Nửa Thế Kỷ Việt Nam

 

 

 

     

 

CHƯƠNG X

Đoàn Chiến Mă
Và Hành Tŕnh Lưu Đày Biệt Xứ

 

 

Khi xuống tàu Hồng Hà từ Tân cảng, xa lộ trực chỉ hướng Bắc ra Hải Pḥng, chúng tôi biết ngày đi mà không nao núng nghĩ đến ngày về. Một số người kể lại kinh nghiệm khi Việt Minh tiếp thu Hà Nội năm 1954, thành phần Quốc gia kẹt lại không di cư được và những người có liên hệ với chính quyền thân Pháp đều bị tập trung cải tạo “mút mùa”. Phần đông bỏ ḿnh nơi rừng thiêng nước độc, một số sống sót được “khoan hồng” cho đem vợ con lên rừng đoàn tụ. Vài chục năm sau họ trở thành người rừng luôn.

 

Những người gốc Bắc di cư, những người tuổi từ “ngũ thập tri thiên mệnh” trở lên họ tỏ ra “an tâm cải tạo”. Tâm lư đó lây lan sang số đông. T́nh trạng sinh hoạt và đối xử với số tù thuộc các giới chức chính phủ “ngụy quyền” tương đối dễ thở nên số tù ăng-ten không xuất đầu lộ diện công khai. Chính sách chung của các trại tù là luôn luôn t́m cách móc nối những người tỏ ra “tiến bộ” để giao một số công việc, trước khi biến những người này thành một thứ tay sai, mà việc trước tiên là giao trách nhiệm theo dơi và báo cáo mọi lời nói, mọi hành vi của mọi người cùng buồng giam với đương sự.


Trong không khí b́nh lặng của sinh hoạt trại tù tại trại 15A - TD63/QN Quảng Ninh, khoảng cuối năm 1977, một đợt tù mới từ trong Nam được chuyển tới. Sau một thời gian cách ly nghiêm ngặt, vào một buổi trưa hai người công an dẫn một người tù lạ vào sân buồng số 8 để cho tắm rửa. Chúng tôi, người đứng ngoài sân, người nằm trong buồng giam đều hướng mắt về người bạn mới. Người bạn này tuổi khoảng dưới ba mươi. Đầu cạo nhẵn, trên cánh tay vẽ một lưỡi kiếm dài cỡ hai mươi phân từ đầu vai xuống tới gần cùi chỏ. Phần cán của lưỡi kiếm là một ngọn lửa rất sắc nét với hai chữ PQ (Phục Quốc) nằm hai bên lưỡi kiếm. Khi bước qua sân, ṿng ra hồ tắm phía sau, người bạn nói với cả buồng, nói cho mọi người nghe, giọng nói rắn chắc: “Hăy ngẩng đầu lên mà đi các anh ơi. Người này chết có người khác đứng lên”. Tắm rửa xong, công an dẫn người bạn về buồng riêng. It lâu sau số tù Phục Quốc này được chuyển đi trại khác. Việc chuyển tù đi và đến luôn luôn được thực hiện vào ban đêm, v́ vậy ít khi tù cũ biết được “khách mới” thuộc thành phần nào.


Cũng tại buồng số 8, trại 15A -TD63/QN, h́nh như là vào mùa đông năm 1977, một buổi sáng chủ nhật, từ pḥng bên cạnh có người buộc một miếng giấy xếp nhỏ vào cục đá liệng sang sân buồng số 8. Miếng giấy ghi mấy hàng chữ cho biết “những người khách mới” ấy là các linh mục, kèm theo một yêu cầu: “Các anh có thuốc lá cho xin mấy điếu và chút lửa. Lạnh quá!”. Anh em chúng tôi liền buộc một cái hộp quẹt với bao thuốc đă bóc dở liệng sang. Một hai ngày sau đó, tôi không nhớ chính xác, người quản giáo đội may (may hàng xí nghiệp quốc doanh Hải Pḥng), gọi bác Lê Hoài Nam và tôi ra sân băi phía ngoài xa cật vấn:

– “Hôm chủ nhật người nào đă liên lạc với “phạm” ở buồng kế bên?”

 

Bác Nam và tôi trả lời, “Tất cả anh em gom mấy điếu thuốc buộc vào cục đá liệng sang cho, sau khi họ xin v́ thèm thuốc và lạnh quá”. Viên quản giáo tin, và chúng tôi trở về buồng. Tôi biết người báo cáo là một tay trong tổ may do tôi làm tổ trưởng kỹ thuật. Mấy tiếng đồng hồ sau, tôi nói với 40 người trong pḥng may:

- “Hôm chủ nhật anh em chúng ta cho pḥng bên cạnh mấy điếu thuốc lá thế mà có người đă báo cáo lên Ban Giám thị”.

 

Tôi nh́n thẳng vào mặt anh tù ăng-ten mà nói

- “Hăy ngẩng mặt lên mà nh́n anh em. Sao lại cúi gầm mặt xuống như thế. Anh em chúng ta không làm việc ǵ sai trái th́ không có ǵ để sợ”.

 

Một tháng sau người tù ăng-ten, gốc là một Th/tá bài trừ ma túy BTL/CSQG này xin đổi sang một đội lao động cuốc đất.


* * *

 

Từ kinh nghiệm sống, từ thế thái nhân t́nh, từ những những cảnh ngộ quặn thắt do chính con người gây nên, đổ ập lên đồng loại, người xưa đă đưa ra những mẫu mực đạo đức, những lời răn dạy mà đến hàng ngh́n năm sau vẫn là khuôn vàng thước ngọc cho việc tu thân, cho đạo lư, cho trật tự của mỗi cộng đồng nhân loại. Cái đáng giá của con người không phải là tiền của, sự giàu có, hay chức tước địa vị trong xă hội. Những thứ này rất quư nhưng phải đi đôi với nhân cách, phải tương xứng với nhân phẩm: “Phú quư bất năng dâm. Bần tiện bất năng di. Uy vũ bất năng khuất”.


Năm 1968 sau luật Tổng động viên ban hành, tôi rời bục giảng, khăn gói vào quân trường. Trong khóa tôi có một số tân khóa sinh đang là giám đốc ở các bộ, các nha sở, một số là giáo sư Trung học, vài ba người là giảng viên, phụ khảo đại học, là Giám đốc Gia Cư Liêm Giá Cuộc, là Công Cán Ủy Viên Phủ Tổng Thống.... Chỉ trong ba tháng đầu chung đụng, tôi đă nghiệm ra rằng con người khi cởi bỏ lớp “áo mũ cân đai”, thay đổi danh xưng thứ bậc mà xă hội “tạm thời ban trao”; khi lột hết lon lá, gom lại trong một tập thể xô bồ từ phó thường dân đến quan quân, b́nh dân hay trí thức..., con người dễ dàng để lộ chân tướng mà lúc b́nh thường, lúc đang thời (lên voi) đă được áo măo, cân đai, lon lá, chức tước, địa vị phủ trùm, che đậy.


Chín tháng quân trường, thời gian tuy ngắn ngủi, nhưng đó là một trường đời mà quân đội đă rèn luyện cho tôi trưởng thành về nhiều phương diện từ thể chất, kinh nghiệm sống, vốn liếng chuyên môn đến bài học làm người, giúp tôi cách xử thế hài ḥa với trên dưới tại một đơn vị hành chánh, có đủ quân, cán, chính, từ anh lính trơn đến các ông tướng, tá, trong hơn năm năm làm việc cho tới ngày miền Nam ră ngũ.


Biến cố bi thảm 30.4.1975 khiến tất cả mọi nền móng của miền Nam sụp đổ, mọi tầng lớp, mọi thành phần trong xă hội bị đẩy vào một cuộc đổi đời điên đảo. Tất cả những người thuộc thành phần ưu tú trong mọi ngành, mọi giới bị xua vào trại tập trung cải tạo. Đến lúc này tôi lại nhận ra được cái trường đời, nơi quân trường những năm xưa cũ ấy chỉ dạy cho tôi những bài học sơ đẳng về nhân cách làm người. Nhà tù mới chính là nơi để thử thách, để chịu đựng và để mỗi con người chứng tỏ ḿnh c̣n xứng đáng với nhân cách làm người hay không?


Tôi vào trại tập trung tại Làng cô Nhi Long Thành sáng sớm tinh mơ ngày 17 tháng 6 năm 1975. Dưới lớp sương mù dày đặc phủ trùm ngọn đồi, các loại xe từ các nơi đổ về, thả xuống trên ba ngàn hai trăm (tôi nhớ không chính xác lắm là 3.252) người, mang cấp bậc, chức vụ từ Phó Trưởng Ty đến Phó Tổng Thống, theo thông cáo kêu gọi tập trung “ngụy quân ngụy quyền” của Ủy Ban Quân Quản Sài G̣n Gia Định. Những người “cao nhất” trong số hơn 3200 con người “hết thời” ấy có Chuẩn Tướng Bùi Văn Nhu của Bộ Tư Lệnh CSQG, Ông Trần Trung Dung, nghị sĩ, cựu Bộ Trưởng Quốc Pḥng thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, Tướng Huỳnh Văn Cao, Nghị sĩ... Nhiều “tai to mặt lớn” khác đều có mặt đầy đủ tại đây, kể cả ông Nguyễn Xuân Phong, trưởng phái đoàn ḥa đàm Paris.


Bài này không phải là một loại hồi kư nên tôi không tŕnh bày thêm các chi tiết khác. Tôi muốn nói về “Bài Học Làm Người” trong hoàn cảnh này. Hẳn những ai có mặt tại Long Thành vào thời gian từ 17 tháng 6-1975 đến giữa năm 1976, (từ tháng 6 -76 bắt đầu chuyển trại phân tán số tù nhân này) c̣n nhớ những “bài học” do đám cán bộ “giảng huấn” từ Hà Nội đưa vào. Trong số này có cả Hoài Thanh, tác giả tập “Thi Nhân Việt Nam” xuất bản năm 1940. Trong bài thuyết tŕnh, Hoài Thanh tỏ vẻ lịch sự hơn, ông ta bi bô về những ngày “gặp bác, làm việc với bác, nói chuyện với bác”, ông ta tránh những “đụng chạm” đến những thành phần ưu tú của miền Nam mà tôi tin chắc là ông ta đem ḷng kính nể.


Một “giảng viên” khác tên là Tâm, cung cách ăn nói cũng biết điều hơn. Ông ta khoe thành tích cho đảng, cho bác, cho XHCN, rồi tự khoe ḿnh: “Tâm này nhờ trời có những người con trai cũng đă học hành đỗ đạt...”. Cả hội trường rộ lên cười. Mọi người quay sang nói với nhau “Cộng sản mà cũng tin nhờ trời à”.


Một “giảng viên” khác có lẽ xuất thân từ một bần cố nông, nhân cách miệt vườn, khi có cơ hội lên mặt, vênh váo. Hẳn những ai ở trại tập trung Long Thành c̣n nhớ những lời “giảng dạy” của viên cán bộ cộng sản này. Đứng trước hơn ba ngàn người trí thức miền Nam, “nhà trí thức XHCN” ấy dơng dạc “phun châu nhả ngọc”:

- “Các anh là một thứ ḍi bọ, là những con lợn đang chúi đầu vào máng giành ăn. Khi ngẩng đầu lên th́ lưỡi lê đă kề bên cổ. Nhưng các anh không bị giết. Cách mạng khoan hồng. Chính sách của đảng và nhà nước là cải tạo các anh. Khi chân giẫm phải cứt th́ phải rửa sạch, chẳng lẽ đem chặt bỏ đi. Cách mạng phải tẩy rửa những nhơ nhớp nơi các anh. Cải tạo các anh thành con người lương thiện...”


Những lời lẽ “châu ngọc” này phát ra từ miệng một cán bộ cao cấp cộng sản, những bài học thế này làm sao không nhớ, làm sao có thể quên?


Trong khi “cách mạng” công khai tuyên bố chủ trương cải tạo, tẩy rửa những “ô uế” nơi con người trí thức miền Nam như vậy th́ một thiểu số trong hơn ba ngàn người ở trại tập trung này bắt đầu lộ rơ bản chất. Một anh, từng là quyền Trưởng Ty Dân Vận Chiêu Hồi tỉnh Gia Định tối ngày xum xoe cầm một cái cặp giấy lẽo đẽo theo sau Hai Côn, Giám thị trưởng trại tập trung Long Thành. Anh ta lột xác trí thức, bất chấp cái nh́n không thiện cảm của mọi người xung quanh.


Chủ trương “khoan hồng của cách mạng”, chủ trương “tẩy rửa nhơ nhớp” ở những con người “ngụy quân, ngụy quyền” đă được chính những con người như thế trong hàng ngũ người tù tự nguyện tiếp tay một cách đắc lực, “bảo hoàng hơn vua”. Đêm đêm từ các dăy nhà giam trên cả ngọn đồi vang lên tiếng đồng ca được lặp đi lặp lại: “Nay mới biết đế quốc Mỹ là quân xâm lược. Bọn ngụy quyền là lũ tay sai. Bao nhiêu năm cúc cung tận tụy miệt mài. Cứ ngỡ rằng ḿnh lo việc nước...” (nhạc và lời Vũ Thành An).

 

Bài hát c̣n dài. Tôi chỉ nhớ được mấy câu này. Người nhạc sĩ “Không Tên” một thời của Sài G̣n đă thực sự bán linh hồn từ bài hát này, từ những ngày c̣n “chân ướt chân ráo” vào tù so với thời gian trên dưới 10 năm tiếp theo.


Tôi được “biên chế” vào danh sách chuyển trại đợt II, xuống tàu Hồng Hà từ Tân Cảng, Xa Lộ khuya ngày 29-10-1976 tới cảng Hải Pḥng đến Quảng Ninh ngày 4-11-76. Lần chuyển trại đợt I vào 18-6-76. Các quan chức cao cấp trong chính quyền cũ, những nhân vật mà cộng sản đánh giá là quan trọng được chuyển đi vào đợt đầu tiên này. Họ đi bằng máy bay ra Hà Nội rồi từ đó mới chuyển đi các trại.


Người nhạc sĩ “không tên” không c̣n ở chung trại. Tôi được nghe nhiều anh em kể thêm những “thành tích” của người nhạc sĩ “không tên” tại những trại khác, từ Nghệ Tĩnh đến Hà Tây. Tại một trại tù ở miền Bắc, Tr/tá Dương Diên Nghị đă can ngăn, nếu không người nhạc sĩ này đă được Th/tá Ng V. Th. ra tay “hỏi thăm sức khỏe” tận t́nh.

 

Ngày tàu Hồng Hà cập bến Hải Pḥng, tôi chỉ kịp nh́n thấy một đám công an mặc đồ “đại cán” có mấy con chó Berger ra đón... rồi mê man luôn. Tôi được kéo lê trên băi cát từ cầu tàu lên băi, rồi được anh em bê lên bỏ nằm sóng soài giữa sàn xe. Những người c̣n tỉnh táo được c̣ng tay cẩn thận vào thành ghế. Hai bên hông xe được che bằng hai tấm vải màu đen kéo từ phía đầu xe đến sau hàng ghế cuối. Đoàn xe về đến Quảng Ninh, khu vực gần Móng Cái, sau một lộ tŕnh băng qua đường rừng. Trại nằm trong một thung lũng, bốn bề là những ngọn núi cao ngất vây quanh. Đây là trại giam những tù binh miền Nam bị bắt tại mặt trận Hạ Lào, trong số có đại tá Hoàng Đ́nh Thọ, vừa được chuyển đi một tuần lễ trước đó. Đại Tá Thọ được nhắc đến nhiều lần trong những dịp ban Giám Thị nói chuyện với toàn thể tù cải tạo.


Tới nơi tôi được khiêng xuống xe. Một người bạn cùng cơ quan đổ vào miệng tôi, h́nh như là nước chanh hay một thứ nước ǵ đó, không phải là nước lă. Tôi từ từ tỉnh lại, nhập chung vào ḍng sinh hoạt mới của đoàn tù biệt xứ. Mấy ngày sau, khi mọi người đă lấy lại chút sức lực, đă hoàn hồn, trại tổ chức “học tập”, thảo luận về chính sách “khoan hồng nhân đạo” của đảng, thể hiện qua lần chuyển trại này. Có nhiều ư kiến chung chung, vô thưởng vô phạt. Có mấy lời phát biểu a dua theo ư muốn mục đích và chủ đề của buổi thảo luận. Một số anh em chúng tôi nói nhỏ với nhau cứ thí cho nó mấy câu để nghỉ sớm, nhưng chẳng anh nào chịu lên tiếng. Một bất ngờ. Anh Phạm Dương Đạt, một sĩ quan TQLC giơ tay xin nói:

- “Chúng tôi đă được cách mạng khoan hồng, đối xử với chúng tôi c̣n thua một con thú vật. Chúng tôi bị nhét xuống dưới gầm tàu với chút ánh sáng mù mờ. Chúng tôi nằm chen chúc nhau, lẫn lộn, nhầy nhụa với phân và nước tiểu, với những đống hèm do nhiều người ói mửa ra v́ say sóng. Chính các cán bộ mỗi lần xuống kiểm tra phải dùng đèn pin và mang khẩu trang để tránh bị nhiễm trùng, để khỏi ngửi mùi tanh, mùi hôi thối. Một người chăn nuôi gia súc khi vào chuồng tôi thường thấy họ không cần mang khẩu trang như các cán bộ. Trong bốn năm ngày rùng rợn đó, nhiều người trong anh em chúng tôi muốn chết, muốn tự tử, nhưng không chết được. Chúng tôi đă phải sống để chịu một sự hành h́nh khủng khiếp nhất trên trần gian....”


Vài tuần lễ sau, anh Đạt được gọi ra khỏi buồng giam, đem theo tư trang cá nhân để chuyển trại. Anh bị đưa đi đến đâu, cho tới nay nhiều anh em chúng tôi không biết. Anh biệt tích từ đó.


Trong một buổi “văn nghệ mừng xuân” đầu năm 1977 cũng ở Quảng Ninh, người nghệ sĩ có biệt tài thổi Armonica bằng hai lỗ mũi và nhái tiếng heo la, chó sủa, đă lên trước đám đông bạn tù, trước nhiều công an, quản giáo, trật tự... trổ tài thổi kèn, kèm theo câu chuyện góp vui như sau:

-“Một gia đ́nh nọ mừng xuân đón tết đă mổ thịt một con heo. Con heo bị trói bốn cẳng, xách ngược lên la rầm trời (nhái tiếng heo la). Heo được đặt trên một tấm ván, lật ngửa cổ lên, đầu giộng xuống. Rồi lưỡi lê dí vào cổ, thọc mạnh (nhái tiếng heo kêu la vang lên rồi nhỏ dần), lưỡi lê lún sâu vào. Máu ọc ra trào xuống chậu (tiếng heo kêu ứ ự rồi tắt hẳn). Thịt heo được bày soạn ra trong một bữa ăn tết linh đ́nh. Thỉnh thoảng người ngồi ăn thả xuống gầm bàn một cục xương. Hai con chó nuôi trong nhà giành nhau ăn, xuưt gây gổ sinh lớn chuyện. Người nhà thả xuống một cục xương khác, hai con chó ngoạm hai cục xương, dang ra hai phía nằm nhai (Tiếng hai con chó vừa nhai vừa gầm gừ). Bỗng đâu một con chó Berger, giống chó ngoại xông vào nhà giành cục xương. Thế là một trận ẩu đả dữ dội diễn ra giữa hai phe chó. Con chó berger ỷ thế lớn con lấn tới, nhưng hai con chó nhà liều lĩnh, can trường, lợi dụng thế nhỏ con luồn lách, xông vào cắn lén, nhảy ra cắn những cú bất ngờ làm con chó ngoại bị nhiều đ̣n đau, đành phải nhả cục xương. Con chó Việt Nam anh hùng đă thắng con chó berger lớn tướng...”


Câu chuyện vừa dứt, tiếng vỗ tay rền vang cả khu rừng. Mọi người thấy khoái trá, lấy làm hả dạ, mấy anh em tôi bấm nhau ái ngại cho anh chàng nghệ sĩ tài tử cao lều khều gần 1m 80 này. Anh thổi Armonica điêu luyện, kể chuyện dí dỏm, lôi cuốn, ư nghĩa thâm trầm. Đặc biệt anh nhái tiếng gà gáy, tiếng lợn la, tiếng chó sủa, tiếng chó gầm gừ cắn nhau, qua cái micro th́ tuyệt. Nếu người nào không nh́n thấy màn tŕnh diễn mà chỉ nghe âm thanh phát ra th́ chắc chắn cứ tưởng đó là tiếng chó sủa, tiếng heo la thật.


Tương tự trường hợp của Phạm Dương Đạt, khoảng hai tuần lễ sau, công an đến mở cửa buồng giam, gọi tên: Nguyễn Nhượng mang theo đồ đạc cá nhân ra khỏi buồng. Khi Nguyễn Nhượng bước ra thềm, hai công an đứng sang hai bên, hai cái nón cối lô nhô ngang tầm nách Nguyễn Nhượng. Một công an gằn giọng “Anh theo chúng tôi”. Khi về Sài G̣n tôi mới hay tin Nguyễn Nhượng được chuyển về trại Thanh Cẩm cho tới ngày được thả. Cũng giam nhốt vậy thôi.


* * *

Sau những bài viết đăng trên Trang Văn Học Cội Nguồn, nhật báo Việt Nam Thời Báo, đă được bạn đọc chú ư theo dơi. Tôi được nhiều độc giả hỏi thăm và có những lời khích lệ nồng nàn. Một độc giả vốn là người từng đi qua những trại cải tạo mà tôi đề cập đến trong bài viết đă nhắn lời đến người phụ trách, đại ư cho rằng: bài viết rất chính xác, vô tư, không có những lời lẽ lên án gay gắt, lập luận nhẹ nhàng so với những ǵ mà bạn đọc đó từng trải qua, từng chứng kiến.


Một e-mail gửi đi ngày 6 tháng 10. 2003 của một bạn văn trong làng viết lách. Ông bạn này không ở quận hạt Santa Clara với tôi nhưng cũng có được tờ Thời Báo cuối tuần. Đọc bài viết của tôi, ông gửi cho tôi Email, nội dung:

"Lăo Trượng thân,

“Hôm nay có được tờ Thời Báo, nằm đọc, và đọc bài “Nhân vụ Bùi Đ́nh Thi, Nghĩ Về Nhân Cách Làm Người”. Đọc đến đoạn anh nói với ông NXP (?) rằng: “Nếu anh c̣n nói lại câu đó lần nữa, tôi sẽ trở cán cuốc phang vào đầu anh”. Khoái quá, tôi bỏ tờ báo xuống, và viết cho anh ngay mấy gịng nầy, kẽo rồi đọc xong, quên mất.


“Chuyện khổ đau cùng cực trong trại cải tạo, c̣n chưa nói hết, và chỉ viết được một phần nào thôi. Dù đă có Hà Thúc Sinh, Phạm Quang Giai, Tạ Tỵ vân vân, cũng vẫn là mới một phần nào đó thôi. Chưa đủ. Như chuyện Đức Quốc Xă diệt Do Thái, bây giờ vẫn c̣n nhiều người viết, nhiều người nhắc nhở, để các thế hệ về sau c̣n biết, và biết để tránh. Thế mà có rất nhiều người VN tị nạn Cộng sản bắt chước giọng điệu của Cộng Sản, nói rằng chuyện cũ th́ nên quên đi, quá khứ cho về quá khứ, không nên khơi lại mối đau thương nữa. Họ nói không nên trao ngọn đuốc hận thù cho thế hệ con cháu. Đó là luận điệu của Cộng Sản đưa ra, để lấp liếm tội, và người không là Cộng Sản vô t́nh lặp lại. Có thể họ là những người có tấm ḷng, nhưng chưa nghĩ đến ngọn nguồn.


“Chuyện sai lầm cũ, cần được nhắc nhở, nhắc nhở trong sáng suốt, để con cháu sau nầy đừng bước vào con đường cũ, sai lầm cũ. Và thấy cả hai chiều, thấy nhiều mặt, không phải chỉ thấy theo chiều hướng có lợi cho CS mà thôi. Nhắc lại không phải để khơi dậy hận thù, để chia rẽ dân tộc, v́ người ngoài Bắc, c̣n tội nghiệp hơn người trong Nam, đều là nạn nhân của chế độ CS. Chúng ta kết tội CS, chứ không kết tội người ngoài Bắc. Nếu có tạo nên t́nh cảm ghét bỏ cộng sản, th́ không phải là tạo nên chia rẽ dân tộc. Nh́n về các xứ là cái nôi của CS, nay họ ghét CS hơn là những nước chưa hề có CS, và những người CS cũ, nay cũng viết rất nhiều sách, đưa ra ánh sáng rất nhiều tài liệu, để phơi bày cái vô luân, cái xấu xa của CS cũ.


“Anh có th́ giờ, có những suy nghĩ chín chắn, và đă kinh qua đoạn đời ch́m đắm trong địa ngục đó, nên viết tiếp, và viết nhiều, làm gia sản cho các thế hệ mai sau. Những người không có khả năng viết, những người chưa trải qua kinh nghiệm, sẽ biết ơn những cây viết đă ghi lại sự thực trong một giai đoạn lịch sử đau thương của nước nhà”... [tramcamau2003@yahoo.com].


Xin cảm ơn ông bạn. Thật ra, tôi không có ư định viết hồi kư mà chỉ viết “feuilleton” cho trang Văn Học nghệ thuật của Cội Nguồn trên nhật báo Việt Nam Thời Báo. Trong mười năm qua, từ ngày đến Mỹ, tôi chỉ nghe ngóng, chiêm nghiệm lẽ đời, qua những chặng đường từng đi qua, từng trải nghiệm. Cũng v́ - như ông bạn nói, tôi “đă kinh qua đoạn đời ch́m đắm, ngụp lặn trong địa ngục đó”, nên nhân vụ Bùi Đ́nh Thi, những âm ỉ ấy bùng lên, thôi thúc tôi viết tiếp. Những âm ỉ ấy tôi mang theo từ ngày ra khỏi trại tù Z30A cách đây hai mươi năm. Những âm ỉ ấy tôi cưu mang suốt mười năm lưu lạc.


Cuộc sống cơm áo và tiện nghi trên một xứ sở giàu có như Hoa Kỳ, trong những năm qua đă không cho tôi thực hiện được ư định cầm cây viết để bộc bạch tâm tư, kể chuyện với đời. Vừa qua, nhân vụ Bùi Đ́nh Thi “làm xúc tác” tôi mới có hứng khởi tiếp tục hoàn thành bản thảo. Tôi viết như một trao gửi đến những ai – hôm nay và mai sau – muốn biết về một thời chiến tranh, chia cắt, thù hận, tù đày, tan tác chia ly... mà cả một thế hệ chúng ta là người trong cuộc.


Nhân đây tôi xin được cải chính ông Sứ Thần Ngoại Giao, người mà tôi định “tặng” cái cán cuốc ấy không phải là ông Nguyễn Xuân Phong. Ông Phong chỉ ở cùng trại với tôi ở Long Thành, khi ra Bắc tôi không gặp. Sứ Thần Ngoại Giao theo tôi hiểu là một ngạch trật được bổ nhiệm cho một công vụ nào đó.
Ông ta tên là Trần Ngọc D. “đi sứ” tại San Francisco. Người em ruột của ông Phong là Nguyễn Xuân Thu, Tổng Giám đốc Air Việt Nam, tôi quen biết, cùng ở Long Thành, ra Bắc ở cùng trại với chúng tôi.


Tôi rất đồng ư với ông bạn về quan điểm cho rằng đây không phải là khơi gợi lại hận thù. Người xưa nói “ôn cố tri tân”, đem chuyện xưa mà so với chuyện hôm nay để từ đó rút tỉa kinh nghiệm, bồi bổ cho cuộc sống thêm phần tốt đẹp. Nhắc lại quá khứ, quá khứ vinh quang của dân tộc hay quá khứ của những bài học máu xương không phải để lặp lại, để tái diễn những màn ân oán trả vay, mà để các thế hệ đi sau xem đó là bài học làm người, mà tránh những sai lầm lịch sử.


Có ư kiến cho rằng phủ nhận quá khứ là thái độ vô ơn, bội bạc. Tôi vẫn thường nói với mọi người rằng chúng ta không nên hận thù quá khích, chúng ta không chủ trương tiêu diệt người cộng sản nào, mà phải làm cho người cộng sản thấy được những sai lầm lịch sử của chính họ. Phải làm cho mọi người Việt Nam, kể cả người cộng sản nhận rơ được rằng chủ nghĩa cộng sản, dựa trên những luận điểm phản logic, lỗi thời, là nguyên nhân đưa đất nước và dân tộc đến thảm họa chiến tranh Nam Bắc, chia rẽ, hận thù, phá sản t́nh tự giống ṇi. Khi mọi người nhận chân được căn nguyên cội rễ của vấn đề, chủ nghĩa cộng sản sẽ cáo chung. Và khi không c̣n chủ nghĩa cộng sản nữa th́ mọi người Việt Nam là con dân một nước. Hàng trăm triệu người dân Nga, Đông Âu, Đức, Mông Cổ sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, tất cả là con dân của đất nước họ. Hàng trăm triệu con người đó thoát ra khỏi ṿm đen tăm tối ngột ngạt của dối trá, lừa gạt, khốn cùng, câm nín để làm một cuộc đổi đời buớc tới một chân trời tự do rộng mở.

 

Từ chủ trương đổi mới của Gobachev; từ ng̣i nổ do Công Đoàn Đoàn Kết tại Varsava lật đổ chế độ độc tài chuyên chế Ba Lan đă mở màn cuộc cách mạng từ Liên xô, Đông Âu, Mông cổ, Đức quốc vào năm 1989, xóa bỏ thành tŕ XHCN và chủ nghĩa cộng sản sau 70 năm tồn tại. Từ Mạc Tư Khoa ng̣i nổ giây chuyền tràn qua Bulgaria, Budapest, Romania, rồi đến Đông Đức, Albania, Mông Cổ làm một cuộc đổi đời ngoạn mục, giải phóng hơn một phần ba nhân loại thoát khỏi gông xiềng ư thức hệ cộng sản để được hít thở dưới bầu trời tự do, sống một sống có ư nghĩa.

Ngược lại cuộc đổi đời của dân tộc Việt Nam sau năm 1975 măi măi về sau c̣n in đậm một dấu ấn lịch sử đắng cay, đáng tủi nhục. Trên ba mươi triệu người dân miền Bắc, sau khi “giải phóng miền Nam” đă ngỡ ngàng nhận ra ḿnh bị dối lừa, phỉnh gạt. Hơn ba mươi triệu người dân miền Nam đang từ cuộc sống tự do, ấm no sung túc bị bần cùng hóa, bị tước đoạt mọi thứ để trở thành một loại thứ dân, một thứ nô lệ, tệ hại gấp trăm ngàn lần dưới thời phong kiến, thực dân.

 


Những Nhân Vật Nổi Cộm


Thời gian ở trại Quảng Ninh có những điều “bất thường” khiến tạo thành những dư luận bàn tán xôn xao trong số tù Cải tạo. Sau một hai tuần lễ đầu thấy trại cung cấp bánh kẹo, thuốc lá, những bữa ăn ba bốn món, thịt heo đông, dưa hành, canh bí, rau xào.... Một tù Nam, gốc Bắc di cư đă “buột miệng”: “Nếu biết đi tù cách mạng mà như thế này th́ ai cũng muốn đi”. Câu nói nghe qua, tưởng như một chút đùa chơi, song không những nó thể hiện một góc nhân cách làm người mà c̣n bộc lộ tư tưởng thỏa hiệp v́ miếng ăn, huống chi trước những lợi lộc khác được làm mồi mua chuộc. Điều mà nhiều anh em chúng tôi xầm x́ với nhau từ hơn mười năm qua là đương sự đă cố ư giấu diếm ngày lên máy bay đi H.O sang Mỹ và một số anh em bạn quả quyết là hai ngày trước khi lặng lẽ trời Sài G̣n đương sự đă có “làm việc”, tiếp xúc mật với... ai đó. Đây chỉ là tin “thu lượm” ngoài hành lang, hư thực không thể quả quyết. Tuy nhiên, tôi sẽ đề cập đến một số trường hợp mắt thấy tai nghe, những vụ tù cải tạo được móc nối từ trong trại để cho ra nước ngoài hoạt động nằm vùng.


Ở trại Long Thành chỉ mới có những “bài học vỡ ḷng” qua chủ trương nới tay, thả lỏng. Pḥng giam không có cánh cửa đóng mở, không có khóa, ra vào thoải mái, có thể đi dạo loanh quanh, có thể gặp nhau chuyện tṛ trao đổi, bàn bạc, tiên đoán, bói ṃ thời cuộc và vận mạng của chính ḿnh. Thỉnh thoảng mới có một lần tập họp điểm danh. Thỉnh thoảng lại có một pha ngoạn mục. Một hôm, giữa trưa giới nghiêm toàn trại, một chiếc xe jeep đến đậu trước dăy nhà kế pḥng tôi bắt khẩn cấp một người. Người bị bắt đưa đi là ông Nguyễn Chí Vy, nguyên Phó Tỉnh Quảng Ngăi, nhiệm sở sau cùng là Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo. Tin được cố ư loan truyền là “đương sự có nhiều tội ác, có nợ máu với nhân dân, đem về cho địa phương xử lư”. Một lần khác người bị bắt đưa đi là một nhân viên CIA. Một số bị đưa về Chí Ḥa giam trong pḥng tối. Hơn một năm sau thị lực của họ chỉ c̣n khoảng 30 phần trăm.


Ṿng rào trại Long Thành bao quanh chu vi cả ngọn đồi. Tường mới được xây sau ba bốn tháng kể từ ngày tù tập trung. Công tŕnh này do công nhân từ ngoài vào thực hiện. Tường cao khoảng 5 mét. Cả ngọn đồi này bị bỏ hoang từ sau ngày Tư Sự bị bắt và Làng Cô Nhi bị giải tán, do loạt bài Phóng sự điều tra của một tờ báo, tố cáo nhóm Tư Sự núp dưới chiêu bài từ thiện để hoạt động cho cộng sản. Tại Long Thành “học viên” được tŕnh chiếu cho xem những cuốn phim về sinh hoạt, lao động và các biện pháp kỷ luật trong các trại tù cải tạo ở miền Bắc. Những phim về Hợp Tác Xă, về lao động XHCN.... Dĩ nhiên đây là những cuốn phim được giàn dựng có chủ ư tuyên truyền, nhưng với loại tù cải tạo mới ở miền Nam th́ đây là một thứ bài học vỡ ḷng, vừa là một thứ răn đe, chuẩn bị tinh thần cho một tương lai mà chính họ sẽ là những “vai diễn” trong đời thực.


Tôi nhớ năm 1955, trước khi mở màn các cuộc đấu tố đẫm máu ở miền Bắc, họ cũng đă cho tŕnh chiếu lưu động khắp nơi cuốn phim “Bạch Mao Nữ” (Cô gái tóc trắng), phim của Trung cộng, mô tả một cô gái ở đợ, làm công cho một gia đ́nh địa chủ, bị địa chủ đánh đập, hành hạ bằng những ngón đ̣n tàn bạo... Sau những trận roi đ̣n, cô gái trốn thoát vào rừng sống một thời gian với hoang dă, mái tóc dần dần ngă bạc, khi trắng hết cả đầu th́ cô gái trở về trong phong trào tiêu diệt địa, trí, hào (địa chủ, trí thức, cường hào). Cô gái năm nào ở đợ làm mướn, bấy giờ là một cốt cán của phong trào. Cô t́m người chủ cũ, trả mối thù xưa. Bà chủ bị đem ra đấu trường cho cô gia nhân năm xưa thẳng tay đấu tố, hành hạ đến chết.


Câu chuyện đổ nước mắm vào lỗ mũi, bắt nuốt sống con mèo phi lư đến thế nhưng đám bần cố nông tin lắm. Biết bao nhiêu câu chuyện tội ác hoang đường được dựng đứng, đổ lên đầu địa chủ ở miền Bắc. Và biết bao gia đ́nh địa chủ đă tan nát, nhiều người dân vô tội đă bị giết oan dưới sự “chỉ đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ vĩ đại”.


Những cảnh trong phim mà tù cải tạo miền Nam được cho xem trước, quả thật khi ra tới “thiên đường miền Bắc” họ tiếp cận ngay từ hôm đầu đặt chân đến Quảng Ninh. Ngay trong buổi chiều đầu tiên mới tới, trong không khí im lặng của núi rừng, đoàn tù miền Nam ngơ ngác nh́n sang bên khu B, trên năm trăm phụ nữ, phần đông tuổi trên dưới ba mươi, mặc đồng phục đi lao động về. Họ ồn ào chộn rộn, ríu rít có vẻ rất hồn nhiên, cứ tưởng như là đoàn thanh niên tiền phong, cháu ngoan “bác” Hồ đi lao động XHCN về.


Một tù cải tạo miền Nam hỏi quản giáo: “Bên kia là thanh niên đi lao động về hả cán bộ”? Câu trả lời nhát gừng: “Thanh niên cái ǵ, tù nữ đấy”. Về sau một số tù nữ ấy gánh cơm, nước đến cho các buồng, hàng ngày đến gánh phân và nước tiểu từ các buồng giam dọn đem ra ngoài sân băi, nơi mỗi ngày tù tập họp điểm danh đi lao động. Người cộng sản họ tránh hai chữ “tập trung” (concentrate) mà thế giới từng lên án các trại tập trung của Đức Quốc Xă nên họ gọi là “tập kết” (regroup).

Những khi không có công an đi theo, các tù nữ gánh cơm đến, chúng tôi gợi chuyện hỏi thăm. Các cô rất bặt thiệp. Một cô vừa nói vừa mếu máo: “Quê em ở Quảng B́nh, em năm nay 26 tuổi. Em bị giam hơn năm năm rồi. Chúng nó bảo em không chịu lao động sản xuất mà đi buôn bán để t́m cách liên lạc với địch”. Nói xong cô ̣a lên khóc. Có mấy cô gốc Hải Pḥng, trong những lần văn nghệ tổ chức cho tù “giải trí”, các cô hát bài “Đi Mô Cũng Nhớ Về Hà Tịnh” của Nguyễn Văn Tư, bài “Xây Hồ Kẻ Gỗ”, bài dân ca “Giận Th́ Giận Thương Th́ Thương”, bài “Từ Mạc Tư Khoa Nghe Câu Ḥ Nghệ Tĩnh” v.v... thật tuyệt. Phải nói là không thua ǵ những giọng hát chuyên nghiệp. Hỏi ra mới biết mấy cô này cùng một tay đờn mandoline (cũng có mặt tại Quảng Ninh) bị bắt v́ họp nhau hát nhạc vàng, uống bia hơi và tổ chức những tṛ vui chơi lăng mạn. Có rất nhiều cô gái trẻ, nhan sắc rất đáng tự hào để đi dự thi hoa hậu do báo Thiếu Niên Tiền Phong tổ chức. Ngày đó tôi thầm nghĩ, nếu các cô này tốt số sinh trưởng ở miền Nam th́ chắc có thể là những mệnh phụ phu nhân của các ông quyền quư, biết đâu! Sự tiếp xúc liên hệ giữa tù h́nh sự và tù chính trị bị hạn chế và kiểm soát rất chặt chẽ. Họ chỉ có thể trao đổi đôi ba câu trong những lần nhận cơm nước như vậy...


Trong hơn hai năm ở Quảng Ninh không có biến cố nào nổi bật trong sinh hoạt của tù miền Nam. Tết Bính Th́n 1976, cái tết đầu tiên ở miền Bắc, chúng tôi nhận được thư và quà của gia đ́nh gửi từ khám Chí Ḥa, Sài g̣n. Chuẩn Úy công an tên Tốt trước khi phát quà đă tập họp chúng tôi lại thuyết giảng về chính sách “nhân đạo” của đảng. Nhưng trong câu chuyện có nhiều chi tiết tôi muốn nhắc lại đây. Ch/úy Tốt cho biết chính ông là người vào Sài G̣n nhận mấy tấn quà tại Chí Ḥa chở về Quảng Ninh. Ông ta nói có vẻ rất thành thật:

- “Điều trước tiên tôi nhận thấy là gia đ́nh các anh dành tất cả ḷng thương yêu cho các anh, không chỉ là vợ con, cha mẹ các anh mà c̣n nhiều lắm những người quan hệ thân thuộc khác. Nếu chúng tôi ở hoàn cảnh các anh hiện nay, chắc chắn chúng tôi không nhận được sự quan tâm của vợ con, gia đ́nh như thế này đâu. Có thể chúng tôi chẳng có ǵ cả, có chăng vài khúc mía, một gói lạc rang khi đến thăm gặp.


“Thái độ phục vụ của những anh được cử ra nhận số quà này về phân phối cho các anh cũng là điều làm chúng tôi suy nghĩ. Nếu như là tù h́nh sự th́ những bao quà cả tạ, cả mấy chục kí-lô-gam của các anh đă bị xé, bị bóc, bị lấy cắp nhiều lắm. Đằng này tôi thấy các anh ấy giữ ǵn, trân trọng từng bao quà, dù không phải là của chính các anh ấy.


“Tôi biết địa vị của các anh trong xă hội cũ. Giờ này các anh có nhận được nhiều quà của gia đ́nh, có được ăn Tết đầy đủ đi nữa th́ cũng không thể bằng một ngày b́nh thường của các anh trước kia. Tôi biết khi ở Sài G̣n, vào nhà hàng ăn, các anh chỉ cần bấm nút đặt món ăn, chỉ mấy phút sau máy sẽ tự động đưa thức ăn ra giữa bàn. Ăn xong chỉ cần bấm nút là có máy tính trả tiền tại chỗ....”


Người cán bộ này, một thành phần cốt cán của đảng đă rất thành thật trong nhận xét và đă can đảm phát biểu với “đối phương” những suy nghĩ của ḿnh, nhưng phần phát biểu sau cùng h́nh như ông ta nghe lỏm được từ dư luận tán tụng mức sống văn minh sung túc của xă hội miền Nam mà đảng của ông rêu rao là “phồn vinh giả tạo”. Câu chuyện đă được cường điệu hóa để nói lên cái chóa mắt của anh Mán về thành.


Hẳn mọi người c̣n nhớ sau ngày 30.4.1975 nhiều danh từ ngớ ngẩn đă được đám cán binh CS dùng phổ biến ở các đô thị miền Nam lan ra đến miền bắc như “đồng hồ ba cửa sổ không người lái”, “cái nồi ngồi trên cái cốc” (phin cà phê), thuốc lá Ba-to lu-xe... Nhiều, nhiều lắm.

 


Bà Cán Bộ Nói Tiếng… Tây

Với Ông Thứ Trưởng


Nói đến những chữ Pháp, chữ Anh được người “cách mạng” dùng theo cách phiên âm của các nhà văn, nhà báo miền Bắc trước năm 1975, đến lúc này nhắc lại có thể nhiều người cho là bịa đặt, là chuyện tiếu lâm. Sự phiên dịch để hướng dẫn quần chúng b́nh dân của các tay “ngôn ngữ học” cộng sản không biết họ dựa theo tiêu chuẩn nào. Trong khi họ vẫn theo phiên âm của Tàu để gọi nước Tàu là Trung Quốc, England là nước Anh, France là Pháp, Rusia là nước Nga, Japan là Nhật, Thailand là Thái Lan... th́ lại phiên âm nước Úc thành Ốt-x-tơ-ra-li-a; Lỗ Ma Ni là Rô-ma-ni, Bảo Gia Lợi là Bun-ga-ri-a và Cuba là Cu Ba... c̣n Tiệp Khắc (Czechoslovakia) lại gọi là Tiệp Khắc. Chẳng thế mà gọi mấy ông già “lính kiểng” là Bạch đầu quân, C̣n đám nữ du kích lại kêu là “chiến sĩ gái”; máy bay trực thăng là “máy bay lên thẳng”, Thủy quân Lục chiến là “Lính Thủy đánh bộ”, thậm chí nhà bảo sanh được dịch ra là “xưởng đẻ”.


Trong số “khách” từ trong Nam ra trại Quảng Ninh có ông Thứ Trưởng của chính phủ tám ngày (nói theo Tú Gàn) là kỹ sư Phạm Minh Dưỡng. Tôi quen biết ông từ lúc ở Long Thành. Có lần tôi và một người bạn mời ổng một ly nước Hà Thủ Ô. Uống Hà thủ ô sau một đêm, gặp lại chúng tôi ông tấm tắc khen rất hiệu nghiệm...

 

Ở Quảng Ninh ông là người suy sụp thể chất sớm nhất. Chỉ hơn sáu tháng sau, người ông sọm lại, nước da xanh bủng, nét mặt khi nào trông cũng mệt mỏi. Một hôm đi lao động về, tập họp giữa sân băi điểm danh vào trại, vài con nhái nằm im trong túi áo khoác, loại áo Cảnh Sát Dă Chiến cũ phát cho tù, bỗng nhiên kêu ré lên, như là cầu cứu, như là “báo cáo cán bộ”. Anh quản giáo nghe tiếng nhái kêu, bước lại lật túi áo lên, buộc “kẻ bắt cóc” phải thả mấy chú nhái ra. Nhái được “giải phóng” và “thủ phạm” tối về phải làm kiểm điểm. Bản kiểm điểm tự khai ghi rơ lư do “bắt cóc” mấy con nhái là v́ đói quá.


Vợ của Kỹ sư Dưỡng là một nữ giáo sư Trung học, người Pháp, là một bà đầm, là Madame Hélène, bà đang là Hiệu Phó trường Marie Curie ở Sài G̣n khi “cách mạng” về thành. Ông Phạm Minh Dưỡng từng là tổng Giám Đốc hăng giấy Cogido (Công Ty Giấy Đồng Nai), và Tổng Giám Đốc Sài G̣n Thủy Cục. Madame Hélène không bị bắt nhưng phải nghỉ việc, phải trở về mẫu quốc. Ông Dưỡng kể cho chúng tôi nghe bà bị buộc bỏ lại chiếc xe hơi Peugeot 404, không được đem về Pháp, dù đă năn nỉ xin đóng thuế.


Từ bên Pháp bà Hélène gửi cho chồng một lá thư. Thư đề đúng tên và địa chỉ người nhận, nhưng tên người gửi “lạ hoắc”. Một nữ Thượng sĩ, cán bộ Giáo dục kêu ông Dưỡng ra nhận thư. Cán bộ hỏi:

- Đây là lá thư gửi từ bên Pháp. Anh có người nào bên Pháp gửi thư cho anh?

 

Kỹ sư Dưỡng đáp:

- Ở bên Pháp th́ có vợ tôi.

- Vợ anh tên ǵ?

- Ê len (Hélène)

- Anh nói lại đi

- Vợ tôi tên là Ê Len

- Không có Ê Len nào cả.

- Vậy th́ cán bộ có thể cho tôi biết tên người gửi là ai tôi mới biết quan hệ giữa người đó với tôi.

 

Bà cán bộ giáo dục, nữ Thượng sĩ nói ngay:

- Hé lè ne

 

Đương sự phải nín cười giải thích cho cán bộ biết hé lè ne chính là Hélène vợ ông. Hélène đọc theo tiếng Pháp, chứ không phiên âm ra tiếng Việt như vậy được!


Ông Dưỡng cũng cho biết, sau khi có lệnh tŕnh diện học tập, cán bộ Cộng sản tiếp thu cơ quan họp các quan chức của Bộ giải thích chính sách của “cách mạng”, ai là kẻ có công, ai là người có tội, ông Thứ Trưởng hỏi:

- “Tôi là kỹ sư chuyên môn, không tham gia chính trị, đă thực hiện các công tŕnh công ích như đường xe lửa Xuyên Việt, đập thuỷ điện Đa Nhim, công ty giấy Đồng Nai… vậy tôi có phải đi “học tập” không?”


Viên cán bộ trả lời ông Kỹ sư và các đồng nghiệp cùng cơ quan, theo chính sách đă được chỉ đạo:

- “Nếu nói có tôị th́ một con ḅ cũng có tội với cách mạng khi nó sản xuất ra sữa nuôi các thương binh ngụy mau lành bệnh để ra chiến trường. Anh có đảm bảo được là nguỵ quyền không sử dụng những đoàn xe lửa chở quân để đánh cách mạng không? Các anh cứ đi tŕnh diện học tập chính sách của các mạng rồi trở về làm việc..”


Đúng vào lúc t́nh trạng sức khỏe suy sụp th́ kỹ sư Dưỡng được thả về. Ông được bà vợ xin Bộ Ngoại Giao Pháp can thiệp cho chồng được thả và đi sang Pháp. Khoảng giữa năm 1978 gia đ́nh một bạn tù gửi thư cho biết ông Phạm Minh Dưỡng đi theo phái đoàn các nhà khoa học Pháp sang thăm Việt Nam, để quan sát và lượng định đập thủy điện Đa Nhim. Nhân dịp này ông có ghé một vài gia đ́nh để gửi lời thăm và chúc sức khỏe những bạn tù đang trong ṿng lao lư.

 


Lê Duẩn Bảo Lănh Tù

Trường Chinh “Xù” Người Cháu


Những vụ đưa đi và thả về lẻ tẻ ở Quảng Ninh có thể kể thêm trường hợp ông Trần Tiễn Tán. Ông này nguyên là cựu Đại Úy Hiến Binh thời Đệ Nhất Cộng Ḥa đă giải ngũ. Chủ nhà thuốc tây Vườn Xoài đường Trương Minh Giảng. Ông tŕnh diện “học tập” với chức vụ Quản Lư Trị Sự Nhật Báo Quật Cường.


Trên chuyến tàu Hồng Hà ra Bắc cũng như thời gian ở Long Thành ông là người “an nhiên tự tại”, không chuyện tṛ, không phát biểu khi “học tập thảo luận”. Viết “thu hoạch” cũng chỉ qua loa. Không ai biết ông viết ǵ trong đó. Chỉ thấy đám cán bộ không hề hạch hỏi ǵ ông. Mấy ngày trên chuyến tàu biệt xứ ông là người không bị say sóng và cũng không cần biết chuyện ǵ xẩy ra xung quanh. Anh Lê Thiên Sơn nguyên là phụ tá giám đốc chính trị tờ Quật Cường, làm việc bên nhau gần năm năm, nằm vật vă kêu la trên tàu, ông làm như không hề quen biết.


Ra đến quảng Ninh cũng với thái độ “bất biết” ấy. Cho tới giữa năm 1977, vào một buổi chiều có hai công an một là cán bộ trại, một là cán bộ ở xa đến, tới tận buồng giam gọi ông mang hành trang tù đi theo họ. Hơn một tuần lễ sau, một cán bộ trại vào tổ may ngồi rề rà kể chuyện. Anh CB cho biết vừa đi công tác ở Sài G̣n mới về. Anh em chúng tôi hỏi:

- Cán bộ đi công tác ǵ?

- Tôi đưa anh Trần Tiễn Tán về.


Và điều mọi người không hề nghĩ tới lại được người cán bộ này nói huỵch toẹt:

- Ông Duẫn bảo lănh đấy các anh.

 

Thấy anh cán bộ thích kể chuyện, tính t́nh dễ dăi, ra điều mật thiết, anh em chúng tôi xúm nhau hỏi thêm. Anh CB cho biết Ông Trần Tiễn Tán có người chị hồi xưa nuôi Lê Duẫn khi Lê Duẫn nằm vùng hoạt động trong Nam. Năm 1976 Bà chị ông Tán được Lê Duẫn mời ra Hà Nội tham dự quốc khánh 2 tháng 9. Nhân đó bà ta xin Lê Duẫn cho người em được thả. Trần Tiễn Tán được thả do lệnh trực tiếp của Lê Duẫn với chỉ thị dẫn Tr.T. Tán ra Hà Nội thăm lăng “Bác”, “tham quan” thủ đô trước khi đưa về tận nhà ở Sài G̣n.


Năm 1985 sau khi được thả về, tôi cố ư đạp xe ngang qua nhà thuốc tây Vườn Xoài. Bảng hiệu cũ vẫn c̣n y nguyên. Cánh cửa sắt đóng kín, không thấy có người nào, tôi đạp xe đi thẳng. Một hôm tôi đạp xe ngang qua lúc xế chiều, t́nh cờ thấy ông Tăn đang được bà vợ d́u đi bộ trên vỉa hè trước cửa nhà thuốc tây. Ông ta bước đi chậm chạp, nặng nề, không vững. Một thời gian ngắn sau nghe tin ông đă qua đời.

 

Khác với trường hợp Trần Tiễn Tán, một người làm việc cùng cơ quan, cùng pḥng với tôi, Thiếu úy Đặng Đức Thịnh là cháu gọi Trường Chinh bằng chú hay cậu ǵ đó (người Bắc, cậu là em mẹ cũng gọi là chú). Mẹ của Đặng Đức Thịnh cũng được mời ra Hà Nội dự lễ quốc khánh năm 76. Bà này xin Trường Chinh cho đứa con được về sớm. Trường Chinh bảo “cứ để nó học cho thấm nhuần chính sách của cách mạng”. Thiếu úy Thịnh v́ vậy được học tập 9 năm nên biết rất rành mặt trái chế độ của ông chú. Anh ấy cũng đi HO, hiện định cư ở miền Đông Hoa Kỳ.
 


T C T: Ta Chưa Thua


Nói về sinh hoạt của tù cải tạo tại Quảng Ninh, phải thực tâm nh́n nhận rằng, thời gian ở trại này đám tù chúng tôi được đối xử tương đối “lịch sự” hơn cả. Chúng tôi đến Quảng Ninh ngày 4.11-1976 cho tới ngày 4-8-1978 chuyển về Thanh Hóa, thời gian hai năm đó không có người nào bị kỷ luật phải vào xà lim. Một vài trường hợp bị coi là vi phạm, là biểu hiện chống đối, như trường hợp Nguyễn Nhượng th́ chỉ chuyển trại mà thôi. Ngày mới đặt chân đến đó, chúng tôi được “tiếp đón” tương đối tươm tất. Trong buồng giam nơi đầu mỗi chỗ nằm trên bục xi măng đă được trải sẵn một chiếc chiếu rộng 80cm, một cái chăn và một mùng cá nhân c̣n mới nguyên, xếp gọn ghẽ. Trong tháng đầu, mỗi tuần lễ được phân phối bánh kẹo, thuốc lá, quần áo tù màu xanh nước biển. Áo bốn túi của Cảnh Sát Dă Chiến tồn kho từ trong Nam chuyển ra phát cho tù mặc.


Quần áo tù mới phát bắt buộc phải đóng dấu sau lưng bằng dầu hắc ín ba chữ TCT chiều dài 20cm, chiều cao 10cm. Tại buồng tôi, lúc đầu anh em có vẻ khó chịu, một số không cho đóng dấu, một số lấy áo nhà mang ra mặc. Một hôm anh Lê Quảng Lạc đang ngồi đập đá, chụm đầu vào tôi nói đủ thứ chuyện với nhau, khi đề cập đến mấy chữ đóng sau áo tù, anh ấy đứng dậy bước ra giữa sân nói với mọi người: Anh em ơi, TCT là Tù Cải Tạo, là Tù Chính Trị, nhưng TCT c̣n có ư nghĩa khác đúng hơn, hay hơn, chắc chắn hơn: TA CHƯA THUA! Cứ mặc đi các bạn, không mặc cảm ǵ cả. Từ đó mấy tiếng này được truyền đi khắp cả trại. Mọi người mặc bộ đồ tù một cách tự nhiên.


Một thời gian sau, trại bắt phải đóng dấu TCT trên thân sau áo, trên ống quần thuộc tư trang của tù. Ở buồng tôi một số ngoan ngoăn chấp hành, một số không chịu. Tôi lôi ra một chiếc sơ mi ngắn tay, một quần tây và nói với người cán bộ:

– Đây là bộ quần áo duy nhất tôi có, ngày về tôi cần có một bộ quần áo để mặc, không thể mặc đồ tù về. Nếu sợ tôi dùng bộ quần áo này để trốn trại, tôi xin gửi lưu kư. Viên cán bộ này như chợt hiểu ư và đồng t́nh, liền nói lớn.

– Anh nào không muốn đóng dấu có thể gửi lưu kư, trại giữ.

 

Mọi người đều nhao lên:

- Tôi gửi lưu kư.

 

Nhưng rồi, có lẽ việc gom quần áo của tù để cất giữ chỉ tạo thêm vất vả, phiền phức nên vụ gửi lưu kư quần áo ch́m xuồng. Chỉ có tiền bạc, quư kim và đồng hồ đều được trại cất giữ giùm. Nhưng mấy thứ này, phần đông tù đă gửi về trong dịp gặp gia đ́nh.


C̣n một việc ch́m xuồng khác nữa mà lúc đầu khiến nhiều nguời suy luận bàn tán khi trại chỉ thị đo chân và lấy số giày của tù nhân. Có một suy luận rất lạc quan tếu, cho rằng sẽ có sự thả tù cải tạo và cho xuất cảnh sang Mỹ. Cũng vậy mỗi lần thấy máy bay xuất hiện, có người cố ư la lớn lên – “Máy bay đến rước rồi anh em ơi”! làm đám công an súng dài gác tù lấy làm khó chịu.


Thời gian ở Quảng Ninh vấn đề ẩm thực của tù tuy vẫn thiếu thốn nhưng tù không có cảm tưởng bị ngược đăi để trả thù. Duy chỉ có một lần nhà bếp gánh cơm đến gọi người ra lănh và báo “tin vui” – “Hôm nay các anh ăn cơm nếp”.

 

Gánh cơm vừa được đưa vào đặt giữa thềm nhà, nh́n vào hai thúng cơm, có người ngạc nhiên kêu lên – “Hôm nay trại cho ăn cơm nếp trộn đậu đen”. Nhưng khi người chia cơm lại nh́n kỹ vào thúng cơm mới hay là cơm nếp trộn khoảng 30% cứt chuột. Một số người lượm cứt chuột bỏ ra, c̣n lại cơm ngồi nhắm mắt nuốt. Một số “bỏ của chạy lấy người”. Tôi bâng ca cơm lên, bỗng rùng ḿnh, người bên cạnh nói – Anh chê à. Tôi trao cho anh ta rồi lấy mấy mẩu bánh ḿ khô c̣n để dành được nhai nuốt, uống chén nước canh, ca nước nguội. Xong một bữa ăn, qua được một buổi và quan trọng nhất an tâm qua được mối lo sợ bệnh tật. Nhiều người v́ không thận trọng trong việc ăn uống nên đă mang bệnh, hoặc không có ngày trở về!


Sự hao ṃn thể chất đến với tù rất nhanh. Không chỉ có ông Phạm Minh Dưỡng, nhiều người bắt đầu suy kiệt sức lực. Bệnh phổ biến là phù thủng, là mất sức. Người phụ tá cho y tế trại là Bác sĩ Văn Văn Của, nguyên Đại tá Đô Trưởng Sài G̣n, người từng bị mấy tên MP (Military Police - Quân Cảnh) Mỹ làm nhục, c̣ng tay ông, sau đó đại sứ Bunker phải đích thân đến xin lỗi và mở c̣ng.


Kỷ niệm khó phai trong trí nhớ nhiều người tù ở Quảng Ninh là h́nh ảnh BS Văn Văn Của cơng từng bệnh nhân từ buồng giam lên trạm xá cho thuốc, chữa trị rồi lại cơng trả về buồng giam. BS Của c̣n đi lượm vỏ ốc, vỏ ṣ ngoài sân băi đem về buồng giam rửa sạch phơi khô, tán nhỏ rồi sao lên phát cho những người mà ông thấy đă có triệu chứng mục xương, răng bị găy, mẻ. Ông đúng là tiêu biểu của mẫu người lương y như từ mẫu. Khi ở Long Thành, BS Của là người dạy môn châm cứu cho một số anh em. Có người sau đó biết nghề, kêu gia đ́nh gửi kim châm vào và đă giúp bạn tù trong một số trường hợp, hiệu quả nhất là châm cứu trị nhức răng. Trong số những “thầy lang” tận tụy này phải kể đến anh Lê Văn Trưởng. Xin thắp nén hương ḷng tưởng nhớ cố bác sĩ lương y như từ mẫu Văn Văn Của.

 

 

Điệp khúc khai báo. Tự khai. “Làm việc”


Tại bất cứ trại nào, tù cải tạo cũng phải qua một đợt khai báo. Chúng tôi đến QN vào mùa đông, v́ vậy trong ba tháng đầu không có lao động, không “học tập”. Có lẽ họ để cho những người miền Nam quen dần với khí hậu thời tiết mùa đông vùng núi miền Bắc. Sau Tết, chúng tôi trải qua một đợt khai báo kéo dài trong sáu tháng. Mỗi ngày mọi người phải ngồi viết tám tiếng, bằng thời gian đi lao động. Trong thời gian khai báo, tù được phát thuốc lá, phát kẹo. Cấm ngặt không được quan hệ giữa buồng này với buồng kia; giữa nhà này với nhà nọ, giữa các khu, các dăy. Một cán bộ ngồi thường trực tại mỗi pḥng. Ai viết xong tờ nào, viên cán bộ thu ngay tờ đó. Người viết không được đọc ḍ lại, không có sửa chữa thêm bớt. Họ kỳ vọng khai thác được nhiều nguồn tin tức giá trị. Cho đến nay không ai biết được những chồng hồ sơ khai báo hàng trăm ngh́n trang giấy ấy họ thu hoạch được những ǵ và trong số hàng chục ngàn quân cán chính miền Nam, ai khai những ǵ, ai giấu những ǵ?


Tôi không c̣n nhớ tôi đă viết được bao nhiêu trang, nhưng chắc chắn chỉ đến số chục chứ không thể đến số trăm. Nhưng tôi lại không quên trường hợp một nhân viên làm việc cùng cơ quan với tôi (anh Lê Kiêm H.) đă ngồi viết trên ba trăm trang giấy, chưa kể số trang cán bộ đă lấy đi trước, viết xong, anh ta đóng lại và cắt xén rất gọn ghẽ trước khi giao nạp. Thời gian làm chung với tôi, khoảng hơn ba năm, công việc của anh ấy là cắt dán, làm các loại b́a (folder) để cặp hồ sơ và phiếu tŕnh Tổng Thống. Dĩ nhiên chàng không bao giờ được đọc những phiếu tŕnh ấy.

 

Có anh hỏi tôi:

- H. viết ǵ mà quá cỡ vậy? Tôi trả lời vui:

- Chắc anh chàng viết lại gia phả.


*
* *

Thời gian đúng vào ngày đổi tiền đợt hai, tôi được gọi lên cơ quan để “làm việc” với cán bộ. Với tù mỗi lần nghe nói “làm việc” là cảm thấy khốn khổ rồi. Chưa biết sẽ có những chuyện bất trắc nào đây.


Buổi sáng hôm ấy tôi đang ngồi may như thường ngày th́ một công an đến gọi tên và dẫn tôi đi. Tôi được đưa tới gặp ba anh cán bộ mặc thường phục, tự giới thiệu là thuộc Ty Công An Nghệ Tĩnh. Người thẩm vấn tôi ngày đầu tiên tỏ ra mềm dẻo. Câu chuyện mở đầu anh ta nói –“V́ lệnh đổi tiền đột ngột khi đang trên đường từ Ty ra Hà Nội nên không mua được trà hay thuốc lá để mời anh. Anh dùng tạm trà của trại”.


Rồi anh cán bộ này kể chuyện bom Mỹ và những ngày miền Bắc đă kiệt sức, Trung Ương Đảng đă tiên liệu giải pháp chấp nhận các yêu sách của Mỹ để đổi lấy ḥa b́nh. Anh ta kể khá nhiều chi tiết, trùng hợp với câu chuyện tôi được nghe tận tai, bố của một Đại tá CS nói với bố tôi... tất cả tan hoang hết rồi, không ai c̣n giữ vững được tinh thần nữa, Mỹ chỉ cần oanh tạc thêm hai ngày nữa là Việt Nam kéo cờ trắng đầu hàng, nhưng tự nhiên “thằng Johnson” ra lệnh ngưng dội bom.

Trong ngày “làm việc” thứ nhất, tôi phải trả lời một số câu chất vấn về một toán Biệt kích nhảy toán ra Bắc mà họ cho là bố con tôi có can dự, hoặc ít nhất tôi biết rơ. Họ đă t́m đúng đầu mối để khai thác, nhưng sự thật tôi không có can dự nào, dù tôi biết - biết rất rơ về cách tổ chức, huấn luyện, nhân sự và ngày giờ toán Biệt kích này khởi hành từ Tân Sơn Nhất, cho tới lúc toán Biệt kích bị bắt, tôi cũng được thông báo. Tôi c̣n nhận được cả bản tin kiểm thính từ đài Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam loan tin về việc bắt giữ và phá vỡ toán biệt kích ấy tại huyện Hương Khê, Hà Tĩnh. Tôi đă không khai bất cứ một chi tiết nào cả v́ thực sự tôi không có can dự vào bất cứ một hoạt động nào liên quan.


Khi ra tới trại Quảng Ninh tôi gặp anh Hoàng Đ́nh Lưu, người phụ trách, bố trí và điều khiển toán biệt kích ấy. Trước năm 1975 tôi đă có gặp anh đôi ba lần. Lúc ấy HĐL. mặc quân phục Binh chủng Nhảy Dù, mang cấp bậc Đại úy. Trên túi áo có bảng tên VINH. Trông thấy tôi, nhận ra nhau, rất bất ngờ, h́nh như anh ấy từ trại khác trong Nam cùng đi chuyến tàu Hồng Hà đến Quảng Ninh, Anh ấy có vẻ lo lắng, sợ tôi sẽ khai báo tông tích của anh. Biết tâm lư đó, tôi t́m cách đến gần nói nhỏ với anh: -“Anh yên tâm, tôi sẽ không khai báo bất cứ điều ǵ về anh. Chúng ta coi như không quen biết nhau”.


Ngày thứ nhất, sáu tiếng đồng hồ qua đi trong nặng nề với nhiều suy nghĩ, sáng hôm sau tôi lại được gọi đi “làm việc” tiếp. Lần này cũng người công an hôm qua cùng với một người khác tôi chưa gặp, từ pḥng trong bước ra nói với tôi:

- “Chúng tôi biết anh thông minh và có t́nh cảm, nên cho anh biết là người mà anh có quan hệ và chúng tôi yêu cầu anh cho biết nay không c̣n nữa. Chúng tôi đă xử lư v́ thái độ ngoan cố, chống đối đến cùng của hắn. Thậm chí, trước lúc chết c̣n xúc phạm đến lănh tụ. Anh đừng sợ anh khai ra, sau này về gặp lại nhau, anh em khó ăn nói”.


Tôi biết Trần Kim Phú, trưởng toán biệt kích nhảy toán ra Hà Tĩnh tháng 6- 1963, bị bắt đưa ra Ṭa án Quân sự quân Khu IV bị tuyên án tử h́nh. Tôi không có hoạt động nào liên quan, mà chỉ được biết một cách bàng quan nên tôi không “thành thật khai báo”.


Lại một ngày nữa đi qua, tôi ngồi từ sáng đến chiều, viết mấy ḍng qua loa. Buổi chiều người công an cầm tờ giấy chỉ có mấy ḍng tôi khai, anh ta tỏ ra rất bất măn và khó chịu. Trước khi cho tôi trở về buồng giam, tôi lại được nghe câu hăm dọa -“Thái độ của anh thiếu thành khẩn. Anh nên nhớ anh được về sớm hay không là do sự thành thật khai báo của anh”. Tôi vừa bước lui vừa nói -“Tôi biết, thưa cán bộ”.

Sáng hôm sau là ngày thứ ba tôi lại được gọi đi làm việc. Lần này người tiếp xúc với tôi không phải là hai ông hôm qua, hôm trước. Ông này vừa thấy tôi liền lên giọng dằn mặt, áp đảo ngay: -“Trong hai ngày qua anh không chịu khai báo đúng theo yêu cầu của chúng tôi. Tôi nói cho anh biết. Mọi việc chúng tôi đă nắm trong tay. Nếu cần chúng tôi sẽ đem anh về địa phương để xác minh”.


Nghe đến “đem về địa phương để xác minh” tôi hơi xuống tinh thần. Tôi đă chứng kiến nhiều người bị đem đi là biệt tích luôn. Như trường hợp ông Nguyễn Chí Vy ở Long Thành bị bắt đi, nói là dẫn giải về Quảng Ngăi "giao cho địa phương xử lư”. Tôi chợt lo, địa phương ấy là nơi nào? Sài G̣n hay Nghệ Tĩnh. Tự nhiên tôi buột miệng mà không hề nghĩ trước:

- “Có ǵ tôi biết tôi đă nói hết. Việc ǵ không biết th́ tôi không thể nói. Cách mạng đ̣i hỏi chúng tôi phải thành thật khai báo. Cán bộ đ̣i hỏi chúng tôi phải tin cán bộ, tin ở cách mạng, mà ngược lại cán bộ không chịu tin chúng tôi. Ḷng tôi đâu phải là trang giấy trải ra để cán bộ biết đen hay trắng”.


Nghe tôi nói mạnh miệng anh công an liền đấu dịu:

– “Không, chúng tôi tin anh. Thôi anh cứ viết thêm cho chúng tôi những điều mà anh biết về toán biệt kích ấy. Chúng tôi tin và tin là anh biết nhiều, nhất là về việc làm của bố anh”.


Đến khoảng 11 giờ trưa, viên thiếu úy quản giáo từ pḥng may lên, vừa bước vào anh ta hỏi tôi, giọng rè rè, nhừa nhựa kéo dài... – “Thế nào rồi anh? Xong chưa?” 

Tôi trả lời – “Chưa biết khi nào xong, cán bộ”.


Thật t́nh, thấy quản Hạnh đến tự nhiên tôi yên ḷng hơn. Anh công an thẩm vấn nghe tiếng người, từ pḥng trong bước ra chưa kịp lên tiếng th́ Quản giáo đă nói, cũng cái giọng nhừa nhựa cuối câu –“Thế nào rồi các anh? (Không xưng hô “đồng chí”) Anh ấy phụ trách kỹ thuật tổ may. Hàng dồn dập cần giao đúng hạn. Nhanh đi cho anh ấy về làm việc”.


Nghe anh cán bộ Quản giáo nói, tôi như trút được cả khối nặng mấy trăm kí lô chất trong óc, trong ḷng suốt mấy ngày qua. Thế là tôi “ung dung tự tại” ngồi chờ đến chiều th́ được thả về buồng giam. Từ đó tôi không c̣n bị quấy rầy ǵ nữa về vụ này.


Một đợt khai báo khác, cũng là đợt khai báo cuối cùng trước khi chuyển trại về Nam tôi “được tham dự” tại phân trại C Thanh Hóa. Lần này không phải là đợt khai báo đồng loạt mà chỉ có một số người được lựa chọn từ nhiều trại khác đưa tới tập họp tại một buồng giam ở phân trại C, gồm trên 30 người. Đám cán bộ công an phụ trách nói rơ mục đích, với hai yêu cầu của đợt khai báo này là:

- Số cán binh cộng sản gồm tù binh, hồi chánh trao trả về miền Bắc theo Hiệp định Paris 1973.

- Số cán binh Mặt trận GPMN, và bộ đội miền Bắc “bị thủ tiêu”.

 

Họ nói với chúng tôi:

“Lần này chúng tôi yêu cầu các anh chỉ ghi cấp bậc, chức vụ, nơi làm việc và phần vụ các anh phụ trách. Chúng tôi có hai yêu cầu các anh khai báo cụ thể, chi tiết, đó là số cán bộ, chiến sĩ của chúng tôi bị các anh bắt và các anh thủ tiêu. Các anh cần ghi rơ tên họ từng người, ngày bị bắt, bị giết và nơi chôn giấu họ. Hiện nay, sau khi giải phóng xong, thân nhân, gia đ́nh người ta đ̣i trả con em của họ”.

 

“Yêu cầu thứ hai là số cán bộ, chiến sĩ của chúng tôi bị bắt làm tù binh, các anh huấn luyện họ làm nội tuyến trả về ngoài Bắc. Một số tù binh sau khi được trả về đă đ̣i hỏi, biểu t́nh, làm loạn ngay ở Thanh Hóa này...”


Tôi không biết những người tham dự đă khai báo những ǵ. Và không biết sự thật của hai yêu cầu, đ̣i hỏi đó của công an chính xác đến mức độ nào. Riêng tôi không cung cấp cho họ được một chi tiết nào cả, ngoại trừ tên, họ, cấp bậc, chức vụ và nơi làm việc của tôi.


Tôi có biết một cách láng máng “Kế Hoạch Hải Yến” của t́nh báo VNCH từng tổ chức một số tù binh, huấn luyện “nghiệp vụ” cho họ, (có người được đưa sang huấn luyện tại Okinawa, căn cứ Mỹ tại Nhật) rồi trao trả về Bắc cùng với đám tù binh. Tôi không hé lộ chi tiết nào về vụ này, nhưng nhờ có đợt khai báo, tôi biết được số cán binh này sau khi về đến quê quán đă thực hiện công tác mà họ đă tự nguyện nhận lănh, “biểu t́nh đ̣i quyền sống” (nguyên văn lời người cán bộ phụ trách nói hôm đó).



Đặng Tiểu B́nh Hùa Theo Phản Động

Reagan - Con Ngựa Già Háu Đá.


Ở tù, lại là tù cộng sản, lại là thứ tù biệt xứ, bị nhốt trong những trại giam kiên cố ở nơi rừng sâu nước độc, biệt lập với thế giới bên ngoài, người tù ngoài nhu cầu nuôi sống thể xác, cũng cần có nhu cầu về tinh thần. Chúng tôi thường xuyên chịu đựng hai cái đói như nhau, đói thức ăn và đói sách báo, mù tịt tin tức từ bên ngoài. Dù trong khi bụng cồn cào, mệt lả, nhưng bắt gặp bất cứ một mảnh giấy nào có chữ viết, người tù cũng lượm lên đọc. Ít th́ đọc tại chỗ, nhiều th́ phủi cho sạch bụi đất, xếp gọn giấu trong người đem về chỗ nằm chuyền tay nhau đọc. Một trong những yêu sách của tù cải tạo là đ̣i hỏi được nghe đài và đọc báo – dù là báo đài một chiều tuyên truyền phục vụ chế độ đang giam giữ ḿnh.


Thời gian đầu mới tới Quảng Ninh, mỗi pḥng được phát một số sách báo. Buồng giam tôi ở có mấy tờ tạp chí. Tờ tạp chí Việt Nam in giấy láng trắng màu offset có đăng hai tấm ảnh lớn chụp Phạm Văn Đồng ôm hôn Iêng Sary và Pôn Pốt. Thời c̣n đi làm, tôi đă quen biết nét mặt vua Sihanouk, Lon Nol qua h́nh ảnh trên báo chí. Lần đầu tiên tôi mới biết mặt và nghe tên hai nhân vật này của xứ chùa Tháp. Hai năm sau chúng tôi được đọc tờ Quân Đội Nhân Dân, rất lấy làm ngạc nhiên khi thấy hai lănh tụ của chính phủ Khmer Dân Chủ mới ngày nào cùng Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa ôm hôn thắm thiết, giờ đă phát động cuộc chiến tranh đẫm máu vùng biên giới phía Tây Nam. Dần dần được đọc những bài báo nguyền rủa hai “đồng chí” Khmer Đỏ là tay sai bá quyền Trung quốc gây chiến tranh, xâm phạm chủ quyền lănh thổ Việt Nam, phá hoại ḥa b́nh và an ninh khu vực.

Trong thời gian đang có cuộc vận động tranh cử tổng thống tại Hoa Kỳ, một hôm Ban Giám thị trại Quảng Ninh cho tù cải tạo được nghỉ lao động, tập họp giữa sân băi để nghe thời sự. Thời sự là món ăn tinh thần quư giá nhất đối với chúng tôi. Có ǵ thích thú hơn khi được nghỉ, không phải ra b́a rừng xới đất, đào mương, cuốc cỏ và được ngồi nghe những điều hệ trọng, đang cần t́m hiểu, đang cần biết. Viên trung Úy Công an cỡ tuổi trên dưới năm mươi đứng trước gần cả ngàn người tù trí thức miền Nam mở đầu:


-“Hôm nay Ban Giám thị cho các anh nghỉ “nao động” để chúng tôi tŕnh bày với các anh một số t́nh h́nh đang diễn ra bên ngoài. Đảng và “nhà lước” ta trong nhiều lăm qua đang phải đối phó với chính sách bá quyền “lước nớn”. Tại Mỹ trong năm nay sẽ có cuộc bầu cử tổng thống. Người ra tranh chức “nần lày” có Ri-gân. Tên “lày” là một con ngựa già háu đá. Lước Mỹ từ sau khi thất bại nhục nhă tại Việt Nam đang cố nấy nại uy tín để tập họp các thế nực phản động nhằm chống nại các lước và các “nực nượng” tiến bộ đă “niên tục” tiến công vào thành tŕ của chúng. T́nh h́nh Trung Quốc, sau cuộc tranh giành quyền nực, đánh dẹp được bọn “tứ nhân bang”, Đặng Tiểu B́nh đang hùa theo tư tưởng phản động, gây mất t́nh đoàn kết giữa các lước anh em. Người xưa đă phân loại bốn hạng người: nhất “né” nh́ “nùn” tam hô tứ sún. Đặng Tiểu B́nh đă đoạt hai giải, thuộc hạng thứ nhất và thứ hai...”


Người cán bộ giáo dục này khá thuộc bài và nói năng lưu loát bằng thổ âm “nờ, “lờ” tréo nhau. Ông ta phun ra những lời “châu ngọc” một hơi ba tiếng đồng hồ, không nghỉ “giải nao”. Đám tù chúng tôi rất sảng khoái khi được nghe những tin tức, kèm lời “b́nh luận” theo quan điểm “cách mạng”.


Sau buổi nói chuyện để “trấn an” dư luận ấy, bỗng dưng trong trại tiếng đồn tung ra về sự chuyển tù đi nơi khác, về việc Trung Quốc đánh sang biên giới phía Bắc ngày một xôn xao. Đám cán bộ quản giáo, giáo dục, trực trại t́m mọi cách ngăn chặn những sự liên hệ giữa tù nhân các buồng giam và việc phao truyền tin “thất thiệt”. Thấy t́nh h́nh trở nên ngày một xôn xao hơn trong hàng ngũ tù cải tạo, Ban Giám thị lại cho tù nghỉ lao động, tập họp tại sân băi trấn an. Cũng viên Trung úy cán bộ Giáo dục ấy sau khi nêu ra những hiện tượng “tiêu cực”, những tin đồn “không đúng sự thật”, ông ta quả quyết “t́nh h́nh không có ǵ xáo trộn như tin đồn xuyên tạc. Không có vấn đề chuyển trại. Không có vấn đề đưa các anh đi đâu. Các bộ phận ở trên cũng như Ban Giám thị chúng tôi đă có sẵn mọi điều kiện thuận lợi cho các anh cải tạo, mau chóng tiến bộ để sớm về với gia đ́nh...”

 

T́nh H́nh Vuột Khỏi Tầm Tay

Cơn Ác Mộng Xa Dần


Buồng số 8 (Quảng Ninh) là một xưởng may đồ gia công. Hàng nhận từ xí nghiệp May Mặc ở Hải Pḥng chở về. Bác Lê Hoài Nam, người được giới thiệu là thợ từng may âu phục cho vua Bảo Đại phụ trách kỹ thuật, chuyên trách may sơ mi, quần tây và đồ vét cho cán bộ, tôi “phụ tá” bác Nam coi kỹ thuật hàng may nhận về từ xí nghiệp ở Hải Pḥng. Đội Trưởng trông coi Buồng số 8 là Phan Tuấn Anh, Th/Tá CSQG. Hàng may nên hư tốt xấu hay dở là do hai người phụ trách kỹ thuật, v́ vậy, bác Nam và tôi được viên quản giáo Th/úy Công an tên là Hạnh “nể nang” hơn. Giữa lúc hàng may chở về tới tấp, công việc làm không xuể, th́ tiếng đồn chuyển trại cứ rần rần. Một buổi sáng Quản giáo Hạnh gọi tôi và bác Nam ra ngoài cổng, đứng ở góc sân băi thường ngày tập họp, hỏi chúng tôi:

- Ai nói với các anh là sắp chuyển trại?

 

Chúng tôi trả lời khá thành thật:

- Không biết ai nói. Không biết từ đâu, nhưng mọi người cứ tin là chúng tôi sẽ không c̣n ở đây. Có lẽ qua những sự rục rịch của trại anh em họ nh́n thấy. Có thể đoán trúng, có thể đoán sai. Cán bộ tin hay không tùy. Chúng tôi không có ǵ phải giấu diếm.


Bác Nam c̣n mạnh miệng nói thẳng với quản Hạnh:

- Có người c̣n nói là chúng tôi sẽ về trại Lư Bá Sơ.

 

Quản Hạnh không có ǵ tỏ vẻ ngạc nhiên, anh ta cải chính:

- Lư Bá Sơ là tên cũ từ thời Pháp, đă đổi lại tên khác lâu rồi.

- Tên ǵ cán bộ?

- Trại 5, Thanh Hóa.

 

Quản giáo Hạnh nói thật cho chúng tôi biết là nội trong tuần lễ sau đó sẽ chuyển trại và yêu cầu chúng tôi hoàn tất mọi thứ c̣n lại, kịp giao hết số hàng may cho xí nghiệp.


* * *

10 giờ đêm ngày 4 tháng 8-1978 sau cơn mưa vừa dứt, đèn từ các buồng giam bật sáng, cả trại tù được đánh thức dậy. Quản giáo đến từng buồng ra lệnh thu gọn hành trang để di chuyển. Nhờ biết trước, một số anh em chúng tôi đă khăn gói sẵn sàng. Khung cửa sắt buồng giam lần đầu tiên trong hai năm qua mở rộng, bỏ trống giữa đêm; cánh cửa của lớp tường xây thứ hai cũng mở toang. Hai lớp cửa ấy chỉ rộng chừng vài thước nhưng bỗng nhiên như một khoảng trống thênh thang. Thênh thang như tâm trạng người tù khi biết ḿnh được rời khỏi nơi đây, đang được quay trở ngược về Nam, dù chưa phải là Sài G̣n, chưa phải là giải đất miền Nam thân yêu, ruột thịt. Ít ra, cũng hết rồi cơn ác mộng chờn vờn sẽ c̣n bị đưa dần lên miệt núi rừng hướng Bắc. Ít ra, cũng đă đến ngày rời khỏi trại tù TD63/QN (Quảng Ninh) nằm sâu hút trong một thung lũng ḷng chảo, bốn bề là vách núi dựng, đỉnh núi quanh năm mây phủ dính với trời, chân núi liền với đất qua những lớp mây mù nặng trĩu. Hết rồi tiếng vượn hú, tiếng chim kêu buồn tẻ, lạc lơng đêm đêm.


T́nh h́nh đă vuột khỏi tầm tay của Bắc Bộ Phủ. Những biến chuyển thời cuộc mà đảng Cộng sản VN đă không thể ngờ tới, đă không tiên liệu được khi hất cẳng đàn anh Trung Quốc, ngả theo Liên xô trong mưu đồ thành lập và lănh đạo liên bang Đông Dương do Liên Xô bật đèn xanh và yểm trợ. Dựa trên đà chiến thắng thôn tính xong miền Nam sau khi xé bỏ hiệp định Paris, Hà Nội toan tính làm ăn lớn. T́nh h́nh Trung Quốc cũng có nhiều biến chuyển khi Chu Ân Lai chết (đầu năm 1976), một tháng sau Mao Trạch Đông. Đặng Tiểu B́nh sau khi loại bỏ được Hoa Quốc Phong nắm quyền lănh đạo đất nước khổng lồ phía Bắc, triệt hạ được nhóm “Tứ Nhân Bang” do Giang Thanh, vợ Mao cầm đầu. Giang Thanh nổi tiếng kể từ khi bà chủ trương và phát động cuộc Cách Mạng Văn Hóa tại Trung Quốc vào năm 1966.


Ở trong nước, người Hoa sau bao đời làm ăn sinh sống an lành bỗng nhiên bị xua đuổi, bị tống xuất, bị tịch thu tài sản, bị đưa đi vùng kinh tế mới.


Ở bên ngoài, ngày 29-6-1978 Trung Quốc cúp toàn bộ viện trợ, hồi hương tất cả nhân viên và đóng cửa sứ quán tại Hà Nội. Tờ Quân Đội Nhân Dân kêu gọi dân chúng sẵn sàng chống lại “chủ nghĩa bành trướng và bá quyền nước lớn”. Câu nói của Hồ Chí Minh: “Trung Quốc và Việt Nam như anh em một nhà, núi liền núi sông liền sông, môi hở răng lạnh” đă đảo ngược thành một thực tế phũ phàng chua chát.

T́nh h́nh vuột khỏi tầm tay, đảng Cộng sản bắt buộc phải gấp rút chuyển hết các trại tù cải tạo ở vùng rừng núi Việt Hoa về các tỉnh phía Nam. Khi quyết định đem hết toàn bộ các viên chức quân cán chính từng là cấp chỉ huy lănh đạo của chính phủ miền Nam đày lên vùng khỉ ho c̣ gáy heo hút giáp ranh Trung Quốc, cộng sản Hà Nội rập theo mô thức đă thi hành sau Hiệp định Genève năm 1954, tập trung tất cả những viên chức từng cộng tác với chính phủ Quốc Gia và những thành phần thân Pháp, những thành phần địa chủ, giam giữ đến mười, mươi lăm năm sau, ai c̣n sống sót được “ân huệ” cho vợ con gia đ́nh lên rừng đoàn tụ, biến toàn bộ các giai cấp đó thành dân rừng rú. Nếu t́nh h́nh không có những biến chuyển từ bên ngoài như vậy th́ số phận của cả mấy trăm ngàn tù cải tạo miền Nam và gia đ́nh cũng sẽ tàn tạ nơi rừng thiêng núi thẳm ở vùng biên giới Việt Hoa như lớp tù cải tạo miền Bắc sau năm 1954.


Cái may mắn, cái “trúng số thời cơ” của tù cải tạo là ở chỗ đó; là ở chính sách đ̣i hỏi nhân quyền do Tổng Thống Reagan và chính phủ Mỹ áp lực lên nhà cầm quyền Hà Nội. Một năm trước đó chưa ai có thể nghĩ tới hàng chục ngàn tù cải tạo miền Nam sẽ được rời khỏi những trại tù, cũng là nơi định cư vĩnh viễn của họ mà Hà Nội đă toan tính, đă thực hiện. Chúng tôi phấn khởi trong đau khổ, trong chịu đựng nhục nhằn là ở chỗ đó.


Đêm chuyển trại từ Quảng Ninh, bước qua khỏi ba lớp cửa là một khoảng trời, là sân băi rộng. Gió rừng Việt Bắc giữa đêm vào tiết trời đầu thu mơn man mát lạnh như chia sẻ với đoàn người bất hạnh một niềm vui và chút ánh sáng lập ḷe của tia hy vọng. Đúng như lời của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: Hy vọng đă vươn lên trong màn đêm trong ưu phiền.... Tưởng như câu hát kia là lời tiên tri hay là tiếng reo lên từ nỗi tuyệt vọng giữa cảnh đời nghiệt ngă.


Vào một đêm mịt mờ tăm tối của mùa đông, người tù đang nằm ṃn mỏi, không nh́n thấy lối thoát của cuộc đời, chúng tôi bỗng ngồi bật dậy khi nghe được bài b́nh luận của Tổng Biên Tập Hoàng Tùng trên đài phát thanh Hà Nội từ một cái loa phát thanh trên cột trụ ngoài hàng rào: Chính quyền Mỹ và bọn phản động nước ngoài đă bịa đặt vu cáo chúng ta đang giam nhốt hàng trăm ngh́n người tù chật ních trong các trại cải tạo... Nghe xong bản tin, tất cả ngồi bật dậy, người này hỏi người kia thay nhau lặp lại, nhắc lại lời của Hoàng Tùng, trong người mạch máu rân ran v́ sung sướng, v́ biết rằng số phận ḿnh không bị bỏ quên, người đời đang quan tâm, đang nhắc nhở, đang ra tay cứu độ.


Lúc đó là khi chúng tôi đă chuyển về ở Phân trại B Lam Sơn, Thanh Hóa cuối năm 1978. C̣n đây là lúc chúng tôi đang sửa soạn từ giă trại tù vùng biên giới giáp ranh Trung quốc. Từng đoàn xe vận tải đă đậu chờ sẵn, có lẽ từ chập tối, sau khi tù đă vào buồng. Từng người một lần lượt lên xe. Vừa bước lên, chân chúng tôi dẫm phải một thứ nhầy nhụa, ươn ướt. Mùi hôi thối bốc lên mỗi lúc một nồng nặc, đến muốn ói. Mọi người bịt mũi để mong qua cơn nôn mửa. Tất cả những chiếc xe tải này là xe chở heo. Có lẽ họ vừa đổ heo xuống một nơi nào đó trước khi chạy tới đây để chở tù. Khi tù đă lên đủ số theo danh sách, tấm chắn phía sau xe được kéo lên cài chặt lại, mọi nguời bị ép dồn vào nhau, đứng xếp sát vai nhau như hộp cá ṃi. Không ai có thể ngồi, không ai có thể cúi xuống dù chỉ để găi chỗ ngứa dưới chân. Tất cả như những khúc cây bị dựng thẳng đứng, ép sát, không thể xoay trở, cử động. Trên xe có một công an đi kèm. Tôi nhớ người công an áp tải xe tôi là một cán bộ, tên Vinh từng vào tổ may nhiều lần. Anh này nói với chúng tôi, giọng thành thật:

- “V́ sự hăm dọa của Trung Quốc. V́ an ninh của các anh, chúng tôi phải chuyển các anh tới nơi an toàn hơn để các anh cải tạo. Chúng tôi phải chuyển các anh đi, phải xa các anh chúng tôi tiếc lắm. Thành thật mà nói chúng tôi học hỏi được ở các anh rất nhiều”.


Đoàn xe chạy từ Quảng Ninh lúc nửa đêm mùng 4 tới trại Lam Sơn, Thanh Hóa vào lúc 8 giờ tối ngày 5.8.1978, qua hai lần sang phà ở Vịnh Hạ Long và sông Mă. Suốt quăng đường 24 tiếng đồng hồ ấy xe chạy liên tục, tôi có cảm tưởng như đoàn xe đang bị rượt đuổi. Tù chỉ được đi tiểu bằng một cái xô nhựa, được đưa lên xe, khi có người yêu cầu, nhưng thật là khó khăn v́ người đứng nêm chật nghẹt làm sao mà giải quyết được, đành nín đến bế tắc luôn. Suốt gần 24 tiếng đồng hồ ấy cũng không phát thức ăn nước uống. Không ai muốn ăn uống trong hoàn cảnh như vậy, nhưng cơn khát đă khiến nhiều người mệt lă. Khi đoàn xe tới nơi, vừa ngừng lại, tôi thấy một số anh từ trên xe nhảy xuống, chạy ào xuống một cái ao, cúi gập người xuống, uống một hơi cho đă khát. Mấy ngày sau nh́n thấy cái ao, tôi rùng ḿnh, lo lắng thay cho những người đêm hôm trước đă giải quyết cơn khát bằng nước của cái ao trâu tắm đen ng̣m kia. Chỉ nh́n thấy cũng đủ lợm giọng, buồn nôn.



Lư Bá Sơ Danh Bất Hư Truyền


Trại Lam Sơn, tỉnh Thanh Hóa, thuộc huyện Thiệu Hóa. Thiệu Hóa là tên mới đặt sau khi sát nhập hai huyện Hoàng Hóa và Thiệu Yên làm một. Trại Lam Sơn theo lời kể của những người lớn tuổi, có từ thời Pháp thuộc, do một người tên là Lư Bá Sơ thành lập. Trại này nổi tiếng những ai bị đưa tới đó, có ngày đi mà không có ngày về. Hồi c̣n nhỏ, tôi thường nghe bố tôi với những người cùng thời nhắc đến tên mấy nhà tù khét tiếng như Lư Bá Sơ, Đầm Đùn, Ban Mê Thuột, và trại Đưng ở Hà Tĩnh. Trại Đưng, những người lớn tuổi thời Việt Minh cho biết nơi đó rừng thiêng nước độc. Nước khe suối độc đến nỗi chỉ lội qua là lông chân rụng hết. Ai tới đó cũng chỉ vài tuần lễ sau là bị sốt rét, da vàng như nghệ và chỉ trong ít lâu là chết.

Lam Sơn có ba phân trại. Trại chính là trại A. Trại A cùng với phân trại B được xây dựng từ lâu, trại C mới xây sau. Trại B gồm những dăy nhà giam lợp lá, vách che bằng đất nhồi rơm. Quanh trại có hai ṿng rào, ṿng trong bằng giây kẽm gai, ṿng ngoài là những bụi tre trồng sát khít nhau, nhánh, gai chằng chịt. Trại C, có các dăy nhà giam xây bằng xi măng, lợp ngói, cửa sắt kiên cố.


Bí danh của trại Lam Sơn là 50A TD63/05. Đoàn xe từ Quảng Ninh về tới Lam Sơn, trên 100 người tù cao tuổi được chở tới phân trại A, số c̣n lại “đóng quân” tại Phân trại B. Tâm trạng phơi phới về cuộc “đổi dời”, hy vọng đời tù sẽ khấm khá hơn ở một địa điểm mới, đến đây như chút hơi khói mong manh vừa chợt tắt. Mỗi toán tù được dẫn về các dăy nhà giam với tiếng la lối, nạt nộ, hằn học của đám công an.


Buồng giam là những dăy nhà chiều dài trên vài chục thước, thông suốt từ đầu tới cuối, sâu hút, không có cửa hậu, chỉ có cửa vào như một địa đạo. Mái lợp tranh, vách đất, nền đất đắp cao khoảng chừng nửa thước thành hai dăy sát hai bên vách, chừa lại một lối đi ở giữa.


Trời tháng Tám, sau vài cơn mưa nhỏ, cái nắng nhiệt đới oi nồng làm bốc lên mùi ẩm mốc, hôi hám, ngột ngạt. Qua cung cách “tiếp đón” buổi đầu và nh́n thấy cơ ngơi nơi ăn chốn ở như thế, mọi người cảm thấy đời tù bắt đầu khốn nạn.


Phân trại này không có pḥng ăn, chỉ có một hội trường chứa được khoảng ba, bốn trăm người. Cái nhà này cũng lợp lá, nền đá ong, lát đất sét. Vách bằng đất phết nhồi rơm, thưng đến ngang lưng quần. Phía trên là một lớp chấn song bằng gỗ thanh. Khu nhà tù này, ngoài cái chắc chắn, kiên cố của hai lớp hàng rào, c̣n lại tất cả trông bệ rạc, tàn tệ hơn bất cứ sự tàn tệ, nhớp nhúa nào khác.


Thời gian đầu, cơm do tù h́nh sự nấu gánh từ nhà bếp vào trại cho mỗi buồng. Mỗi buồng, mỗi dăy t́m lấy một chỗ nào khô ráo, tương đối sạch sẽ hơn để mọi người bày chén bát ra chỗ đó. Người chia phần cơm luân phiên phụ trách mỗi ngày. Gặp ngày vừa mới mưa xong, chén bát bày ra giữa băi đất, khi nhận phần ăn, mọi người không ai bảo ai đều chùi đít chén vào quần áo trước khi bâng lên múc ăn. Có thời gian được Ban Giám thị cho chia cơm và ngồi ăn trong nền đất của hội trường. Hội trường có mái lợp nhưng mùa mưa vẫn bị ẩm ướt, đất đỏ do giày dép mang vào trông không khác lối trâu đi. Mùa nắng bụi mù trời. Khi gặp cơn gió, bụi phủ đầy thức ăn. Thức ăn là bo bo, là khoai ḿ củ, là sắn khô nấu lên, là cơm, với mỗi bữa có khi mỗi nguời được chia hai th́a cà phê nước mắm sống, có khi là loại nước-mắm-nêm đen như cà phê đậm, có khi vài gắp rau ḥa trong nửa ca nước muối.


Bữa ăn của tù “thanh đạm” lắm nhưng vẫn có những người không bỏ được cái thói “phong lưu”. Vẫn có cái bàn ăn bằng mấy miếng ván mục lượm được đâu đó đem về đóng lại, vuông vức năm, sáu mươi phân, chiều cao cỡ bàn sa-lông, ba bốn người chụm vào nhau, ăn th́ ít nhưng nói chuyện th́ nhiều.


Tôi không bao giờ quên được và tôi tin rằng những người có mặt tại hội trường phân trại B buổi trưa hôm đó hăy c̣n nhớ: Trật Tự trại, là một tù cải tạo, Nguyễn Văn M. nguyên Thiếu Tá, Trưởng Pḥng Ngoại Kiều Bộ TL/CSQG đă đá văng cả chén cơm canh của một người tù, chỉ v́ anh này lấy cái rổ thưa, được đan sơ sài bằng tre để đựng loại đá xanh do tù sản xuất, đặt úp xuống làm thành cái mâm để chén cơm canh v́ nền nhà lấm bùn đất, ướt át. N.V. M. đă nổi nóng, hoặc v́ tự ái trước thái độ bất tuân, thách thức, hoặc để tỏ quyền uy nên đă hành động mất nhân tính trước mặt nhiều người, sau hai lần anh lên tiếng cảnh cáo không được xử dụng đồ của trại. Tôi ngồi gần, chứng kiến tận mắt và hằn sâu vào kư ức khó nguôi quên. Rất tiếc tôi không nhớ tên nhưng tôi c̣n h́nh dung được dáng dấp, diện mạo của người tù bị đá văng chén cơm hôm ấy. Ông này dân Hố Nai, làm việc tại PĐU/TƯTB.


Chúng tôi ở Phân trại B chỉ trong thời gian hơn năm tháng, từ ngày 5-8 đến cuối tháng 12-1978 nhưng đây là thời gian xẩy ra nhiều sự kiện rất bất thường khiến đưa đến việc phân tán tù và chuyển trại. Như nhiều trại tù khác, Phân trại B cũng chia làm hai khu. Khu A giam tù Chính trị từ Cẩm Phả chuyển về và khu B nhốt tù h́nh sự. Các dăy nhà giam xây cùng một kiểu, mái lá vách đất, nền đất, chỗ nằm là bục cao có tráng xi măng. Hai khu A và B cách ngăn bằng một hội trường và một khu sân băi để mỗi ngày sắp hàng điểm danh khi lao động đi, về. Nhà bếp nằm ngoài ṿng rào nhà tù. Cả trại có hai cái giếng, sau khi tù cải tạo chuyển về đào thêm một giếng thứ ba. Khí hậu vùng này khắc nghiệt, mùa Hè nóng như lửa, lại chịu thêm ngọn gió Lào khiến toàn thân như đang bị một đàn kiến bu đầy cắn xé. Mùa Đông gió rừng khô hanh, lạnh như cắt.


Chúng tôi đến đó vào mùa Thu, tiết trời tháng Tám dễ chịu, lại có những trận băo liên tiếp nên được nghỉ lao động. Thời tiết chuyển dần vào đông, bầu trời ảm đạm, cây lá úa vàng, trơ trụi, ngơ lối bùn lầy, những mái nhà tranh như sụp xuống, tối tăm, ẩm thấp trông càng thê lương hơn. Bên khu h́nh sự cứ mấy ngày lại thấy khiêng một cái ḥm ra khỏi cổng. Đi chôn tù chỉ có ba, bốn người là đủ. Hai người khiêng ḥm, một người vác cuốc xẻng và một công an đi theo. Người tù nào được chỉ định khiêng ḥm đi chôn bạn tù rất lấy làm phấn khởi. Phấn khởi không v́ t́nh cảm dành cho người bạn tù xấu số, cũng không v́ muốn được ra ngoài hưởng giây phút tự do; hoặc để thở hớp khí trời tươi mát, mà chỉ v́ cái trứng gà luộc và chén cơm “cúng linh” đặt trên nắp ḥm. Khi ḥm vừa khiêng ra đặt lên miệng huyệt, hai người tù vừa buông tay là vội chụp lấy chén cơm và cái trứng, người nào nhanh tay chụp được trước th́ được dành phần hơn khi chia cho hai người kia.

Ḥm không phải là cái áo quan dành cho người quá cố, mà là một dụng cụ như tất cả những dụng cụ khác; như cái xẻng, cái cuốc dùng cho việc mai táng. Cái xẻng, cái cuốc đào xong huyệt không phải là vứt đi. Cái ḥm cũng không phải chôn theo người chết. Đáy ḥm là một miếng ván rời có thể kéo ra đẩy vào như cái nắp hộp. Khi ḥm đă đặt lên miệng huyệt, chỉ cần cầm miếng ván kéo bung ra là xác rơi xuống. Lấp đất xong, lại khiêng ḥm về để dùng cho người kế tiếp. Tôi không được chứng kiến, những tù h́nh sự sau khi đi chôn bạn tù về kể cho chúng tôi nghe như vậy.


Với xă hội văn minh, khi nh́n vào hiện tượng đó, người ta cảm thấy kinh khiếp lắm, nhưng nhân loại đă từng chứng kiến hàng trăm, thậm chí hàng ngàn mồ chôn tập thể từ thời Đức Quốc Xă, đến dưới các chế độ độc tài, cộng sản như mồ chôn tập thể tại Huế hồi Tết năm Mậu Thân, hoặc tại Bosnia cuối thập niên 90 và mới đây tại Iraq, dưới thời Saddam Hussein.


Người tù cải tạo bắt đầu cảm thấy bất an. Nơi ăn ở lụp xụp dơ bẩn, lao động nặng nhọc trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Khẩu phần ăn so với trại Quảng Ninh bị cắt giảm đến gần phân nửa. Hàng ngày ít khi được ăn cơm, thường là khoai ḿ, được quy định “bốn sắn một gạo” nghĩa là nếu ăn khoai ḿ th́ nhiều gấp bốn lần ăn cơm. Tuy nhiên, trên thực tế mỗi người chỉ được chia bốn năm mẩu sắn, lớn cỡ ngón chân cái. Món ăn mặn là nước muối, nước-mắm-nêm đen đục, lỏng bỏng, sặc mùi tanh. Một thời gian dài ăn bo bo, nhưng cũng chỉ mỗi người được chia lưng chén. Nhiều lần bo bo chưa chín nhai cả một hai tiếng đồng hồ mỏi cả hàm, nhưng cái dạ dày vẫn từ chối hấp thụ cho cơ thể, tiêu hóa toàn bộ ra ngoài. Thêm vào đó là thái độ hằn học, phách lối của đám công an gác tù, tạo nên một t́nh h́nh căng thẳng giữa hai phía: tù và công an.

 


Tôi Đi Giữa Đoàn Tù Vác Đá


Công việc lao động đầu tiên của chúng tôi khi về tới Thanh Hóa là vác đá. Ở Quảng Ninh chúng tôi đă từng được ngồi đập đá trong phạm vi sân nhà giam. Đó là cơ hội để chúng tôi chụm đầu vào nhau tâm sự nhỏ to.


Tôi nhớ thời xưa khi hăm dọa bỏ tù ai, thay v́ nói tao bỏ tù mày th́ nói “tao sẽ cho mày đi đập đá”. Câu thành ngữ ấy tôi được nghe từ hồi c̣n nhỏ, không ngờ rồi chính ḿnh, mới ngoài 30, chưa tới tuổi “bất nhi hoặc”, c̣n ở thời phơi phới ăn nên làm ra ấy, đă phải nếm mùi đập đá, vác đá. Bài thơ Tôi Đi Giữa Đoàn Tù Vác Đá đă được nữ nghệ sĩ Bích Ty lấy đâu đó trên báo đem vào CD thơ Người Mẹ Da Vàng, là khúc tâm sự mô tả cảnh thực sống động của đoàn tù vác đá tại Phân trại B Lam Sơn, Thanh Hóa, trong đoàn người ấy có tôi, tác giả bài thơ.


Vào những ngày đáng nhớ ấy, bầu trời xám xịt, sương mù lăng đăng xuống thấp, đoàn người nối đuôi nhau đi trong hơi lạnh, mỗi người một khối đá nặng trên vai. Đá được lấy ở một chỗ từ bên kia chân núi, đoàn tù vác đá, đi gần giáp ṿng quanh ngọn núi tới phía bên này, gom đá về một chỗ. Sau vài ṿng đi tới trở lui, mồ hôi ran rỉ, mặc dù trời đă vào đông. Có người cởi lớp áo ngoài, có người lấy chiếc khăn rằn, biểu tượng của miền Nam xếp lại lót lên vai kê tảng đá để khỏi đau, khỏi bị trầy da. Sau hai ba ṿng đi tới, đi lui vai tôi rướm máu. Tôi cảm thấy đau vai th́ ít mà đau xót tự cơi ḷng th́ nhiều.


Tôi nh́n đoàn người lờ mờ trong sương mù buổi sáng từ đầu tới cuối, rồi chợt liên tưởng đến những đoạn phim đoàn nô lệ thời Trung cổ mà tôi đă được xem ngày nào thời c̣n đi học. Công việc lao động như thế, ngoại cảnh như thế, nội tâm người tù như thế đă đưa tới một t́nh trạng đầy bất an và bất trắc.


Từ các dăy nhà giam bắt đầu có những “hoạt động” chống đối ngấm ngầm, thể hiện dưới nhiều h́nh thức. Việc trước tiên là thái độ tiêu cực, bất hợp tác, lăng công bằng cách khai bệnh tập thể. Lúc đầu mỗi đội 70 người có khoảng vài chục người ra sân sắp hàng xuất trại đi làm. Những người đi làm, thấy những người ở nhà vẫn phây phây, lại bị anh em nh́n bằng con mắt không thiện cảm nên càng về sau, mỗi đội chỉ c̣n năm bảy người hay nhiều lắm hơn chục người ra sân, c̣n nữa nằm trùm chăn bất động.


Đến thời hạn tam cá nguyệt, các tổ đội được chỉ thị họp kiểm điểm về các mặt tư tưởng, lao động, học tập. Sau “khóa họp” đó tù phải ngồi viết bản “thu hoạch”. Theo quy định thông lệ tù tự nêu lên những ưu khuyết điểm, những vi phạm, những thành tích. Rồi sau hết là viết lời cam kết phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm, bày tỏ “tin tưởng vào chính sách của đảng và nhà nước, an tâm cải tạo, lao động sản xuất vượt chỉ tiêu...”


Nhưng lần đầu tiên toàn bộ tù cải tạo phân trại B thay v́ viết kiểm điểm, thu hoạch, lại đồng loạt viết kiến nghị lên án chế độ lao tù và đ̣i hỏi cải thiện đời sống tù nhân. Dĩ nhiên là mỗi dăy nhà, mỗi tổ, đội vẫn có những người “ngoan ngoăn” vâng lời Ban Giám thị, viết tờ thu hoạch rất ăn ư với chính sách của “đảng và nhà nước”. Nội dung kiến nghị, chúng tôi rỉ tai và đồng ư trước với nhau cùng nêu lên những điểm như sau:

 

- Thứ nhất: Chúng tôi được tuyên án tập trung cải tạo ba năm, mà nay đă hơn ba năm rồi vẫn chưa được thả và chưa biết lúc nào th́ được về với gia đ́nh. Sức khỏe ngày càng suy yếu, làm cho chúng tôi lo lắng.

 

- Thứ hai: Điều kiện ăn ở quá tồi tệ. Chỗ nằm ẩm thấp, hằng đêm rệp kéo lên từng đàn, đầy trong chăn chiếu và quần áo. Yêu cầu trại cho xịt rệp tất cả các dăy nhà.

 

- Thứ ba: Mức ăn ngày càng bị giảm thiểu, không c̣n đủ tiêu chuẩn cho một người b́nh thường không phải làm việc, có thể sống được, nhưng đây lại cho những người ốm đau, mất sức hưởng mức ăn đó mà phải lao động nặng nhọc.

 

- Thứ tư: Yêu cầu công khai hóa tài chánh theo tiêu chuẩn Bộ Nội Vụ cấp cho mỗi đầu người và mỗi tuần lễ phải công bố một lần.

 

 

- Thứ năm: Yêu cầu cho được nghe đài, được đọc báo Nhân Dân và Quân Đội Nhân Dân.

 

- Thứ sáu: Yêu cầu được gửi và nhận thư gia đ́nh mỗi tháng một lần như nội quy đă phổ biến.

 

- Thứ bảy: Mỗi người nêu thêm ư kiến, nguyện vọng riêng.

 

Mỗi người viết theo cách riêng của ḿnh nhưng yêu cầu làm thế nào để thể hiện được nhận định chung của tập thể.


Khi những tờ “thu hoạch” ấy được tổ trưởng, đội trưởng gom lại nộp cho cán bộ quản giáo, thật là một cú bất ngờ, trước hết làm cho đám quản giáo rồi đến ban giám thị choáng váng. Buổi chiều hôm ấy thay v́ đi lao động, quản giáo vào họp từng đội giải thích đường lối chính sách, cho mọi người được phát biểu (để nắm t́nh h́nh và t́m đối tượng). Trong buổi họp kiểm điểm ấy, riêng ở đội tôi sau khi quản giáo dài ḍng về những giải thích, phân bua, vuốt ve và hăm dọa, có vài người lên tiếng, trong số đó có anh Phan Thanh Việt, Nghị Viên tỉnh Quảng Nam. Phát biểu của anh Việt gần như là đúc kết những nhận định và đ̣i hỏi của tù mà anh em chúng tôi đă trao đổi với nhau từ trước. Tiếp sau anh Việt, tôi giơ tay xin nói, nêu lên những nội dung tương tự trong bản thu hoạch mà tôi đă viết. Tôi cố ư tránh đả kích chế độ. Kinh nghiệm từ hồi c̣n ở khu Tư trước năm 1955, người nào đụng đến chế độ và lănh tụ là có thể mất mạng, làm tôi e dè. Tôi phát biểu:


“Chúng tôi không chống đảng và nhà nước, nhưng chính sách đảng và nhà nước đưa ra không được thi hành đúng. Chúng tôi được kêu án ba năm, nhưng thực sự không biết ngày về. Chỗ ở dành cho chúng tôi quá tồi tệ. Khẩu phần ăn bị cắt xén, chúng tôi không tin cán bộ cách mạng ăn cắp cơm tù. Chúng tôi mất liên lạc với gia đ́nh, không có thư từ như nội quy ấn định mỗi tháng một lần nên thực sự khó mà an tâm cải tạo. Chúng tôi mong Ban giám thị xem xét nguyện vọng của chúng tôi”.


Buổi học tập kiểm điểm kết thúc sau ba tiếng đồng hồ. Anh em tù hả hê, đă được x́ bớt những ấm ức chất chứa từ bao lâu nay. Một người bạn tù, anh Lê Văn Tr. hiện ở Houston vừa ra khỏi buồng họp, lại gần tôi nói nhỏ: -“Ta không nói được, ta cảm ơn mi đă nói thay ta và các anh em khác”. Từ Long Thành chúng tôi đă gần gũi hiểu nhau và thân t́nh, tri kỷ cho đến nay.


Chúng tôi coi đây là một biến cố trong một loạt biến cố khác diễn ra sau đó. T́nh h́nh đă âm ỉ ngay từ sau khi bước xuống xe đến trại này. Nhiều hiện tượng tiêu cực mà tù từng chứng tỏ bằng lời nói và hành động. Khoảng hai tháng sau, một buổi sáng thức dậy trên một số cửa buồng giam đă dán một tờ giấy học tṛ, ghi bằng chữ in: CHÚNG TÔI Đ̉I HỎI ĐƯỢC ĐỐI XỬ THEO QUY CHẾ TÙ CHÍNH TRỊ VÀ ĐƯỢC TÔN TRỌNG NHÂN QUYỀN. Dưới tiêu đề ấy là một số điều được liệt kê ra. Đây là một loại truyền đơn viết tay. Người viết đă nhại một nét chữ khác hẳn với nét chữ của ḿnh nên công an đă không t́m được thủ phạm. Mấy tuần lễ sau tôi được biết người viết những tờ “truyền đơn” ấy là Lê Thiên Sơn. Anh đă qua đời tại Sài G̣n năm 1989.

 


Vong Thân Và Phản Bội


Khi hoàn cảnh ngày càng khó khăn, ví như bóng tối đồng lơa với tội ác, một số trong đoàn tù bắt đầu ló mặt phản bội tập thể. Nguyên nhân của hành động bán rẻ lương tri và nhân phẩm của những người tù ấy là do bản chất ích kỷ và hèn nhát. Động lực thúc đẩy họ làm ăng-ten, công khai hợp tác đắc lực với cai tù, với Ban Giám thị, nhận làm Ban Thi Đua, Trật Tự, Đội Trưởng là v́ nông nổi tin tưởng được cộng sản trả công, cho về sớm, được hưởng một số ưu đăi khẩu phần ăn và để tránh lao động nặng nhọc như mọi người. Con số những kẻ vong thân này không nhiều nhưng đối với tập thể tù cải tạo th́ đây là một nỗi đau tinh thần, một nỗi ô nhục, làm tổn thương niềm tự hào và danh dự của người chiến sĩ Quốc gia. Nhiều người từng khốn đốn v́ đám này.


Nạn nhân của đám ăng-ten ấy cũng không phải là ít. Sự tổn hại mà nhiều gia đ́nh nạn nhân phải hứng chịu không phải là nhỏ. Nhiều người chết trong tù v́ bị chính đám trật tự tay sai đánh đập hành hạ như trường hợp Dân Biểu Đặng Văn Tiếp ở trại Thanh Cẩm; hoặc như cái chết của Lê Quảng Lạc ở trại Lam Sơn mà tôi là người đă được nạn nhân nói lại lời trăn trối. Lê Quảng Lạc chết v́ chính sự tiếp tay của những kẻ tay sai, của những người phản bội cùng hàng ngũ với anh. Tôi tin rằng c̣n nhiều lắm những nạn nhân ở nhiều trại khác không được nói ra, điển h́nh như vụ Bùi Đ́nh Thi để được dư luận biết tới.


Trở lại t́nh h́nh ở phân trại B, trước sự thật đám ăng- ten, tay sai cai tù ló mặt, một nhóm hành động kín gồm mấy anh em tâm huyết (Lê Thiên Sơn, Nguyễn Thành Tr., Lê Văn Tr., Ngô Văn Th.) họp bàn với nhau phải có biện pháp với bọn họ. Lúc đầu nhóm bàn nhau giao cho một vài anh ra giếng lấy cớ hắt nước vào “ăng ten”, tự làm ướt bản thân rồi xông vào vừa đánh vừa nói lời cảnh cáo. Một anh đứng bên cạnh hỗ trợ khi cần sẽ tiếp tay. Nếu nội vụ được đưa lên Ban Giám thị th́ khai là hai bên gây gổ v́ làm ướt nhau. Biện pháp này chỉ xẩy ra một lần. Tay ăng-ten nín thinh không dám báo cáo, nhưng nhóm nhận thấy không ổn v́ có thể cả hai đều bị cùm và cuối cùng th́ ăng-ten thế nào cũng khai báo và được cho ra khỏi xà lim trước. Do đó nhóm bàn lại cách khác.

 

Trong nhóm, có người sẵn sàng ra tay hành động; có người lại chỉ có khả năng vạch kế hoạch, chứ không dám làm. Khi họp nhau chúng tôi giao cho ba người cùng làm một việc. Nếu một người khi thấy công việc được giao đă xong rồi th́ rút lui và không cần biết ai đă ra tay. Nhờ đó trong ba người không ai biết ai đă ra tay trước.


Đối tượng thứ hai là Th/tá CSQG Phan Tuấn A. sau một đêm thức dậy thấy cái túi xách “marin” đựng đầy quần áo tốt mang theo đă bị một lưỡi dao cạo râu nào đó rạch dọc, rạch ngang mấy đường, cắt đứt cả quần áo bên trong. Một người khác là “Đạt Râu” ngủ dậy thấy một con nhái chết nằm trong cái loong Guizgot đựng nước uống. Về nhân vật này có đặc điểm là khuôn mặt hao hao giống “bác”, nên “lăo” để bộ râu dài cho thêm giống. Lăo lúc ấy cỡ tuổi trên năm mươi nhưng làm ra bộ đạo mạo và là một tay đội trưởng đắc lực trong vai tṛ phụ tá quản giáo. Mặc dù có những phản ứng quyết liệt như vậy của anh em, nhưng đám ăng ten, đội trưởng cai tù này h́nh như đă chấp nhận thái độ “dấn thân khuyển mă” nên tỏ ra bất chấp, ngày một lún sâu vào tội lỗi.


Ở mỗi giai đoạn khó khăn lại có một hai kẻ xuất đầu lộ diện công khai tách khỏi tập thể, đứng về phía cai tù. T́nh trạng sinh hoạt ngày càng căng thẳng, nguyên nhân theo tôi một phần do nơi giam giữ, chỗ ăn nằm quá xập xệ dơ bẩn; phần khác, tác động mạnh nhất là do thái độ của đám công an. Họ đă quen thói hống hách, coi thường, hành hạ đánh đập, làm nhục đám tù h́nh sự. Họ không được học tập trước về cung cách, thái độ cư xử với tù chính trị, với tù cải tạo miền Nam. Họ không nhận thức được hai loại “tội phạm” này hoàn toàn khác biệt. Người gác tù không thể chỉ dùng mệnh lệnh, và roi đ̣n để cảm hóa con người. Làm sao để chúng tôi không phản ứng trước hành động rất vô kỷ luật của chính người gác tù như trường hợp sau đây.


Một buổi chiều chủ nhật, tại một dăy nhà giam, một bạn tù, anh Nguyễn Ngọc Nghĩa kê ba cục đá, chụm mấy que củi nấu một lon nước sôi. Người công an ngồi trên vọng gác thay v́ bảo tắt bếp không cho đun nấu th́ lại nói vọng xuống những lời la lối hạ cấp, anh Nghĩa không trả lời. Người gác tù liền bắn một phát súng thị uy viên đạn cắm cách chỗ anh Nghĩa ngồi không đầy nửa thước.


Biến cố đó mở đầu cho giai đoạn đấu tranh công khai bùng nổ khi cả Phân trại B được cấp một bữa ăn trưa bằng củ khoai ḿ luộc không lột vỏ. Hôm đó, ngay sau khi nhà bếp gánh khoai ḿ tới, nhóm anh em từng gặp nhau, họp chớp nhoáng đồng ư với nhau cần có phản ứng và quyết định ngưng chia phần ăn. Mỗi người đi tới mỗi buồng, mỗi dăy thông báo cho anh em “nồng cốt” báo cho tất cả không ăn trưa và yêu cầu Ban Giám thị giải quyết. Tất cả mọi người đều đồng ḷng nhịn ăn để yêu sách. Ăng-ten, đội trưởng cai tù đành im lặng v́ tất cả mọi người đă một ḷng. Có một chi tiết tôi không quên và tôi muốn nhắc lại. Trong khi gặp vài ba anh em thông báo nhịn ăn trưa, tôi vào trong nhà chạy từ đầu dăy tới cuối dăy yêu cầu ngưng việc chia sắn. Tôi dừng lại chỗ nằm của một ông Đ/tá nói với ông:

- Nhờ anh nói chuyền với anh em trong kia là không chia phần ăn trưa nay.

 

Ông Đ/tá huơ tay – "Không, không, anh nói với người khác. Tôi không biết." Rồi ông kéo chiếc chiếu quấn tṛn nằm im như con sâu trong tổ. Nhiều anh em chúng tôi không ngờ, trừ một số rất ít, mọi người c̣n lại một ḷng một dạ đưa đến kết quả toàn diện như vậy.


Cũng như ngoài xă hội, trong tù có ba thành phần rơ rệt: - Thành phần tích cực, dấn thân, chấp nhận hậu quả để công khai bày tỏ thái độ qua các h́nh thức đ̣i hỏi, đấu tranh. - Thành phần tiêu cực là những người tách rời khỏi tập thể, khỏi cộng đồng tù chính trị, đứng về phía quyền lực và bạo lực để khống chế, hăm hại anh em đồng đội. Thành phần đông đảo là khối đa số thầm lặng. Tuy thầm lặng, không trực tiếp tham gia các hành động bày tỏ công khai, không lên tiếng đối kháng, nhưng không bao giờ họ hùa theo hay cảm t́nh với đám ăng ten, thi đua, trật tự... Họ lại là thành phần ngấm ngầm tán dương, yểm trợ và nể trọng những người dám đứng mũi chịu sào trước những bất công áp bức của bọn cai tù.


Sau một giờ chiều hôm ấy, anh em yêu cầu các đội trưởng thông báo cho cán bộ quản giáo và Ban Giám thị giải quyết. Sắn vẫn để nguyên ở đó và mọi người vẫn nằm chờ đợi. Tất nhiên là ai cũng đói, cái đói kinh niên, cái đói tàn hại đến cả thể chất lẫn tinh thần, nhưng không một người nào tỏ ra nao núng. Đến 7 giờ tối ban Giám thị vào từng dăy nhà, tập họp tù lại để giải thích. Ông trại trưởng tên là Quế. Thường tù phải gọi là Ban Quế. Trước hết ban Quế đổ tội cho đám nhà bếp h́nh sự làm việc tắc trách chứ không phải do chủ trương của Ban Giám thị và hứa sẽ chấm dứt việc cho ăn khoai ḿ không bóc vỏ. Trên thực tế, đội nhà bếp cũng có một công an quản giáo, và không một người đội trưởng nào được làm khác lệnh của quản giáo. Quản giáo đội nhà bếp có nhiệm vụ kiểm tra thức ăn trước khi cho gánh xuống các buồng giam.


Điều thứ hai Ban Quế khiển trách tù đă hành động vô tổ chức, như là thứ “không có học thức”. Điều thứ ba ông “yêu cầu ai có ư kiến ǵ nêu lên để Ban Giám thị giải quyết chứ không được hành động như vừa rồi”. Có người đặt vấn đề về nơi ở, về lao động. Về mức ăn đă được thông báo là bốn sắn một gạo, trong khi sắn hay gạo cũng chừng ấy. Câu trả lời của Ban Quế khiến mọi người phải nhắc lại câu nói của Tổng thống Thiệu. “Đừng nghe những ǵ CS nói...” Ông Quế nói như đinh đóng cột, không một chút lật lọng nào: Nói bốn sắn một gạo là đúng rồi. Nhưng bốn sắn là sắn khi vừa nhổ lên gồm cả vỏ, cuống, rễ và đất c̣n bám theo!


Lần tuyệt thực nhịn ăn này đă làm cho số đông anh em tù lên tinh thần để tiếp tục có những đ̣i hỏi khác hợp t́nh hợp lư, không nhằm sách động hoặc cố ư chống đối vô cớ.

 

Đ̣i hỏi tiếp theo là xin Ban Giám thị phải công khai hóa tài chánh chi thu theo ấn định cấp phát mà mỗi người tù được hưởng. Kèm theo biện pháp cho đại diện khối tù đến kiểm tra nhà bếp mỗi ngày – kiểm tra thức ăn có bị lấy cắp bớt không? Nước uống có được đun sôi không? Cả hai đ̣i hỏi này đều được đáp ứng. Mỗi ngày có hai người được các dăy nhà luân phiên đề cử, được nghỉ lao động, ra nhà bếp làm công việc kiểm tra tại chỗ. T́nh trạng có chút khả quan, nhưng không có ǵ khá hơn. Đói vẫn đói, thiếu vẫn thiếu, bệnh tật vẫn bệnh tật. Cái chết vẫn lấp lửng đâu đó phía trước. Biết đâu, về lâu về dài, sau tù h́nh sự sẽ đến tù chính trị, lần lượt thay nhau chung cái ḥm không đáy kia. Cuộc đấu tranh giành sự sống do đó vẫn tiếp tục bằng h́nh thức này hay h́nh thức khác.


Về phía Ban Giám thị, họ ra sức t́m cho ra bằng được những “phần tử” mà họ cho là cầm đầu chống đối, sách động. Những người được nhắm tới là những ai thường có biểu hiện tiêu cực “chây lười lao động”, hoặc những người do ăng-ten báo cáo có tư tưởng chống đối.

 

T́nh trạng gay cấn giữa đôi bên không những không nhẹ bớt mà ngày càng trầm trọng thêm. Việc chống đối lao động trở thành mục tiêu công khai khi t́nh trạng sức khỏe ngày một sa sút. Trước t́nh h́nh đó ban Giám thị tập họp toàn thể tù cải tạo tại hội trường để lại giải thích, lại vuốt ve, lại hăm dọa. Trước đó Ban Giám Thị đưa ra biện pháp cấp phiếu quà. Mỗi phiếu nhận quà không được quá 5kg. Nguyên tắc người nào không vi phạm và đi lao động đều được phát mỗi tháng một phiếu để gửi về cho gia đ́nh. Trên thực tế đă hơn ba tháng không ai được phát một phiếu nào.


Trước khi tập họp tại hội trường mọi người đồng ư với nhau là tẩy chay vụ phiếu quà để không bị Ban Giám thị dùng phiếu quà làm mồi nhử, làm áp lực. Nhưng rồi tại hội trường có hai người xé rào: Ông B. Ngh. Giám đốc Nha Nghi Lễ Phủ Thủ Tướng đứng lên bày tỏ ḷng cảm ơn đến ban Giám thị, nguyện tin tưởng và an tâm cải tạo. Xin Ban Giám thị cho được nhận thư và quà gia đ́nh mỗi tháng. Có tiếng từ trong đám tù ngồi dưới la lớn: Quỳ xuống! Quỳ xuống! từ đó ông này có hỗn danh Bửu Quỳ. Người thứ hai là Đ/tá cựu tỉnh trưởng Vĩnh B́nh, đứng dậy trong tư thế nặng nề mệt nhọc xin Ban giám thị cho được nhận phiếu quà mỗi tháng và thay v́ phiếu quà quy định 5kg xin tăng lên 10 hay15 kg để trại viên bồi dưỡng đủ sức lao động. Ông Đ/tá này đang trong t́nh trạng bị phù thủng nặng, nhiều người tỏ ra ái ngại và lo lắng cho ông, nên dù rất khó chịu, cũng thông cảm trường hợp xé rào đó.

 


Tiến Vào Kamphuchea

Chuyển Trại, Phân Tán Tù


Để phá vỡ t́nh trạng cù cưa căng thẳng ấy, sáng sớm ngày 7.1.1979 toàn thể tù được phân tán đi các trại khác. Khoảng 100 người cao tuổi hơn được chuyển sang Phân trại A, số c̣n lại sang trại C. Ba trại A, B, C nằm ở vị trí đỉnh của một tam giác, cách nhau không xa lắm, có thể đi bộ được. V́ thiếu phương tiện nên số tù chuyển đi C phải tự khuân vác đồ đạc và đi bộ hết cả quăng đường. Đây là một trường hợp trái với nguyên tắc an ninh khi di chuyển tù nhân. Nhưng v́ không có phương tiện, bất khả kháng, đành chịu!


Phải chăng do một sự t́nh cờ của định mệnh lịch sử để có một ngày trong đời không ai có thể quên. Ngày 7 tháng 1-1979 vào lúc 5 giờ sáng Hà Nội cho lệnh động binh với 100 ngàn quân ồ ạt vượt biên giới Tây Nam, tiến vào Kampuchea lật đổ chế độ Khmer Đỏ của Pol Pôt. Hơn hai tiếng đồng hồ sau đó, vào lúc 8 giờ sáng, trên 700 tù cải tạo tại Phân trại B, Lam Sơn, Thanh Hóa được lệnh chuyển trại, phân tán bằng đường bộ, lội qua đường ṃn và các thửa ruộng. Một số ít đi về hướng phân trại A, số đông c̣n lại đến phân trại C. Đoàn tù kẻ mang, người vác, áo lạnh, mũ trùm đầu bước đi rời rạc, nặng nề kéo dài đến hơn cây số. Đi cuối đoàn nh́n ra phía trước, tôi có cảm tưởng như đám bộ lạc Eskimo đang di chuyển trên cánh đồng tuyết. Mỗi đ̣an đi cách nhau một khoảng chừng năm trăm thước, có công an súng dài, súng ngắn đi kèm hộ tống. Súng dài là loại công an gác tù, súng ngắn K54 là quản giáo. Đến gần trưa cuộc “chuyển quân” hoàn tất. Bảy trăm tù được biên chế theo tổ đội mới, được chỉ định pḥng ốc, chỗ nằm.


Các dăy buồng giam ở phân trại C khang trang hơn gấp nhiều lần so với bên phân trại B. Buồng giam xây bằng gạch, mái lợp ngói, sân trước tráng xi măng, chỗ nằm có hai tầng. Tầng trên sàn gỗ, tầng dưới là bục xi măng. Mỗi người một chỗ nằm rộng đúng 80 cm. Trại này được xây dựng trên góc một g̣ đất cao. Phía trước cổng trại là một đầm nước trồng cây sen và cây súng, chạy dài như một ḍng suối cạn, bờ cao ngang bề mặt sân trại khoảng hơn năm sáu mét.

 

Khu đất trước cổng ngoài ṿng rào nhà tù mới được xây một dăy xà lim nhiều pḥng bằng đá lấy từ ngọn núi Mành cách đó khoảng non một ngàn thước. Xà lim được xây bằng mồ hôi nước mắt của hàng trăm tù cải tạo đẩy xe cút kít chở đá về trong suốt mấy tháng. Họ xây xà lim để giam nhốt chính họ, giam nhốt chính những đồng đội, chiến hữu của ḿnh. Người “khánh thành” dăy xà lim này là ông Nguyễn Mậu (*), với ba tháng kỷ luật cùm chân, nằm trong bóng đêm với rệp. Dăy xà lim là một công tŕnh mới trong một số công tŕnh khác như “ao cá bác Hồ” dưới chân núi Mành, sân cây cảnh trước cơ quan v.v...

 


Song Nhị

___________
(*) xem chương 14 - Châu về Hiệp Phố/ tiểu mục: Thảm kịch trên thân phận người tù

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính