiện trong giáo phái Tin Lành. Sự cải cách nhấn mạnh đến sự quan trọng cuả lương tâm cá nhân. Trong suốt thế kỷ 1500’s, cả Thiên Chuá Giáo (Catholics) và Tin Lành (Protestants) đều binh vực quyền chống lại nền quân chủ chuyên chế. Cả hai tôn giáo đều lư luận rằng quyền lực chính trị cuả những kẻ cầm quyển trên thế gian (political power of earthly rulers) phát sinh từ sự thoả thuận cuả con người.

 

 4/ Dân Chủ ở Nước Anh. Năm 1215, quí tộc Anh ép buộc Vua John chấp thuận Bản Đại Hiến Chương (Magna Carta). Tài liệu lịch sử nầy là biểu tượng tự do cuả nhân loại được dùng để hổ trợ cho những đ̣i hỏi việc xét xử trước toà án với bồi thẩm đoàn, chống lại việc bắt giam vi luật (unlawfull arrest) và không đóng thuế nếu không có đại diện.

 

Nền dân chủ Anh Quốc phát triển chậm chạp trải dài hơn bốn trăm năm tiếp theo. Năm 1628, Quốc Hội thông qua Thỉnh Nguyện Quyền (Petition of Right). Bản thỉnh nguyện đạo đạt lên Vua Charles I xin ngưng thu thuế v́ không có sự đồng ư cuả Quốc Hội, đồng thời yêu cầu Quốc Hội nên họp định kỳ. Vua Charles không chấp thuận sự giới hạn vương quyền và nội chiến bùng nổ năm 1642. Tín đồ Thanh Giáo (Puritans) do Oliver Cromwell lănh đạo đánh bại phe bảo hoàng và Vua Charles bị chém đầu năm 1649.

 

Cuối cùng, cuộc cách mạng ở nước Anh năm 1688 thiết lập thẩm quyền tối cao dành cho Quốc Hội. John Locke, một triết gia cuả cuộc cách mạng tuyên bố rằng quyền hạn trên hết cuả những vấn đề chính trị thuộc về nhân dân và mục tiêu chính cuả chính quyền là bảo vệ đời sống, tự do và tài sản cuả người dân. Quốc Hội thông qua Tuyên Ngôn Nhân Quyền năm 1689, bảo đảm những quyền dân sự căn bản.

 

Tuy nhiên t́nh trạng dân chủ vẫn c̣n phôi thai. Một số thành phố kỹ nghệ lớn không có đại diện trong Quốc Hội măi đến sau khi ban hành Luật Cải Cách (Reform Bill) năm 1832. Định mức tài sản cho viêc bầu phiếu dần dần tan biến. Đến năm 1918, lần đầu tiên tất cả nam công dân được phép đi bầu và măi đến 1928 bầu phiếu nới rộng đến tất cả nữ cử tri.

 

5/ Những Đóng Góp cuả Người Pháp đối với Dân Chủ. Những đóng góp cuả người Pháp đối với dân chủ được thể hiện trong những năm cuả thế kỷ 1700’s, xuất phát từ những tư tưởng chính trị cuả  Montesquieu, Voltaire, và Jean Jacques Rousseau. Những bài viết cuả họ làm bùng lên cuộc Cách  Mạng Pháp bắt  đầu năm 1789. Montesquieu lư luận rằng tự do chính trị đ̣i hỏi phân cách riêng biệt ba ngành hành pháp, lập pháp, tư pháp. Voltaire hô hào chống lại chính quyền xâm nhập vào quyền lợi cá nhân và sự tự do. Rousseau tuyên bố trong tác phẩm Khế Ước Xă Hội (The Social Contract) năm 1762, rằng “người dân có bổn phận chỉ tuân theo những quyền lực hợp pháp (people have a duty to obey only legitimate powers)”. Ông cũng nói thêm rằng những nhà cầm quyền đứng đắn chính là những người được dân chúng tự do chọn lựa.

 

 

Cung điện Bastille tại Paris

 

 

Cuộc Cách Mạng Pháp, một biến cố quan trọng trong lịch sử dân chủ, làm thăng tiến những tư tưởng về tự do và b́nh đẳng, tuy rằng chưa biến đồi nước Pháp thành một quốc gia dân chủ nhưng cũng ngăn cản, hạn chế những quyền lực cuả vương triều.

 

6/ Dân Chủ Mỹ Quốc. Nền dân chủ nuớc Mỹ bắt nguồn từ những truyền thống do những người Anh di dân đầu tiên mang đến vùng Bắc nuớc Mỹ. Những người đi t́m vùng đất hứa (Pilgrims) để tránh sự xung đột tôn giáo tại quê nhà, định cư lập nghiệp tại Massachusetts năm 1620, họp nhau kư kết Khế Ước Mayflower (Mayflower Compact) nhằm tuân chỉ “luật công bằng và b́nh đẳng ( just and equal laws)”. Hơn 150 năm tiếp theo, cuộc Cách Mạng Mỹ (American Revolution) bắt đầu vào năm 1775. Những nguời di dân muốn tự trị và không muốn bị đóng thuế nếu không có đại diện. Tuyên Ngôn Độc Lập (The Declaration of Independence) được Quốc Hội Lục Điạ (Continental Congress) công bố năm 1776, là một tài liệu cổ điển về dân chủ, xây dựng nhân quyền như là một lư tưởng mà chính quyền phải noi theo.

 

Hầu hết những Quốc Phụ (Founding Fathers) thời bấy giờ không tin vào thể chế dân chủ trực tiếp kiểu Nhă Điển v́ họ nghĩ rằng giao quyền cho dân chúng nhiều quá sẽ trở thành hỗn loạn và họ muốn thành lập chính thể cộng hoà. V́ lư do nầy, những người viết Hiến Pháp Mỹ tạo nên hệ thống phân quyền giữa liên bang và tiểu bang. Họ cũng phân chia quyền lực thành các ngành lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ngoài ra Tổng Thống không phải bầu trực tiếp mà bầu qua cử tri đoàn.

 

Sau khi trở thành Tổng Thống Hiệp Chúng Quốc năm 1801, Thomas Jefferson đă tuyên bố rằng việc ông đắc cử là một cuộc cách mạng. Năm 1828, cuộc bầu cử Tổng Thống Andrew Jackson đẩy mạnh nền dân chủ Mỹ tiến xa hơn nữa. Tinh thần khai phá cuả những di dân tiến về Miền Tây lập nghiệp, thúc đẩy ḷng tự tin, thăng tiến tự do cá nhân, và gia tăng đồng đều cơ hội.

 

Khuynh hướng trường kỳ cuả Hiệp Chúng Quốc là làm cho tất cả công dân Mỹ trưởng thành đều có quyền bầu cử. Năm 1850, những nam công dân da  trắng trong các tiểu bang đều được bầu cử. Tu Chính Án thứ 15 ban hành năm 1870 cho đàn ông da đen quyền đầu phiếu. Năm 1920, Tu Chính Án thứ 19 cho phụ nữ quyền bầu cử.

 

7/ Dân Chủ Phát Triển và Trở Ngại. Dân chủ tiếp tục phát triển trong những năm cuả thế kỷ 1800’s tại những quốc gia theo gương nước Anh và nuớc Mỹ. Những định chế chính trị như là tuyển cử, lập pháp trở nên phổ biến. Các Vua vẫn trị v́ nhưng họ mất nhiều quyền lực và thi hành những nhiệm vụ có thính cách nghi thức.

 

Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ (Industrial Revolution) làm cho những thay đổi chính trị trở nên vô cùng quan trọng. Trong hậu bán thế kỷ 1800’s, giai cấp lao động đă đ̣i hỏi và nhận được những quyền lực chính trị nhiều hơn. Những luật lệ mới đem đến người dân quyền bầu cử. Những tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, tôn giáo, được mở rộng và lan tràn khắp nơi.

 

Tuy nhiên dân chủ cũng gặp trở ngại tại môt số lănh thổ. Một số quốc gia sau khi mô phỏng mẫu mực hiến pháp Mỹ, lại trở nên toàn trị. Từ hiện tượng nầy, nhiều người nghĩ rằng chỉ với bản Hiến Pháp không đủ bảo đảm một xă hội yên vui trong một chế độ dân chủ. Tại Nga, một nhóm nổi loạn lập nên chính quyền độc tài cộng sản năm 1917, chận đứng tiến tŕnh dân chủ. Nước Đức tuy đă h́nh thành được nền tảng dân chủ năm 1919, nhưng sau đó Adolf Hitler lại vùng lên nắm chính quyền dựng nên chế độ độc tài phát xít năm 1933.

 

Tất cả các nước trên thế giới hiện nay đều tự nhận là dân chủ, tuy nhiên những quyền tự do căn bản cuả một chế độ dân chủ vẫn bị hạn chế, lạm dụng tại một số quốc gia. Truớc đây, khi khối cộng sản đệ tam quốc tế chưa tan vỡ, hằng ngày từ MạcTư Khoa đến Bắc Kinh, Hà Nội đều lớn tiếng bênh vực một thể chế dân chủ nhân dân (people’s democracy). Ngày nay, trong thế yếu với năm quốc gia c̣n lại, liên kết lỏng lẻo gồm Trung cộng, Việt Nam, Bắc Hàn, Cu Ba, Lào, vẫn tiếp tục làm lệch hướng, bẻ cong những nguyên tắc dân chủ. Tại các quốc gia cộng sản nầy, đảng cộng sản là tồ chức chính trị duy nhất lănh đạo đất nước, nắm trong tay ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Chính quyền cộng sản ngăn cấm các quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tù đày, giết chết những người chỉ trích những hành vi sai trái, tham nhũng cuả đảng cộng sản và nhà nuớc xă hội chủ nghiă.

 

+

—o—0—O—0—o—

 

Trải qua nhiều thế kỷ tranh đấu quả cảm và chấp nhận hy sinh, người dân tại các quốc gia Anh, Pháp, Mỹ, đă tạo được một mẫu mực chính quyển phù hợp với công đạo cuả nhân loại: Dân Chủ. Qua thời gian, thể chế dân chủ được bồi đắp, hoàn chỉnh từ lư thuyết đến thực hành, đuợc dân chúng khắp nơi hoan nghênh tiếp nhận để tạo lập một đời sống xứng đáng với nhân phẩm.

 

Tại Việt Nam từ đầu thế kỷ 20, một số sĩ phu t́m đường cứu nước đă đến Nhật Bản, Trung Hoa Dân Quốc, Pháp Quốc, nghiên cứu, học hỏi nề nếp sinh hoạt và lư thuyết dân chủ. Các bậc tiền bối đă nhận thấy rằng dân chủ là cơ hội nhằm khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, gây dựng sức mạnh lâu dài cho dân tộc dành lại độc lập từ thực dân Pháp và xây dựng một nước Việt Nam văn minh, giàu mạnh. Cuộc khởi nghiă Yên Bái năm 1930 là biểu tượng truyền thống dũng luợc cuả dân tộc từ lớp thanh niên nhiệt huyết, noi theo các cuộc cách mạng dân chủ Anh, Pháp.

 

Cũng vào đầu thập niên 1920, một thanh niên học vấn vài năm trung học, kiến văn non kém, không nghe lời khuyên bảo cuả những nhà cách mạng uyên bác và kinh nghiệm, lạc lối vào mê hồn trận cuả đệ tam quốc tế. Anh ta gia nhập đảng cộng sản và đuợc Mạc Tư Khoa huấn luyện thành một cán bộ hoạt động khu vực Đông Nam Á. Người thanh niên ấy có tên khai sanh Nguyễn sinh Cung sau đổi thành Hồ chí Minh – kẻ sáng lập đảng cộng sản Việt Nam – được đệ tam quốc tế nhồi nhét “bạo lực cách mạng vô sản”, trở nên một cuồng nhân mất trí, dồn dập gây ra nhiều tai hoạ khốc liệt cho toàn khối dân tộc từ 1945 măi đến ngày nay vẫn c̣n tiếp diễn.

 

Dân tộc Việt Nam đang trước vực thẳm diệt vong do tham vọng bành trướng cố hữu cuả Hán tộc  hướng về Đông Nam Á. Từ một kẻ thù truyền kiếp cuả dân tộc, Trung cộng trở thành một đồng minh, một “đối tác chiến lược môi hở răng lạnh”, một người anh cả đầy quyền uy cuả đảng cộng sản Việt Nam. Việt cộng hiện nguyên h́nh một thế lực gian ác như một bầy rắn độc quấn quanh một lọ cổ qúi, sẵn sàng đập vở báu vật nếu bị xua đuổi. Dân chúng và những nhà tranh đấu quốc nội, hải ngoại hiện nay đều dùng lư tưởng dân chủ, nhân quyền để giải quyết vấn đề sống c̣n cuả dân tộc.  Công cuộc vận động dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam đuợc sự hổ trợ cuả hầu hết các quốc gia trên thế giới, tuy nhiên loài thú ḅ sát có nọc độc (CSVN) vẫn ngoan cổ ôm giữ cả một giang sơn hoa gấm làm con tin, bao che quyền lợi riêng tư của đảng buôn dân, bán nuớc:  Cộng sản VN.

 

Dân chủ được xem là giải pháp thích hợp nhất cho vấn đề Việt Nam hiện tại.  Những khó khăn trên đường xây dựng một nước Việt Nam dân chủ, cường thịnh và trường tồn sẽ được giải toả khi tất cả những con người, những tổ chức chống cộng đều trân qúi trên hết bốn ngh́n năm lịch sử dân tộc, thật sự yêu nước, thật sự đoàn kết và chấp nhận hy sinh.

 

Thế Việt

 

 

 

Trang Chính     Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Phỏng Vấn     Văn Học Nghệ Thuật     Tham Khảo