Nửa Thế Kỷ Việt Nam

 

 

 

  

CHƯƠNG II

Cải Cách Ruộng Đất

 

 

Biến cố lịch sử trọng đại: cuộc chiến tranh Việt Pháp (1946 - 54) kết thúc đă không được đảng Lao động (tiền thân đảng CSVN) loan báo như một tin mừng mà chỉ cho người dân biết, “từ nay đồng bào không sợ máy bay Pháp ném bom, bắn phá nữa, mọi người đi ra đường có thể mặc áo trắng, đội nón lá. Chiến tranh đă chấm dứt...”

 

Hiệp định Genève kư kết ngày 20.7.1954 không được công bố. Thời hạn 300 ngày được tự do di cư đổi vùng - từ ngày 20.7.1954 đến 30.10.1955 – người dân Nghệ - Tĩnh- B́nh hoàn toàn không ai hay biết. Mọi khẩu hiệu tập trung vào phong trào giảm tô và CCRĐ. Người ta xầm x́ truyền miệng lén lút về việc di cư vào Nam. Một linh muc dẫn một nhóm giáo dân từ xứ đạo Thượng B́nh (Hương Khê, Hà Tĩnh) vào tới Quảng B́nh, bị bắt về đem ra đấu tố.

 

**

 

Cho tới nay đă có nhiều người viết về cuộc thanh trừng rùng rợn này tại các vùng nông thôn, chủ yếu từ phía bắc vĩ tuyến 17 đến các tỉnh thuộc miền đồng bằng và trung du Bắc bộ.


Cuộc CCRĐ khởi đầu từ khi HCM kư 2 sắc luật Giảm Tô số 78/SL ngày 14/7/1949, và Sắc Luật 42/SL ngày 1/7/1951 về chính sách nông nghiệp của chính quyền kháng chiến.

 

Theo GS Trần Gia Phụng, năm 1953-54 đảng CS ban hành chủ trương “Phóng tay phát động phong trào truy tô. Phong trào truy tô ráo riết tới năm 1955, tiếp đến là phong trào cải cách ruộng đất”.

 

Tại hai tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, sau chiến dịch Trung Lào năm 1950-1953, năm 1951 Việt Minh cho lập Ban Kiến điền và Ban Thu thuế, quy định thuế nông nghiệp theo chủ trương mới, tận thu trên từng thửa ruộng do cán bộ phỏng chừng, ước định và nông dân b́nh năng xuất. Trên lư thuyết quy định mỗi hộ phải nạp 20% lúa khô khén, nhưng thực tế sản lượng lúa thu hoạch được không đủ để đóng thuế, khiến thành phần có ruộng canh tác từ Trung nông trở lên khánh kiệt, lâm vào t́nh trạng đói thiếu. Từng gia đ́nh sau mùa gặt tập trung công sức vào việc phơi khô, sảy sạch thóc, thuê người gánh đi nạp thuế, từ đó trong nhà không c̣n thóc gạo, vài ba tháng sau ăn độn, những tháng tiếp theo là khoai sắn canh rau.

 

Chính sách thu thuế nông nghiệp ban hành năm 1947, quy định thu 27 kg lúa khô khén, sảy sạch đồng đều trên mỗi sào ruộng (dù ruộng tốt hay xấu) do bất cứ thành phần nào (không phân biệt địa chủ, phú nông hay bần cố nông) canh tác.

 

Với chủ trương người dân có bao nhiêu, nhà nước “tạm thu” bấy nhiêu, nghĩa là lấy hết, lấy sạch, do đó xẩy ra hiện tượng có những người ŕnh rập tới giờ nấu ăn, chạy thẳng vào nhà bếp người khác, mở nắp vung nồi ra kiểm tra. Nếu thấy chủ nhà nấu cơm tức là nhà này c̣n giấu lại thóc gạo, liền đi báo cáo cho nhà chức trách. Chủ nhà sau đó bị gọi lên làm việc” tra khảo... T́nh trạng đó làm cho giềng mối, t́nh nghĩa cḥm xóm dần dà tan ră.

 

Giới địa chủ không c̣n đủ thóc lúa đóng thuế nên giao hẳn ruộng đất cho nông dân tự cày cấy, thu hoạch, đóng thuế, địa chủ không thu tô, nhưng nông dân không nhận. Địa chủ, phú nông lâm vào cảnh cùng kiệt nên làm giấy cúng hiến ruộng đất cho nhà nước, nhưng chính quyền từ chối. Do đó nhiều đồng ruộng đă phải bỏ hoang, đời sống người dân càng thêm sa sút. Thành phần “có máu mặt” ở nông thôn từ đó bị suy yếu từ thể chất đến tinh thần. Đó là một biện pháp có chủ đích đề pḥng, làm tê liệt sự đề kháng như đă xẩy ra tại Bùi Chu-Phát Diệm trong phong trào Quỳnh Lưu (Nghệ An) người dân nổi dậy chiếm các kho lúa thuế, thành lập lực lượng tự vệ, bắt cán bộ chính quyền, công an, dân quân tự vệ giam giữ làm con tin.

 

Tại huyện Hương Khê (Hà Tĩnh), các xứ đạo Thổ Hoàng, Tây Hồ do LM Hồ Sĩ Huề lănh đạo, giáo dân sắm giáo mác, cung tên tẩm độc, công khai chống đối. Các giáo xứ khác như Ninh Cường, Thượng B́nh, họ Trăm Năm (Phú Gia) đồng loạt bất cộng tác với chính quyền. [Theo sách Lịch sử sự tích Phú Gia. Trần Kim Tần, 2001].

 

Thời đó đă có lần tôi gặp LM Hồ Sĩ Huề khi LM đi làm lễ cho một họ đạo dân chài ở xă Hưng Thịnh. LM Huề bị bắt, trong dân gian có một bài vè do chính quyền phổ biến, tôi c̣n nhớ mấy câu: “Huề ơi đội lốt thầy tu làm ǵ/ Khôn thời mày chết quách đi/ Sống mà như thế sống ǵ nhuốc nhơ..”.

 

Năm 1950, bước đầu chuẩn bị cho cuộc CCRĐ, nhiều diễn biến làm đảo lộn nề nếp sinh hoạt truyền thống ở nông thôn, đă tạo nên một không khí ngột ngạt cùng với t́nh trạng chiến tranh ác liệt, máy bay Pháp liên tục ném bom, bắn phá bất cứ mục tiêu nào: bến sông, cầu đường, nhà ga, kho băi, hay bất cứ mục tiêu di động nào, dù chỉ là một con trâu hay một con người bị phát hiện. Vùng Nghệ Tĩnh không một địa phương nào không bị bom đạn của máy bay Pháp.

 

T́nh trạng chiến tranh lu mờ dần theo năm tháng qua năm giai đoạn của cuộc CCRĐ, cho đến tháng 7-1954 khi chiến tranh chấm dứt, cũng là lúc cuộc CCRĐ mở đầu giai đoạn quyết liệt.

 

Thật ra Hồ Chí Minh đă chuẩn bị cho cuộc CCRĐ từ mấy năm trước đó.

 

Ngày 30/10/1952 Hồ Chí Minh gửi Stalin bức thư thứ nhất:


Đồng chí Stalin kính mến

Tôi đă bắt đầu soạn thảo đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt Nam, và sẽ giới thiệu với đồng chí trong thời gian tới.

Tôi gửi tới đồng chí một số yêu cầu, và hi vọng sẽ nhận được chỉ thị của đồng chí về những vấn đề này.

1. Cử một hoặc hai đồng chí Liên Xô tới Việt Nam để làm quen và t́m hiểu thực trạng ở đó. Nếu như các đồng chí đó biết tiếng Pháp đủ để có thể giao tiếp với nhiều người. Từ Bắc Kinh tới chỗ chúng tôi đi đường mất khoảng 10 ngày.
................
(Trích đoạn liên quan cuộc CCRĐ)

 

Ngày 31/10/1952 Hồ Chí Minh gửi bức thư thứ hai báo cáo tiến tŕnh CCRĐ do ông thiết lập và xin chỉ thị của Stalin (tạm dịch):

Đồng chí Stalin thân mến:

Xin gửi ngài chương tŕnh cải cách ruộng đất của đảng Lao Động Việt Nam. Chương tŕnh hành động được lập bởi chính tôi dưới sự giúp đỡ của đồng chí Lưu Shao Shi, Văn Sha San.

Đề nghị ngài xem xét và cho chỉ dẫn.

Gửi lời chào cộng sản.

Hồ Chí Minh, 31/10/1952

Kư tên

 

[Nguồn: Cục lưu trữ Quốc gia Nga: http://www.rusarchi ves.ru/evants/ exh...tnam1/ 22.shtml ] - Phổ biến từ “From: XUAN PHU NGUYEN <phuxuan2@verizon.net>

 

Theo GS Trần Gia Phụng cuộc CCRĐ diễn tiến trong năm giai đoạn kể từ năm 1950, sau khi Hồ Chí Minh nhận lệnh Stalin, cuộc cải cách lúc đầu khá ôn ḥa rồi trở nên mạnh mẽ và càng ngày càng ác liệt, từ năm 1955 đến 1956 là giai đoạn sắt máu giết hại nhiều người nhất. Tài liệu do CSVN công bố chính thức có 172,008 địa chủ, phú nông bị bức hại, trong đó có đến 23,000 đảng viên trung kiên bị chết oan (* tr52)

 

Năm giai đoạn đó tiếp diễn như sau:

- GIAI ĐOẠN SƠ KHỞI: Vào giữa năm 1949, cuộc CCRĐ được thi hành một cách nhẹ nhàng, chỉ kiếm cách tăng gia sản lượng nông nghiệp nhắm cung ứng nhu cầu đội quân càng ngày càng gia tăng.

 

- GIAI ĐOẠN THỨ NH̀: Trong năm 1950, một loạt sắc lệnh nông nghiệp ra đời có tính cách mỵ dân, nhằm đẩy mạnh sản xuất, phục vụ công cuộc kháng chiến.

 

- GIAI ĐOẠN THỨ BA: bắt đầu bằng sắc lệnh ngày 20-4-1953, đăng trên Công báo VM ngày 20-5-1953 đưa ra các quy định: - Hạ giá thuê đất. - Cấm các chủ đất hủy bỏ những hợp đồng cũ. - Huỷ bỏ hoàn toàn tiền nông dân vay nợ trước tháng 8-1945. - Tịch thu tất cả những tài sản của “đế quốc” Pháp, “Việt gian” và “địa chủ ác ôn”. - Thành lập “Uỷ ban nông nghiệp” các cấp từ trung ương đến địa phương.

 

- GIAI ĐOẠN THỨ TƯ: Vào cuối tháng 11 đầu tháng 12-1953, họp Đại hội Đại biểu đảng Lao Động với khẩu hiệu “Ruộng đất cho người cày”, quyết định thực hiện dần dần cuộc CCRĐ theo một kế hoạch được soạn thảo kỹ lưỡng.

 

- GIAI ĐOẠN THỨ NĂM: Vào giữa năm 1954, sau Hiệp định Genève kư kết ngày 20-7-1954, nước Việt Nam bị chia hai.

 

Hồ Chí Minh kư sắc luật về CCRĐ ngày 14-6-1955 quy định nhà nước tịch thu toàn bộ tài sản (đất đai, nhà cửa, gia súc, nông cụ...) của những người “thực dân”, địa chủ gian ác, cường hào ác bá, “Việt gian” phản động; trưng thu không bồi thường và thu mua đất đai, nông cụ, gia súc thuộc các nhân vật “tiến bộ”, các địa chủ đă tham gia kháng chiến, các địa chủ thuộc thành phần thương gia hay kỹ nghệ gia; truất hữu đất đai của các tổ chức tôn giáo như Thiên Chúa giáo, Phật giáo...

[Cuộc Cải Cách Ruộng Đất, Trần Gia Phụng, CET by webmaster vietno February 10 @ 12:35:58] (*tr56).

 

Tại vùng Nghệ Tĩnh, năm 1953-54 đảng Lao Động ban hành chủ trương “Phóng tay phát động phong trào truy tô”, tiếp diễn ráo riết tới năm 1955, kế đến là phong trào Cải Cách Ruộng Đất. Luật CCRĐ được phổ biến và học tập rộng răi, dân chúng được cán bộ giải thích:

 

Thành phần địa chủ là những người làm chủ ruộng đất, không lao động sản xuất, phát canh thu tô, ăn không ngồi rồi, chỉ tay năm ngón, ức hiếp bóc lột nông dân.

 

Địa chủ được phân loại:

- Địa chủ cường hào

- Địa chủ cường hào gian ác

- Địa chủ phản động cường hào gian ác

- Địa chủ phản động cường hào đại gian đại ác.

- Địa chủ kháng chiến: là những người có góp công và có mua công khố phiếu, công trái, có góp gạo nuôi quân; hoặc có con đi bộ đội, hay làm cán bộ.

- Địa chủ giác ngộ, là những người chấp hành chính sách của đảng và nhà nước tại địa phương.

- Phú nông, là thành phần có ruộng đất, tự lao động sản xuất, hoặc có phát canh, đổi công, vừa đủ ăn, không dư thừa bao nhiêu. Thành phần này được liên kết với thành phần trung nông, không bị đấu tố.

- Trung nông, là những gia đ́nh có ruộng đất tự lao động sản xuất, có đổi công. Gia đ́nh đủ ăn, hoặc thiếu ăn vài tháng trong năm. Trung nông được liên kết với nông dân để đấu tố địa chủ.

- Bần nông, là những gia đ́nh có một ít ruộng đất tự lao động sản xuất mà không đủ ăn phải làm nghề khác để sống.

- Cố nông, là những người không có ruộng đất, không có dụng cụ sản xuất, phải đi ở đợ hoặc làm thuê cho địa chủ suốt đời.

 

Luật CCRĐ ghi rơ “thành phần bần cố nông là ṇng cốt liên kết trong cuộc đấu tranh với địa chủ”.

 

Tháng 5-1955 đoàn CCRĐ về huyện, đội CCRĐ về làng xă, chiếm giữ trụ sở UBND huyện, xă. “Đội” vào nhà một bần cố nông nào đó, cùng ăn, cùng ở, cùng làm để thực hiện công tác. Thời kỳ ấy khắp nơi có câu truyền miệng “nhất đội nh́ trời”.

 

“Ông đội” lựa chọn, liên hệ “bắt rễ xâu chuỗi”, lập thành một đội ngũ bần cố nông hết ḷng nhiệt t́nh, trung thành với “ông đội” và hăng say bịa đặt, tố giác những hành vi “ác ôn tày trời” của địa chủ, mặc dù chỉ mới mấy tháng trước c̣n sống nhờ vả, thân t́nh nương náu. Những người trong khâu “chuỗi rễ” ngày đêm được ông đội un đúc, tuyên truyền tội ác của địa chủ, gây căm thù giai cấp sâu sắc giữa địa chủ và nông dân. [Trần Kim Tần-sđd.]

 

Ṭa án nhân dân và cuộc đấu tố địa chủ - Ảnh: Nhiếp ảnh gia Liên Xô
Dmitri Baltermants (1912-1990) chụp 1955 tại Miền Bắc Việt Nam
 

 

Cuộc CCRĐ diễn ra khi người dân chưa kịp hoàn hồn sau 10 năm chiến tranh chống Pháp. Với chủ thuyết đấu tranh giai cấp, biến toàn dân thành kẻ bần cùng vô sản, t́nh tự dân tộc, giềng mối xă hội chỉ một sớm một chiều đă hoàn toàn tan ră. Truyền thống đạo đức, nhân từ bị thay thế bằng hận thù, bạo lực, khủng bố. Từ những ngày đầu của phong trào “Xô Viết Nghệ Tĩnh”, người dân quê tôi đă chứng kiến những tốp năm, bảy người lạ mặt đến tận thôn xóm, vào những gia đ́nh thân hào, trí thức, những nhà có của, bắt chủ nhà ra trói lại, quấn giẻ vào bàn chân, tẩm dầu hôi đốt để khảo của.

 

Suốt dọc dài cuộc chiến từ 1945 đến 1954 hầu như thường xuyên xẩy ra những vụ ban đêm có người gơ cửa lôi chủ nhà ra ngoài đồng ruộng, bụi bờ dùng mă tấu chém hoặc dùng vồ đập chết, về sau th́ xử bắn công khai với bản án “việt gian phản động”.

 

Năm 1930 bố tôi 18 tuổi, tuổi thanh niên tràn đầy nhiệt huyết, ḷng yêu nước nồng nàn, gia nhập đảng CS Đông Dương, Bí thư Chi Bộ xă. Sau một thời gian hoạt động, chứng kiến các vụ ám sát, thủ tiêu những người vô tội, những vụ khủng bố, khảo của lương dân, ông ly khai đảng. Khi chi bộ đảng tan ră, ông ra làm Phó Lư để tránh bị bắt bớ. Sau tháng tám 1945, ông hoạt động trong Hội đồng Nhân dân và UBKC Hành Chánh, Mặt Trận Liên Việt xă, thư kư Hội Thân Hào, Uỷ viên Liên Việt huyện, chủ tịch Liên Việt Xă nhưng không gia nhập đảng Lao động.

 

Năm 1953, từ trụ sở Liên Việt, ông bị đưa về tập trung tại sân trường tiểu học Thượng B́nh cùng với năm người khác, trong số có ông Vơ Tá Tân, Hoàng Công Phu là hai bạn thân của bố tôi. Những người này được tuyên bố là thành phần có tội với nông dân, bị quản chế tại địa phương, tạm thời cho về nhà nhưng không ai được đi ra khỏi địa phương. Riêng ông Vơ Tá Tân bị bắt đem đi. Mấy tháng sau, một “ṭa án nhân dân đặc biệt”, thiết lập trên một ngọn đồi hoang vào ban đêm. Dân trong làng xă phải tới dự, kể cả những gia đ́nh đă bị quy là địa chủ, phú nông. Nạn nhân bị tuyên án tử h́nh. Bản án thi hành tại chỗ. Nạn nhân bị lôi đi một quăng, bị trói cặp vào chiếc cọc tre đă dựng sẵn, mấy phát súng nổ lạc lơng giữa màn đêm đen kịt, người anh của nạn nhân tên là Vơ Tá Thiều la lên một tiếng liền bị bắt trói, dẫn đi. Cả không gian nín lặng. Mùi tử khí rợn người. Đêm hôm đó tôi đi theo một người bạn học, thành phần bần cố nông, tên là Tùng để được Tùng che chở. Lần thứ hai trong đời, tôi lại nghe hai tiếng tử h́nh, hai người bị giết cùng họ Vơ Tá. Tôi nổi da gà, run sợ, nắm chặt tay người bạn, lặng người nghe những phát súng bắn vào người bạn của bố ḿnh, người mà tôi đă từng nhiều lần theo bố tôi đến nhà chơi, được ông bà thương mến. (Sau năm 1975, người con trai của ông Vơ Tá Tân là Vơ Tá Long cùng vợ con từ Hà Tĩnh vào định cư tại vùng kinh tế mới Xuân Sơn, tỉnh Bà Rịa, khai hoang làm rẫy).

 

Cuộc thanh trừng giai cấp này mở đầu phong trào Cải cách Ruộng đất tại xă, huyện quê tôi. Ông Vơ Tá Tân là người địa chủ đầu tiên bị bắn mà không qua những lần đấu tố như các địa chủ khác sau đó.

 

Bố tôi, sau khi bị triệu đi “học tập” và khai báo ba tháng, được thả về địa phương chờ nhân dân xử tội.

 

Khẩu hiệu mà “đội cải cách” truyền đạt mệnh lệnh cho đám bần cố nông là: “Địa chủ hết thời, nông dân vạn đại. Có khổ tố khổ. Ngồi tố, đi tố, đứng tố, đi đâu tố đó. Đào tận gốc trốc tận rễ...”.

 

Những gia đ́nh cḥm xóm, láng giềng mới hôm qua, hôm trước tối lửa tắt đèn có nhau, chia nhau từng miếng trầu, đĩa dưa, nắm muối, bỗng trở nên là kẻ tử thù, không đội trời chung! Những người dân quê mộc mạc không biết tố, không t́m ra tội ác địa chủ, ông đội mớm cho những loại “tội ác tày trời” mà nông dân không tưởng tượng ra được.

 

Người dân quê phần đông chân chất, ít thủ đoạn, bịa đặt những chuyện không tưởng. Tất cả tội trạng địa chủ đều do Đội Cải cách biên soạn thành những bài học, những khẩu hiệu rèn luyện, ép buộc người dân quê phải nghe theo, nói theo.

Ở quê tôi, không có báo chí và thời kỳ ấy cũng chưa có loa phóng thanh nên phương tiện “truyền thông” chỉ là hội họp. Họp liên miên hàng đêm, họp quảng đại mọi thành phần, hoặc họp riêng nông dân cốt cán. Tội ác địa chủ do “ông đội” nghĩ ra và mớm cho đám bần cố nông.

 

- “Chị c̣n nhớ tên địa chủ K không? Nó đă từng nhét con mèo vào miệng chị Út bắt nuốt, chỉ v́ nó nghi chị Út ăn cắp mấy trái bắp giống của nhà nó. Chị đă từng làm thuê cho nhà nó nhiều năm, chị chưa bị nó nhét mèo vào miệng chị hay sao?”

Thế là giữa đấu trường sau đó một người đàn bà nhảy lên chỉ vào mặt người địa chủ tên K: “Mày c̣n nhớ không? Hồi đó tao không kịp trả nợ cho mày, mày bắt tau đến nhà, nhét con mèo vào miệng tau bắt nuốt...” 

 

Bằng sự “giáo huấn” của “ông đội”, mọi người lúc đầu hoang mang tột độ, về sau những ai tỉnh táo, họ ngậm miệng làm thinh, thành phần loại khố rách áo ôm, mơ tưởng cuộc đổi đời, say mê lời hứa hẹn của “đội cải cách”, họ tha hồ bịa đặt, xỉ vả, xỉa xói vào mặt địa chủ. Không những người ngoài mà cả con cái, anh em ruột thịt.

 

Có một số trường hợp con đẻ, con dâu đấu tố cha mẹ; anh em ruột đấu tố anh chị, em của ḿnh. Một số địa chủ v́ sợ hăi, phẫn uất treo cổ tự tử.

 

 

Làng tôi có Bà Hoạt treo cổ chết bên mộ chồng. Ông Phan Vượng gỡ được sợi dây trói, treo cổ chết khi bị giam tại nhà một bần cố nông. Ông Phan Vượng, thường gọi là cố Đạt, bị giam giữ sau khi bị quy thành phần địa chủ. Khi bị đem ra đấu tố tại xóm (gọi là “đấu lưng”, trước khi đưa đi đấu tố ở xă), một hôm đứa con gái tên là Trung nhảy lên bục, chân co chân duỗi, một tay chống nạnh, một tay xỉa vào mặt cha mà hỏi:

- “Mày biết tao là ai không? Gia đạo này nhờ ai mà có? Cái mâm thau không đưa cho nông dân, mày để lại làm ǵ?”

 

Cố Đạt run rẫy, miệng lắp bắp:

- “Tôi đâu quên chị. Gia đạo này nhờ nông dân mà có. Cái mâm thau, hôm trước chị tới nói để lại nông dân cũng lấy mất, chị lấy đem về nhà chị rồi”.

 

Cố Đạt vừa nói xong, chị Trung thẳng tay xỉa vào mặt cha, làm cố Đạt té ngửa trong khi đang bị trói thúc ké. Dưới đấu trường giữa băi đất trống, tiếng hô “đả đảo” lác đác yếu ớt... Tối hôm đó cố Đạt tự kết liễu đời ḿnh bằng sợi dây trói.

Năm sau, ngày giỗ cố Đạt, chị Trung làm mâm cỗ, cho đứa con gánh tới nhà người anh cúng cha. Giữa đường, đứa con vấp ngă, mâm cỗ đổ hết. Năm sau nữa, khi cố Đạt được trả lại thành phần Trung nông, đám giỗ măn tang rôm rả, trịnh trọng, chị Trung cũng làm một mâm cỗ, chồng và con gánh tới ngơ nhà người anh th́ đứt dây gánh, mâm cỗ đổ vỡ tan tành. C̣n một bài văn tế, chị Trung nhờ người làm, đọc lên nghe ngậm ngùi ai oán, trong bài có câu, ngụ ư cố Đạt bị đấu tố xỉa xói mặt mũi bị sưng bầm:

 

Cảm cảnh nỗi nghĩa sinh thành, mặt tê mày tái, hổ thẹn ḷng son

Ngậm ngùi thay công dưỡng dục, tay “cáy” chân sưng, cam đành dạ sắt. (tiếng địa phương, cáy cũng là sưng).

 

Mấy năm sau nhà chị Trung bị cháy rụi. Hai đứa con chết bất đắc kỳ tử, chị Trung cũng trầm ḿnh chết ngoài sông.

 

Một người tên là Trinh, học cùng lớp với tôi, ông bà ngoại anh này tên thường gọi là cố Mục, thông gia với ông bà nội tôi. Ông bà ngoại của Trinh bị quy thành phần địa chủ, cụ ông bị bắt giam riêng, cụ bà bị bắt giữ tại nhà một bần cố nông, một hôm đội văn nghệ thiếu nhi họp tại nhà người cố nông nơi đang giữ Bà cố Mục. Trinh lại đá vào cái chơng tre bà ngoại đang nằm rũ rượi, cố nói lớn cho mọi người cùng nghe: “Khưu, th́ ra mày là địa chủ bóc lột nông dân. Mày đền tội là phải...”. (Khưu là tên tục bà cụ). Hôm đó tôi là người dạy múa, có mặt, chứng kiến hành vi này. Bà Ngoại Trinh nói lời rên rỉ trầm thống:

-”Trinh ơi, về mà hỏi mẹ mày. Để tao chết cho mày sống”.

 

Gia đ́nh tôi sau khi bị tich thu tài sản, em gái tôi năm đó mười ba tuổi, đi hái rau, bà chị dâu tôi lén cho một cái lưỡi cuốc để xới đất, giấu dưới rổ lá rau lang, về giữa đường gặp Trinh, anh ta chận lại xốc rổ rau lên và cướp cái lưỡi cuốc.

 

Mấy năm sau vợ anh này sinh một đứa con trai không thành nhân. Thân h́nh như con ễnh ương, không có xương sống, mềm nhũn, không ngồi đứng được, chỉ nằm bẹp giữa nền nhà, không biết nói, chỉ phát âm một tiếng la duy nhất làm người nghe và đứng nh́n phải sợ.

 

Bà chị dâu tôi nhiều lần bị đốc thúc lên đấu tố mẹ tôi. Bọn nông dân cốt cán tay đẩy sau lưng chị tôi, miệng nói: “Chị làm dâu trong nhà nó bao nhiêu năm, chị thấy tội ác của nó rồi, chị lên tố nó trước nông dân đi...!”

 

Bà chị dâu tôi bước vài bước rồi quay lại đứng chỗ cũ. Bố của chị dâu tôi có người con rể lúc đó là bộ đội, (sau năm 1975, cấp bậc Đại tá) cũng bị quy địa chủ, bị bắt giam, đấu tố, chết trong tù. Người cậu ruột của chị dâu tôi là một lương y, không giàu lắm nhưng có lối sống và “cách chơi” phong nhă hơn người, nhà cửa có cổng tam quan, cây cảnh xum xuê, có ngựa cỡi. Bị quy địa chủ, ông chạy vào núi trốn mấy ngày, ư định vượt biên sang Lào, nhưng không được, trở về chạy loanh quanh như con thú bị săn đuổi, ngồi giữa ruộng lúa suốt đêm, sáng ra bị phát hiện, du kích bắt về giam. Sau đó đem ra đấu tố, kết án tử h́nh, bản án thi hành tại chỗ, xác lấp ở một mương nước, mấy ngày sau chó moi lên, diều hâu, quạ bay đến xỉa xói xương thịt...

 

Trong ngày đấu tố toàn xă, khi đến màn “ṭa án nhân dân” tuyên án xong, sau đó bản án được thi hành tại chỗ, người ta nghe tiếng súng từ những đấu trường bốn phía tiếp nhau, âm thanh như nghẹn lại giữa bầu trời xám đục, sặc mùi tử khí. 

 

Tại xă Phúc Ấm cạnh làng tôi, ông Hoàng Trị tên thường gọi là Cửu Hoan (cửu: chức cửu phẩm triều đ́nh ban) cũng bị xử bắn cùng ngày. Những địa chủ khác bị án tù và tất cả đều chết trên đường dẫn tới trại giam hoặc chết trong trại, trong số này có cụ Thành, một danh y nổi tiếng, thân thiết với gia đ́nh bố mẹ tôi.

 

T́nh cảnh con đấu tố cha mẹ xảy ra khắp các địa phương ở miền Bắc. Theo hồi chánh viên Nguyễn Văn Thân, kỹ sư thuộc Bộ Thủy Lợi miền Bắc, trước kia đă từng tham gia nhiều vụ cải cách ruộng đất, cho biết một cuộc đấu tố điển h́nh mà ông được dự là lần đấu tố ông Nguyễn Văn Đô, Bí thư huyện ủy tại Ô Cầu Giấy, ngoại thành Hà Nội. Ông Thân cho biết: “Nạn nhân Nguyễn Văn Đô là Bí thư Huyện ủy, rất có công với kháng chiến nhưng bị kết tội là cường hào ác bá và có chân trong tổ chức Quốc Dân đảng. Chủ tịch đoàn nói rằng ông đă lợi dụng chức vụ của đảng để hoạt động cho Quốc Dân đảng. Người đứng kể tội là một nông dân trước kia đi chăn ngựa cho ông Độ. Một cụ già khác lên tố về việc cướp đất ruộng nương, Và cô con gái của ông lên đấu tố là đă bị ông cưỡng hiếp tất cả 177 lần”. 

 

“Đến khi ông Đô được phép lên phát biểu ư kiến nhận tội, ông đă cứng cỏi trả lời: Ông không phải là Quốc Dân đảng, ông chỉ làm việc cho Bác, cho kháng chiến mà thôi. Ông trả lời cô con gái: “Thưa bà, bà c̣n quên đấy, tôi đă hiếp cả mẹ bà để đẻ ra bà nữa”. Câu trả lời này làm mọi người phải bật cười và làm đấu trường mất vẻ tôn nghiêm. Chủ tịch đoàn vội vàng hô khẩu hiệu - Đả đảo tên Đô ngoan cố - để đàn áp và che lấp tiếng nói của ông. Sau đó họ không cho ông nói tiếp. Họ nghị án và quyết định xử tử ông ngay tại chỗ. Cuộc đấu tố này kéo dài từ 5g sáng tới 13g trưa mới xong». (theo Cẩm Ninh, Cuộc nổi dậy ở Nghệ An năm 1956).

 

Mẹ Tôi

 

Mẹ tôi, gánh đại nạn cho bố tôi, để tránh cho bố tôi bản án tử h́nh. Đại nạn bắt đầu ập xuống gia đ́nh khi bố tôi bị bắt đi “quản huấn” ba tháng mà chủ đích là để kê khai tài sản. Trong thời gian này mọi sự quan hệ với bên ngoài, kể cả vợ con đều bị cấm ngặt. Ở nhà, thỉnh thoảng mẹ tôi lại bị du kích bắt đến trụ sở (nhà của một bần cố nông) – nơi ăn ở của “ông đội” – để khai báo c̣n cất giấu bao nhiêu vàng bạc, lúa gạo và các loại của cải khác.

 

Vàng bạc đă cúng hiến cho “kháng chiến” trong “tuần lễ vàng”. Lúa gạo đă cúng hiến cho “chiến dịch” ba tháng “góp gạo khao quân”, mùa lúa cuối cùng thu hoạch về đă nộp hết cho thuế nông nghiệp. Tất cả những ǵ có thể ăn được, bán được đều đă bị vơ vét. Cả gia đ́nh đă rau cháo, khoai sắn qua ngày từ trước khi “đội cải cách” kéo về.

 

Không c̣n ǵ nữa để khai báo. Một hôm mấy người bần cố nông cốt cán đến bắt tất cả mẹ con chúng tôi đến giữ tại một căn nhà tranh. Mẹ tôi bị trói nơi cổ tay trái bằng sợi dây xỏ mũi trâu ḅ, treo hổng lên trên cành bưởi mé sân, chân không c̣n chạm đất.

 

Hỡi ôi, câu ca dao “Trèo lên cây bưởi hái hoa...” ngọt ngào thơ mộng ấy bấy giờ trở nên cay đắng xót xa năo ḷng.

 

Mấy anh chị em chúng tôi ngồi cách xa ba mét chứng kiến mẹ ḿnh treo lơ lửng đang khóc la, đau ḷng đứt ruột. Chúng tôi cùng ̣a lên khóc. Người anh kế tôi vừa khóc vừa chửi: “Trời ơi! Chúng bay độc ác, dă man quá. Trời sẽ hại chúng bay”. Anh tôi liền bị bẻ quặp hai tay ra sau lưng, trói vào một gốc cây cau. Hai mụ bần cố nông và hai người đàn ông tên là Nguyên Trường và Ḥa Đèo la mắng áp đảo chúng tôi: “Bay biết cha mẹ bay c̣n vàng bạc lúa gạo cất giấu ở đâu đưa ra nạp cho nông dân không th́ sẽ treo đến chết.”

 

Chúng tôi vẫn khóc la cho đến khi họ thấy tay và mặt mẹ tôi đă tím bầm, không c̣n khóc la được nữa, họ mở trói, mẹ tôi rớt đổ xuống, nằm ở mé sân. Một lúc sau mẹ tôi tỉnh lại. Họ cho anh chị em chúng tôi về nhà, mẹ tôi bị bắt giam, mùa đông nằm ngoài thềm nhà, tay bị trói. Em gái út tôi lúc đó 5 tuổi, mỗi chiều vào lúc hoàng hôn lại lẻn đến trao cho mẹ vài ba củ khoai lang. Khi bị bắt gặp họ la lên: “Ḱa, con địa chủ đến!” và họ la mắng xua đuổi. Sau ba ngày đêm mẹ tôi được thả về, sống trong phập phồng ngày đêm lo sợ.

 

Trước khi có cuộc đấu tố và mở phiên xử toàn xă của “Ṭa án nhân dân đặc biệt”, bố tôi nằm trên chiếc chơng tre, được con cái khiêng tới đặt giữa sân tŕnh diện nông dân. Trời mưa lất phất, sau một hai giờ đồng hồ, từng người bần cố nông cốt cán đến tra hỏi, khám người, xem xét bệnh t́nh, báo cáo “ông đội”. Ông đội khám xét, thấy không thể dựng một người nằm liệt giường lên để đấu tố, bố tôi được cho khiêng về nhà với mệnh lệnh:

- Khi nào cha bây ngồi dậy được phải đến báo cho nông dân biết liền. Nghe chưa?! Nếu không, cả nhà bây sẽ chết”.

 

Ngày mẹ tôi bị đưa ra đấu trường, con cái không được tham dự, ngoại trừ bà chị dâu. Anh chị em chúng tôi c̣n vị thành niên. Tôi ra đứng ở góc vườn ngóng mắt về phía đám “kên kên” tụ họp, đang chực chờ “ăn thịt” đồng loại hiền lương. Từng đợt tiếng hô “đả đảo”, và tiếng chiêng trống inh ỏi vọng vào tai, ḷng tôi quặn thắt, nước mắt ràn rụa.

 

Sau mấy tuần lễ bị giam giữ và hai ngày ḥ hét đấu tố, hành xác các địa chủ, ngày thứ ba tiếp theo là cuộc hành h́nh nạn nhân về tội: “địa chủ, phản động, cường hào, đại gian, đại ác”!!

 

Chánh án phiên ṭa này tên Lê Minh, thường gọi là Minh Mèo Lư, 18 hay 19 tuổi, thành phần cố nông, học lực chưa hết bậc tiểu học, vài năm trước đó bỏ học đi làm thuê, chăn trâu, làm mướn, đuổi chim giữ hoa màu, c̣n phảng phất hôi hám mùi phân chuồng trâu ḅ.

 

Trên hai mươi địa chủ đứng sắp hàng trong vành móng ngựa, Chánh án Lê Minh tuyên đọc bản án:

- Ngô Hệ: tử h́nh

- Trần Kim Tần: 20 năm tù khổ sai.

- Lê Khắc Thông, Phan Hiệp, “mụ” Hoạt, “mụ” Minh 18 năm tù giam.

- Những người c̣n lại là “địa chủ bóc lột”, tịch thu toàn bộ tài sản, miễn án tù.

Bản án tử h́nh được thi hành tại chỗ. Ngô Hệ bị xử bắn trước khi phiên ṭa bế mạc.

Ngô Hệ, nguyên là Chủ tịch Ủy Ban Hành Chánh xă, làm việc nhiều năm với bố tôi. Khi bố tôi bị quy thành phần địa chủ, được dẫn đến trụ sở Ủy ban xă, Ngô Hệ ngồi trên ghế Chủ tịch hất hàm nói với bố tôi:

- “Th́ ra anh là địa chủ phản động. Cháy nhà ra mặt chuột. Có vậy chứ. Anh sống th́ bọn này chết. Anh chết th́ bọn này sống”.

 

Nhưng chỉ mấy tháng sau, để có một con dê tế thần, Ngô Hệ “lọt vào mắt xanh” của “ông đội”, Ngô Hệ bị bắt giam, giao cho đám bần cố nông “b́nh bầu” vào giai cấp bóc lột với tội danh địa chủ đầu sỏ, thay “chức danh” Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xă.

 

Để có “con dê tế thần” và phải đạt chỉ tiêu số “địa chủ phản động ác ôn”, không chỉ “con tép” Ngô Hệ, chủ tịch UBND xă mà Phan Tử Huy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh cũng bị đấu tố, kết án tử h́nh, lôi ra bắn.


Một cán bộ CS nồng cốt có nhiều thành tích và uy tín trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp tên là Đội Suất, được nhân dân Hà Tĩnh nhắc nhở nhiều năm bởi câu “danh ngôn” ông này phát biểu trong những lần diễn thuyết, cổ vũ trước quần chúng thời đó. Bằng giọng địa phương, ông kêu gọi: “Muôn khàng chiên thanh cồng thi phài đù ba cài, một: đù người, hai: đù cua, ba: đù kh́ giơi “. (Muốn kháng chiến thành công th́ phải đủ ba cái, một đủ người, hai đủ của, ba đủ khí giới).

 

Dưới chế độ mà ông đem cả cuộc đời, góp tâm sức dựng lên cỗ xe chuyên chính, qua chủ trương của đảng và bàn tay hung bạo của “ông đội” cải cách, ông bị quy thành phần địa chủ, phản động, cường hào, đại gian đại ác, bị xử bắn và chôn sấp. Năm 1956, sau khi “sửa sai”, con cháu xin cải táng để chôn ngửa, mà không được phép!

 

Để đạt chỉ tiêu số địa chủ quy định phải có tại mỗi địa phương, sau vài tháng tạm lắng dịu, chiến dịch truy lùng “địa chủ lọt lưới” bắt đầu. Một khẩu hiệu được phổ biến cho nông dân: “Không có voi to th́ ḅ cũng lớn”. Xă tôi có hai người Trần Kim Trung và Phan Vịnh từ thành phần trung nông được đôn lên thành địa chủ, bị đem ra đấu tố và kết án mỗi người 5 năm tù giam.

 

Trong thời gian đấu tố, một số địa chủ đă t́m cách tự tử, kết liễu cuộc đời. Tất cả tài sản, từ nhà cửa, ruộng đất, trâu ḅ, đến mọi thứ đồ dùng trong nhà như chén, đũa, nồi niêu đều bị tịch thu. Gia đ́nh địa chủ bị đuổi ra khỏi nhà với một cái quần và một manh áo trên người. Ai mặc hai lớp áo quần, phải cởi ra trả lại cho nông dân trước khi được dẫn đi đến một nơi cư ngụ khác, thường là một túp lều dột nát, tả tơi.

 

Mẹ tôi, sau phiên ṭa, chiều tối hôm đó được thả về, đầu tóc rũ rượi, mặt bầm tím, sưng vù v́ những mũi gai bưởi, kim gút mà đám bần cố nông đấu tố xỉa vào mặt bà. Về tới nhà, mẹ tôi ôm hôn từng đứa con, nước mắt tuôn trào, bà nấc lên từng chặp. Mẹ tôi nói:

“Mẹ đă về đây với các con. Nhưng làm sao thầy các con thoát được hai mươi năm tù mà về với các con đây”. Chúng tôi không xúc động chút nào về án tù 20 năm của cha, trước nỗi xúc động, vui mừng tràn ngập được gặp lại Mẹ.

 

Hai ngày sau, khoảng mười giờ sáng, một đoàn người với cờ đỏ sao vàng dẫn đầu, kéo đến sắp hàng trong sân trước nhà tôi. Ba người bần cố nông cốt cán vào bắt mọi người trong nhà tôi ra ngoài sân, đứng sắp hàng một góc. Rồi từng tốp người vào lập biên bản kiểm kê tài sản. Tất cả mọi thứ giấy tờ, sách vở, đồ thờ tự, giấy khai sinh, các loại văn tự, sắc chỉ, áo măo cân đai... các triều vua ban cho các bậc tiên hiền ḍng họ nhà tôi bị đem ra sân chất thành đống phóng hỏa. Không ai trong gia đ́nh tôi c̣n giấy tùy thân.

 

Không c̣n giấy khai sinh, nên khi vượt thoát sang Lào, người hướng dẫn nhằm cho mau xong thủ tục đă khai ngày sinh các anh chị em trong gia đ́nh tôi theo phỏng đoán. Em gái tôi trên giấy tờ nay là chị tôi, tôi bị khai sụt xuống bảy tuổi (?) Sau này mẹ tôi chỉ nhớ ngày tháng âm lịch khi sinh ra tôi. Bố tôi th́ nhớ năm sinh, cũng năm Âm lịch. Chúng tôi cứ lấy đó làm tin.

 

Trong khi lục lọi của cải trong nhà, mẹ tôi và các anh chị em tôi bị khám xét, nắn bóp từng cái gấu quần, túi áo. Mẹ tôi mặc hai lớp váy, cái váy trong mới hơn, một chị bần cố nông bước lại miệng la lối “địa chủ mà mặc cái váy đẹp thế này à?” trong khi đưa hai tay kéo tuột cái váy mới xách đi!

 

Người anh kế tôi thọc tay vào cái vại ngâm đầy những trái hồng ḍn, lấy ra một trái liền bị giựt lại. Gia đ́nh tôi trồng mấy sào khoai ḿ ở một vườn trại, khi gia đ́nh tôi bị bao vây, mỗi tuần phải làm đơn xin cán bộ cốt cán nhổ khoai ḿ về ăn. Mỗi tuần lễ chỉ được phép hai lần, mỗi lần chỉ được nhổ ba gốc. Nhổ xong buổi sáng, buổi chiều có người đến kiểm tra. Nếu nhổ hơn một gốc sẽ bị bắt giữ ít nhất hai ba ngày đêm.

 

Tất cả những ǵ ngày hôm qua c̣n là của ḿnh, bằng công lao khó nhọc làm ra, ngày hôm sau trở thành của người khác, ḿnh lấy ăn, lấy dùng là phạm luật, phạm tội.

 

Tôi c̣n nhớ ông chú tôi nói: “Trước đây kẻ cướp vào nhà th́ khổ chủ khua trống mơ kêu cứu, thời này kẻ cướp kéo thành đoàn mang theo cờ quạt vào nhà vơ vét, hết kêu cứu vào ai. Thật lạ!!”

 

Khi kiểm kê xong tài sản, gia đ́nh tôi được dẫn đến một cái nhà lều dột nát, trên không tranh, dưới không phên, bốn bề gió lộng để “đổi” lấy cái nhà ba gian và một dăy nhà ngang, làm nơi cư ngụ, với hai bàn tay trắng.

 

Chúng tôi được lệnh cấm không được đi ra khỏi làng, không được tiếp xúc tṛ chuyện với bất cứ ai, dù là bà con, anh em ruột thịt đă ra riêng, không c̣n liên hệ với gia đ́nh. Tôi bị đấu tố, khai trừ, đuổi học.

 

Một chính sách cô lập thi hành triệt để đối với con cái, gia đ́nh địa chủ. Tôi đă bị đem ra “đoàn thể thanh thiếu niên, nhi đồng đấu tố trong một đêm dài sau khi gia đ́nh tôi bị quy địa chủ về tội “chống đối chính sách, phá hoại đoàn thể”. Sau cùng đưa ra quyết định khai trừ khỏi đoàn thể, đuổi khỏi trường học, cấm đến trường, cấm không được đi ra khỏi địa phương.

 

“Tội trạng” và biện pháp kỷ luật về tôi lại do sự đạo diễn của một người em họ, cùng một ông cố nội với tôi (bố anh ấy và bố tôi cùng ông nội, là con chú con bác).

 

Tôi bị đuổi học, nhà trường không biết. Sau khi toàn bộ tài sản bị tịch thu, gia đ́nh tôi đến ở một mái nhà như túp lều. Thầy Hiệu trưởng cho người bạn thân cùng lớp với tôi tên là Phạm Văn Nhân đến gặp tôi chuyển lời thầy:

- “Thầy bảo bạn đừng bỏ học, uổng lắm. Nếu gia đ́nh khó khăn th́ thầy sẽ giúp cho sách vở và cần ǵ th́ cho thầy biết...” 

 

Tôi tŕnh bày cho Nhân biết về quyết định của địa phương mà tôi tưởng là họ đă thông báo cho nhà trường. Nhân tỏ ra buồn và an ủi tôi. Nhân đến được khoảng hơn 30 phút th́ chị Ất, một cố nông cốt cán cùng với một du kích đến bắt Nhân đi về tội “liên lạc với gia đ́nh địa chủ”. Từ sau đó cho tới nay tôi không gặp lại Nhân. Nghe nói Nhân hiện nay khá giả, con cái thành đạt.

 

Việc tôi bị đuổi học, ngoài địa phương, không một ai hay biết, kể cả nhà trường. Ông anh tôi là Giáo viên, được thầy Hiệu trưởng thông báo tôi bỏ học, một lần trốn về, lén gặp riêng tôi la rầy tôi tại sao lại bỏ học. Khi tôi cho biết là tôi bị đuổi học, các huynh trưởng đoàn thanh thiếu niên cấm tôi đến trường, không được đi ra khỏi địa phương, ông anh tôi lại có ư trách tôi không chấp hành tốt kỷ luật đoàn thể.

 

Ông là giáo viên thoát ly, không c̣n liên hệ với gia đ́nh... địa chủ, theo chính sách không c̣n nh́n nhận cha mẹ, anh em ruột thịt.

 

Tôi bỏ học từ đó, từ năm đầu Trung học cho tới sáu năm sau mới trở lại trường học tiếp. Nhờ... trời, tôi cũng đă theo kịp người bạn cùng lớp thời tiểu học. Anh vượt thoát sang Lào, về Sài G̣n năm 1955, đậu Tú Tài toàn phần cùng năm với tôi.
 

**

Kết Thúc CCRĐ

Giai Đoạn “Chia Quả Thực”


Toàn bộ tài sản của các gia đ́nh địa chủ từ ruộng đất, trâu ḅ, nhà cửa, dụng cụ sản xuất, đồ dùng trong nhà, kể cả chén bát, đôi đũa đều bị tịch thu, gom về tập trung để “chia cho nông dân”. Tài sản tịch thu của địa chủ đă được quy định từ trước:

- Vàng bạc, đồ kim khí như mâm thau, nồi đồng, đồ thờ tự, ngũ sự nạp lên Đoàn Cải Cách đem về dùng vào “kháng chiến”. (mà chiến tranh th́ đă chấm dứt tháng 7-1954).

- Nhà, vườn chia cho “cốt cán, rễ chuỗi” làm chủ và cư ngụ.

- Tài sản linh tinh tập trung chia “Quả Thực” cho nông dân.

- Ruộng đất cho nông dân “tự báo” nhận canh tác, nạp thuế.

- Trâu ḅ được chia về các đội sản xuất mỗi xóm. Các đội viên trong đội Sản Xuất được toàn quyền sử dụng trâu ḅ vào việc cày bừa canh tác.

Sau khi gia đ́nh địa chủ bị đuổi ra khỏi nhà, cốt cán, rễ chuỗi đến chiếm ngụ làm sở hữu. Trong thời gian làm chủ ngôi nhà, họ tháo gỡ từng phần đem bán. Vườn tược bỏ hoang. Các loại cây ăn trái, các cây gỗ quư đều bị đốn cành chặt cây làm củi. Ruộng đất nông dân tự báo canh tác, sau vài vụ thu hoạch hoa lợi không đủ nạp thuê, mọi người nhất tề trả lại đảng, qua UBND Xă. [Phú Gia, Lịch sử Sự tích. Trần Kim Tần, Đông A Phúc Nhạc 2001]


Trong giai đoạn “chia quả thực”, nhà của bố mẹ tôi được đem chia cho hai gia đ́nh bần cố nông đến ở. Của cải, đồ đạc của gia đ́nh tôi, đám bần cố nông chia nhau. Những thứ quư giá hơn như mâm thau, nồi đồng, lư hương, đồ thờ tự “ông đội” lấy đem đi.



Thực Chất Biện Pháp Sửa Sai

Vai Tṛ Hồ Chí Minh

 

T́nh trạng xă hội nông thôn trong thời kỳ CCRĐ cực kỳ hỗn độn. Thành phần bần cố nông “cốt cán” dựa hơi cán bộ đội Cải Cách, xưng hùng xưng bá, tự tung tự tác, thẳng tay đàn áp, truy bức, trấn lột bất cứ người nào. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1956 danh từ “Địa chủ” nghe rất rùng rợn, một ám ảnh kinh hoàng cho con cái thân nhân những gia đ́nh bị khép vào thành phần này. Bản thân những người địa chủ bị miệt thị ghê tởm hơn cả một con súc vật. Xă hội bị đảo lộn mọi tôn ti trật tự, luân lư đạo đức hoàn toàn bại hoại.

 

Một số gia đ́nh địa chủ có con em là bộ đội, cán bộ thoát ly, ở nhà cha mẹ bị đấu tố, có người bị tử h́nh, tài sản bị tịch thu... T́nh trạng đó khiến những người nông dân lương thiện sa sút tinh thần, hoang mang giao động, những người từng dấn thân xông pha phục vụ chấn động niềm tin.

 

Trước t́nh trạng người dân chao đảo oán than, đảng CSVN buộc phải có biện pháp xoa dịu. Tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động phải ra quyết định:

Ngưng chức Tổng Bí Thư của Trường Chinh, khai trừ Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương khỏi Bộ Chính trị; loại Hồ Viết Thắng ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương.

 

Vậy có phải sự thật là ông Hồ Chí Minh vô can và ông đă khóc khi nghe biết người dân đă bị hành hạ, chết chóc oan nghiệt trong những ṿng tai họa của cuộc CCRĐ??

 

Qua bài viết của những người trong cuộc như các ông Bùi Tín, Nguyễn Minh Cần, Vũ Thư Hiên khẳng định th́ “người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải là Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ”.

 

Trong nhiều thập niên qua vai tṛ của Hồ Chí Minh trong CCRĐ vẫn được đặt ra với nhiều câu hỏi. Có thật ông chỉ theo lệnh của Stalin và Mao Trạch Đông? Có thật ông chỉ là thiểu số không đủ quyền lực để ảnh hưởng đến các cố vấn Trung Quốc? Có phải ông chỉ muốn tiến hành giảm tô? Có phải ông đă khóc khi biết được những tội ác do CCRĐ gây ra?

 

Để “minh họa”, người viết xin lược trích một số những chi tiết trong bài viết của ông Nguyễn Quang Duy (*) hầu cung cấp cho bạn đọc có thêm dữ kiện:

 

 Hồ Chí Minh (1968)

 

 

“... Hồ Chí Minh đă hiểu rất rơ nguyện vọng “người cày có ruộng” của nông dân Việt Nam. Khi c̣n ở Pháp ông có viết một số bài lên án việc chiếm hữu đất đai của thực dân Pháp và của nhà thờ Công giáo. Trong thời gian hoạt động tại Trung Hoa, ông tiếp nhận và để tâm nghiên cứu cách mạng thổ địa tại đây. Nó vừa là một phương tiện đấu tranh giai cấp, vừa để xây dựng chuyên chế vô sản.

 

Trong một lá thư gởi các lănh đạo Quốc tế Nông dân đề ngày 8/2/1928, ông viết: “Tôi tranh thủ thời gian viết ‘những kư ức của tôi' về phong trào nông dân, chủ yếu là phong trào Hải Lục Phong, nơi có các xô-viết nông dân. Người ‘anh hùng' trong ‘những kư ức của tôi' chính là đồng chí Bành Bái, cựu Dân ủy nông nghiệp của Xô-viết Quảng Châu và hiện là lănh tụ của nông dân cách mạng.” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 265).

 

Năm 1953 tại Hội nghị nông hội và dân vận toàn quốc, ông lại nhắc đến: “...đồng chí Bành Bái ở Trung Quốc, gia đ́nh đồng chí là đại địa chủ, đại phong kiến, nhưng đồng chí ấy đă tổ chức và lănh đạo nông dân đấu tranh rất quyết liệt chống địa chủ phong kiến” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2 trang 357).

 

Ngày 25/1/1953, tại Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động, Hồ Chí Minh chủ toạ, đọc báo cáo đề ra nhiệm vụ phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, đấu tranh chống giai cấp địa chủ phong kiến, tiến đến CCRĐ. Ít tháng sau, Đảng CS đă lănh đạo nông dân nổi dậy ở nhiều nơi, đặc biệt là ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Khẩu hiệu “trí - phú - địa - hào, đào tận gốc, trốc tận rễ” được dùng làm tiêu đề cho cuộc đấu tranh mới - đấu tranh triệt tiêu giai cấp địa chủ và phong kiến.  

 

 

Một địa chủ bị đấu gục. Ảnh: Nhiếp ảnh gia Liên Xô

Dmitri Baltermants (1912-1990) chụp tại Miền Bắc Việt Nam năm 1955

 

Ngày 12/4/1953 Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 150 SL về Cải cách ruộng đất, tịch thu ruộng đất của thực dân Pháp và địa chủ phản động chia lại cho nông dân nghèo.

 

Ngày 14/11/1953, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương và Hội nghị toàn quốc của Đảng Lao động đă quyết định tiến hành CCRĐ.

 

Trong báo cáo trước Quốc hội khoá I kỳ họp lần thứ ba, ông Hồ đă phát biểu “Phương châm của cải cách ruộng đất là: phóng tay phát động quần chúng nông dân” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509).

 

Ông Nguyễn Văn Trấn, nguyên Đại biểu Quốc hội khoá I, đại diện Sài G̣n Chợ Lớn, giải thích “phóng tay” nghiă là “cứ việc làm mạnh thả cửa” (Nguyễn Văn Trấn, trang 266).

 

Ông Nguyễn Minh Cần giải thích “là làm hết sức mănh liệt, thẳng tay, không khoan nhượng, không thương xót, cho dù quá trớn, quá tả cũng không đáng sợ”. Ông c̣n cho biết: “Ông Hồ đă dùng h́nh ảnh dễ hiểu: khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tí và giữ lâu lâu, rồi thả tay ra th́ nó mới thẳng được”.

 

Ông Nguyễn Văn Trấn than rằng “Trời ơi! Đảng của tôi đă nghe lời người ngoài, kéo khúc cây cong quá trớn. Nó bật lại giết chết bao nhiêu vạn sinh linh.” (Nguyễn Văn Trấn, trang 266).

Cũng trong báo cáo trước Quốc hội này, Hồ Chí Minh đă ra chỉ tiêu: “Giai cấp địa chủ phong kiến không đầy 5 phần trăm dân số, mà chúng và thực dân chiếm hết 7 phần 10 ruộng đất...” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6 trang 509). Chính chỉ tiêu này đă: “... giết chết bao nhiêu vạn sinh linh”.


Trong thời gian tiến hành giảm tô tiến đến CCRĐ, sáu xă tại huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên đă được chọn làm thí điểm. Người đầu tiên bị mang ra xử bắn là bà Nguyễn Thị Năm. Bà c̣n được gọi là bà Cát Hanh Long (xem Nguyễn Minh Cần). Bà là người đă che giấu và nuôi dưỡng các lănh đạo cộng sản như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản... trong thời gian Đảng CS c̣n hoạt động bí mật. Hai con trai bà, ông Nguyễn Công và ông Nguyễn Hanh đều theo Việt Minh từ trước 1945. Khi CCRĐ được phát động, ông Nguyễn Công đang làm Chính uỷ trung đoàn và ông Nguyễn Hanh là đại đội phó bộ đội thông tin.


Thành Tín cũng viết “Ông Hoàng Quốc Việt kể lại rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng này với ông Hồ Chí Minh. Ông Hồ chăm chú nghe rồi phát biểu: “Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ, và lại là một người từng nuôi cán bộ cộng sản và mẹ một chính uỷ trung đoàn Quân đội Nhân dân đang tại chức”. Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói với Trường Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách này”.

 

Thành Tín viết tiếp: “Thế nhưng không có ǵ động theo hướng đó cả! Bởi v́ người ta mượn cớ đă quá chậm. Các phóng viên báo chí, các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đă viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi”.

 

Trong hồi kư “Giọt Nước Trong Biển Cả”, ông Hoàng Văn Hoan đă cho rằng Ủy ban CCRĐ “... tự cho phép các đội CCRĐ được bắn vào địa chủ gian ác để nâng cao khí thế nông dân. Việc bắn địa chủ mở đầu từ Thái Nguyên, sau lan tràn đi nhiều nơi, coi là một phương pháp tốt, để nâng cao uy thế của nông dân.”

 

Ông Nguyễn Minh Cần, nguyên Phó chủ tịch thành phố Hà Nội, đă hết sức ưu tư về việc “những người lănh đạo cộng sản trong Bộ Chính trị và đứng đầu chính phủ đă từng được bà che giấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay đang làm Chủ tịch nước, Tổng Bí thư, Ủy viên ban chấp hành, Thủ tướng, Phó Thủ tướng đă lạnh lùng chuẩn y một bản án tử h́nh như vậy! Phát súng đầu tiên của CCRĐ nổ vào đầu của một người phụ nữ yêu nước đă từng giúp đỡ cho những người cộng sản! Phát súng đó tự nó đă nói lên nhiều điều về các lănh tụ cộng sản! Nó báo trước những tai họa khôn lường cho toàn dân tộc!”.

 

Nhà văn Vũ Thư Hiên nhận xét một cách dứt khoát: “Câu chuyện về Hồ Chí Minh trong thâm tâm chống lại chủ trương Cải cách ruộng đất, bực bội v́ việc mở màn bằng việc bắn một người đàn bà, như một số người bào chữa cho ông là một chuyện tầm phào. Một lệnh ông Hồ ban ra không phải là chỉ cứu được bà Nguyễn Thị Năm, nó c̣n cứu hằng ngàn người bị giết oan trong cả Cải cách ruộng đất, lẫn Chỉnh đốn tổ chức do Lê Văn Lương song song tiến hành. Ông không cứu ai cho tới khi những sai lầm tích tụ lại thành cái nhọt bọc. Lúc cái nhọt bọc vỡ ra ông mới tỉnh cơn mê. Nhưng đă muộn”.

 

Vũ Thư Hiên c̣n cho biết ông Vũ Đ́nh Huỳnh, nguyên thư kư riêng của Hồ Chí Minh, đă nói thẳng với ông Hồ: “Máu đồng bào, đồng chí đă đổ mà Bác vẫn c̣n ngồi yên được à? Chúng ta tuy không có học, chúng ta dốt, chúng ta phải vừa làm vừa học xây dựng chính quyền, v́ dốt nát chúng ta mắc mọi sai lầm, nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng ta nhuốm máu đồng bào đồng chí”. 

 

Cũng qua Vũ Thư Hiên ta biết được ông Vũ Đ́nh Huỳnh đă “... khẳng định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải là Trường Chinh. Trường Chinh chỉ là con dê tế thần cho ông Hồ”.

 

Vụ án Nguyễn Thị Năm nói riêng và CCRĐ nói chung c̣n rất nhiều uẩn khúc. Những uẩn khúc này không phải chỉ liên quan đến các nạn nhân hay gia đ́nh nạn nhân CCRĐ. Nó c̣n in đậm nét trong tâm trí của những người đă một thời tin vào chủ nghĩa cộng sản, vào lư tưởng cộng sản, vào sự lănh đạo của Hồ Chí Minh và ĐCS, trong đó có người từng trực tiếp tham gia CCRĐ. Những uẩn khúc này cần phải được làm sáng tỏ.

 

Trong tập tài liệu Phát động quần chúng và tăng gia sản xuất của tác giả C.B. do báo Nhân Dân xuất bản năm 1955, trang 27 và 28, có bài “Địa chủ ác ghê”. Bài viết này đă được đăng trên báo Nhân Dân ngày 21 tháng 7 năm 1953 và phổ biến lại trong tập liệu này. Đúng như nhà báo Thành Tín cho biết, “các phóng viên báo chí, các nhà văn hạ phóng tham gia cải cách đă viết sẵn bài tố cáo, lên án, kết tội bà Năm rồi”.

 

 

Song Nhị

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính