DUYÊN KIẾP
Tôi
tên là Đào Duy Kỳ, ḍng dơi Đào Duy Từ, là một trung úy trong quân lực
Việt Nam Cộng Ḥa, tốt nghiệp trường Vơ Bị Thủ Đức, ra đơn vị tác chiến
khoảng hai năm th́ ngày 30-4-1975 xảy đến. Cũng như mọi sĩ quan Việt Nam
cộng ḥa, tôi đă bị giải ra Bắc và ngồi tù qua các trại Sơn La, Yên Bái,
Lạng Sơn...
Tôi vốn sinh trưởng trên sông nước Cửu Long giang, khí hậu an lành và
trong mát cho nên khi ra Bắc, tôi rất khốn khổ. Tại Lạng Sơn, Thái Nguyên,
mùa hè nóng ghê gớm, đến nỗi ban ngày không dám nằm giường chiếu hoặc dựa
cột, ngồi ghế hay gốc cây. Mùa hè, dân nơi đây phải chui xuống gậm giường
mà nằm. Mùa đông th́ rét như cắt thịt, nhất là cơn gió bấc và mưa phùn đă
cộng tác chặt chẽ làm tội chúng tôi, những tù nhân thiếu áo, thiếu cơm.
Nhưng rồi ngày tháng trôi qua, tôi cũng đă quen thuộc với khí hậu Lạng
Sơn, Thái Nguyên.
Những ngày ra Bắc đầu tiên, chúng tôi rất khổ sở. Chúng tôi bị bọn công an
ngu dốt chửi mắng, đánh dập và hành hạ. Chúng dốt nhưng lại có nhiều tự
hào. Tư hào chiến thắng. Tự hào yêu nước. Tự hào thông minh và tự hào giàu
mạnh. Chúng thực thà tin rằng chúng là người trí tuệ, c̣n tất cả nhân dân
miền Nam là ngu dốt nên đă theo Mỹ và thất bại. Chúng tự hào là chúng yêu
nước nhất c̣n phe quốc gia là bán nước cho nên chúng đề cao khẩu hiệu “
Yêu nước là yêu xă hội chủ nghĩa”, hàm ư chỉ có người cộng sản là yêu
nước. Chúng không biết Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và đàn em sau này của
Trường Chinh, Vơ Nguyên Giáp đă kư tên bán Việt Nam cho Trung Quốc. Họ
khinh người Nam ngu dốt, không có t́nh yêu quê hương, tổ quốc cho nên khi
có người xuất cảnh, họ mở nhạc cho nghe bài “ Quê hương là chùm khế ngọt”
để dạy người xuất ngoại ḷng yêu nước. Họ không biết những người bỏ nước
ra đi cũng rất yêu nước, yêu nhà, yêu mẹ già, em dại và yêu tự do nhưng v́
cộng sản tàn ác nên phải bỏ tất cả mà ra đi! Họ coi họ là bậc thầy, c̣n
chúng tôi là kẻ ngu dốt phải nhờ họ dạy dỗ cho nên người. Danh từ “ học
tập cải tạo” ư nghĩa là thế! Dưới mắt cộng sản, nhân dân miền Nam là cầm
thú, chỉ có cộng sản là con người, con người trí tuệ, bách chiến bách
thắng! Sự khinh bỉ cộng với ḷng căm thù cho nên một số người Bắc đă chạy
sang Hongkong mà c̣n làm lễ mừng chiến thắng 30-4 và đánh đập người Nam
tại đây!Bọn công an, bộ đội đa số nhiễm độc cộng sản, học đường lối tàn ác
từ Liên Xô, Trung Quốc,lại muốn tỏ ra hăng hái tích cực để lập công cho
nên chúng đày đọa chúng tôi đủ điều. Hể một tù nhân có lỗi ǵ là cả lũ
công an, bộ đội xúm lại đánh hôi. Đánh hội chợ coi như là một đặc tính của
con người xă hội chủ nghĩa. Nếu không xúm vào mà cứ đứng trơ mắt nh́n, có
lẽ họ sẽ bị phê b́nh là không có tinh thần đồng đội, không có ư thức căm
thù quân địch. Chúng lại dùng khí hậu khắc nghiệt, và cái đói và rét để
đọa đày chúng tôi. Chúng bắt chúng tôi lao động cực nhọc để trả thù chúng
tôi. Nhất là những ngày đầu tiên ra đất Bắc, chúng tôi thường bị dân
chúng, nhất là đàn bà và trẻ con ném đá, ném đất và chửi bới thô bỉ nặng
nề. Có khi họ đă tập trung đông đảo trên đường chúng tôi đi lao động để
ném đá, hô đả đảo và chửi bới. Có thể là do dân chúng đă bị nhiễm nọc độc
cộng sản. Có thể địa phượng bắt dân đả đảo để trấn áp chúng tôi, mong lập
thành tích kia nọ. Có đôi khi chúng tôi đột nhiên gặp vài đồng bào th́ họ
ngại ngùng, tránh né. Có lẽ họ sợ liên lụy, sợ bị công an bắt bỏ tù v́
liên lạc với tù nhân!Sống trong chế độ ác ôn, con người phải đeo mặt nạ,
nếu không th́ dễ bị quỷ tha, ma bắt.Tất cả đều là nạn nhân!
Ban đầu th́ chúng tôi chao động, có người sợ hăi, nhưng rồi th́ cũng quen
đi v́ ḿnh đă ngồi xuống đất đen th́ c̣n ǵ để mất và để sợ hăi. Chúng tôi
cho rằng cuộc đời chúng tôi đă chấm dứt v́ ở Liên Xô, Trung Quốc và Việt
Nam trước đây, những tù binh hay phản động là ngồi tù rục xương mà thôi.
Chúng tôi im lặng để mặc cho họ ném đá và chửi bới. Nếu ai bị thưong th́
chúng tôi săn sóc, băng bó. Nếu dân chúng quá dữ tợn th́ chúng tôi dừng
lại, để quản giáo giải quyết rồi mới tiếp tục đi. Tôi hiểu dân chúng miền
Bắc đa số tin theo lời tuyên truyền xuyên tạc của cộng sản, và tin những
lời cộng sản nói. Họ tin vào ông Hồ, họ cất giấu cán bộ, và góp lương thực
ủng hộ cộng sản. Nhiều bà bảo rằng đảng lúc nào cũng đúng. Công an không
bắt oan ai bao giờ. Con cháu bà nếu bị giam giữ th́ bà bảo chúng nó cố
gắng hoc tập tốt để sớm trở về. Nhiều ông bố thấy con ngỗ ngáo, bèn đem
con cho bộ đội hay giao con cho công an để họ giáo dục thành người tốt.
Ngay tại miền Nam trước 1975, nhiều người tin Nguyễn Hữu Thọ là người quốc
gia, không phải cộng sản. Ông Hồ là người yêu nước, là bậc đạị nhân, đại
nghĩa. Khi dân Bắc di cư vào Nam, đồng bào Nam kỳ thắc mắc: “Ngoài Bắc đă
độc lập tự do, sao c̣n bỏ xứ mà đi?” Tất cả đă nhiễm độc quá nặng nên tôi
cũng không oán trách họ. Nhưng rồi ngày tháng trôi qua, tôi nhận thấy có
sự biến đổi trong dân chúng. Mấy năm sau, họ không chửi bới hay ném đá,
ném đất vào chúng tôi nữa. Trái lại , có những đôi mắt lặng nh́n chúng tôi
như biểu lộ một niềm thông cảm.
Sau ngày 30-4-1975, nhiều đồng bào và cán bộ miền Bắc đă vào Nam. Khi vào
th́ họ ốm yếu xanh xao, khi trở ra th́ béo tốt, áo quần sang trọng, lại
mang cả vải vóc, xe đạp, xe Honda, TV, tủ lạnh, radio, casette là những
thứ mà chỉ có cán bộ cao cấp đi Liên Xô là có thể mua về được. Họ cũng
nghe những câu chuyện về Miền Nam thanh b́nh thịnh vương, khác với h́nh
ảnh ghê tởm, hăi hùng do cán bộ nhà nước đă tuyên truyền trước đây như
lính ngụy “xé xác, uống máu, moi gan quân thù”. Họ nh́n kỹ những tù nhân
th́ thấy những tù nhân này tuy bị đày đọa khổ sở nhưng vẫn toát ra sự
thông minh, hiền lành. Họ nghe nói sĩ quan miền Nam phần lớn có bằng đại
học, ít nhất cũng tốt nghiệp trung học phổ thông chứ không phải là hạng
cán bộ ị tờ như ở miền Bắc sau cuộc Cải cách ruộng đất.
Khoảng 1980, tù nhân đă được gia đ́nh thăm nuôi. Lúc này th́ dân chúng
miền Bắc đă tới gần dân chúng miền Nam hơn khi họ gặp những bà mẹ, người
vợ sĩ quan miền Nam ra thăm nuôi. Họ thấy miền Nam nhiều t́nh cảm, đầy
t́nh chồng nghĩa vợ, và có tài nguyên phong phú mà thăm nuôi chồng con
trong bao nhiêu năm. V́ thế, họ thấy miền Nam có một cái ǵ đó khác với
miền Bắc nghèo khổ, cằn cỗi về vật chất và tinh thần. Những sĩ quan miền
Nam trung hậu đă trở thành đầu đề cho các câu chuyện đầu môi của dân Bắc.
Một hôm, ông giáo Thào qua sông Gianh, là một sông rất rộng ở miền Trung.
Trên đ̣ chật ních người. Thuyền chở nặng không đi nổi. Ông giáo Thào
thường qua lại sông Gianh cho nên quen biết ông lái đ̣. Ông lái đ̣ kêu to
lên: “Ông giáo ơi, xin giúp một tay”. Ông giáo Thào bèn đứng dậy cầm chèo.
Mấy bà đi chợ cười to mà nói:
“Ông
giáo giỏi quá!”
Lúc
bấy giờ trên đ̣ có mấy người trẻ, to cao, mập mạp nhưng đen đúa đồng loạt
đứng dậy nói với ông giáo:
“Thầy để chúng em chèo cho!”.
Việc
này làm cho dân Bắc vĩ tuyến đă hiểu biết đôi phần về tinh thần “tôn sư
trọng đạo”, và “ nhân nghĩa lễ trí tín” của sĩ quan miền Nam trong khi
miền Bắc đă mất hẳn từ khi cờ đỏ xuất hiện trên thủ đô Hà Nội!.
Kỷ luật trại giam rất khắc nghiệt và tàn bạo. Tù nhân không được hái trộm
khoai, sắn, rau trong trại. Tù nhân nam không được liên hệ t́nh dục với nữ
phái, nếu bị bắt quả tang th́ bị biệt giam ở hầm kín. Ai trốn trại th́ bị
giết chết không tha... Ngoài ra c̣n nhiều điều lệ lạ lùng khác nữa. Giữa
trại tù thực dân và cộng sản có nhiều khác biệt, nhưng điều khác biệt rơ
nhất là cái đói.Trong trại tù cộng sản, tù nhân luôn luôn đói. Lúc đi lao
động, lúc nằm ngủ, chúng tôi đếu bị cái đói dày ṿ. Chúng tôi đa số không
vi phạm điều thứ nhất là v́ lúc nào cộng sản cũng canh chừng tù nhân rất
ngặt. Ban đêm chúng khóa cửa lại, không ai ra ngoài để đào khoai, nhổ sắn.
Chúng tôi có thể giải quyết vấn đề dạ dày bằng nhiều cách.Khi đi lao động,
chúng tôi có thể hái rau rừng, đào khoai rừng, hoặc bắt những con vật như
rắn, cắc kè, kỳ nhông, hay đào bắt ḅ cạp, và những côn trùng trong ḷng
đất. Đôi khi chúng tôi cũng giăng bẫy bắt chồn cáo, mễn và thỏ rừng. Chúng
tôi vừa lao động vừa nấu ăn rất nhanh và rất gọn cho nên cũng đỡ đói ít
nhiều. Điều chẳng may là không phải lúc nào chúng tôi cũng thu hoạch kết
quả v́ tù nhân th́ quá đông. Không những tù nhân mà bọn bộ đội, công an
cũng đói phải kiếm thêm lương thực. Tuy nhiên, từ khi được gia đ́nh tiếp
tế, đời sống vật chất của chúng tôi tạm đủ. Điều khoản thứ hai th́ miễn
bàn, v́ trại tù của chúng tôi giam toàn đàn ông, Cán bộ, công an, văn
pḥng và y tế cũng đều là nam nhân, không có một bóng nữ. C̣n việc trốn
trại th́ cũng hiếm.
Trong trại tôi có hai công an trẻ, tên là Hoạt và Liêm rất hiền lành. Hai
anh thường dẫn chúng tôi đi lao động. Các anh rất dễ dăi, không quát nạt,
bắt khoan, bắt nhặt như các công an khác. Hai anh hỏi tôi nhiều điều:
-Nghe nói sĩ quan các anh đều tốt nghiệp đại học Sài G̣n?
-Đa
số sĩ quan tốt nghiệp đại học, là giáo sư, kỹ sư, bác sĩ. Một số là sinh
viên.
hư
tôi là sinh viên khoa học phải đi lính v́ lệnh động viên.
-Trong Nam phải chăng con nhà giàu và quyền thế tay sai Mỹ ngụy mới được
học đại học phải không?
-Trong Nam ai cũng được học. Con cái của Nguyễn Hữu Thọ, Trịnh Đ́nh Thảo,
Trương Như Tảng... theo cộng sản nhưng chính phủ miền Nam vẫn cho con cái
họ học hành, không ngăn cấm, bắt bớ, giam cầm và trả thù vợ con họ. Mọi
người đều được học trung học, đại học nếu có học lực khá...Học trung học
xong th́ các học sinh có thể xin học các đại học. Có hai loại đại học tại
miền Nam: Một là học tự do nghĩa là vào học khỏi cần thi tuyển như Y khoa,
Duợc khoa, Văn Khoa, Luật khoa. Một loại là phải thi vào là đại học Sư
Phạm, Đại học Hành chánh... Nói chung là ai học giỏi đều có thể học đại
học. Có nhiều bà buôn thúng bán mẹt cũng nuôi con học kỹ sư, bác sĩ.
Sau đó, cả hai công an xin tôi dạy Anh ngữ, riêng anh Liêm c̣n xin học
nhạc với đại úy Thêm. Tôi nói:
Chúng tôi rất sẵn sàng giúp các anh học hành, nhưng không biết cấp trên có
chấp thuận, và việc này có trái nội quy trại hay không.
Hai anh cho biết việc này đă được cấp trên thông qua. Sau hai năm chúng
tôi chuyển trại th́ việc học của hai anh công an trẻ tạm ngưng. Có lẽ các
anh sẽ t́m thầy khác. Trong xă hội cộng sản, ngay cả tại Trung Quốc lục
địa, hầu hết cán bộ không thích học tiếng Nga, mà thích học tiếng Anh để
mong có cơ hội làm việc tại các nước tư bản. Có lẽ hai anh công an kia có
dự tính xin chuyển sang ngành ngoại giao hay xin đi lao động xă hội chủ
nghĩa, hay hoạt động gián điệp tại các nước tư bản. Tại Sài g̣n, sau 1975,
con em đảng đua nhau học tiếng Anh, c̣n con em “ngụy” yếu thế nên bị bắt
học tiếng Nga. Sự đời tréo cẳng ngỗng là thế!
Tôi vốn là một sinh viên trường Đại Học Khoa học Sài g̣n, bị động viên mà
vào trường vơ bị Thủ Đức. Tôi có người yêu là Bạch Yến, người Huế, sinh
viên Dược Khoa, ḍng giơi tôn thất. Hai chúng tôi gặp nhau tại một “bal de
famille” nhân sinh nhật của một người bạn, và từ đó chúng tôi thường gặp
nhau rồi yêu nhau. Những khi rảnh rỗi tôi thường đến nhà nàng. Ba nàng đi
làm việc ở bộ Giáo dục, c̣n mẹ nàng lo việc buôn bán ở chợ Bến Thành, chị
nàng dạy học ở trường tiểu học Bàn Cờ. Tôi thường đến thăm nàng vào trưa
thứ năm v́ ngày đó, thời khắc biểu của hai chúng tôi đều trống. Thỉnh
thoảng chúng tôi đi xem ciné với nhau. Khi tôi đến thăm nàng tại nhà hay
khi chúng tôi đi xem ciné, nàng thường mang hai ba lớp quần, nhất là nàng
thường mang quần tây, hay quần jean để bảo vệ an toàn cá nhân. Và khi tôi
đến thăm nàng, nàng cẩn thận đóng các cửa sổ lại kẻo xóm giềng xoi mói mà
sinh ra điều nọ, tiếng kia. Tôi được phép cầm tay nàng, ôm nàng và hôn
nàng mà thôi. Nàng hay khóc. Mỗi khi xúc động th́ nàng chạy vào buồng khóc
và lau nước mắt sau đó mới trở ra chuyện tṛ với tôi. Cuộc t́nh duyên của
tôi đứt đoạn v́ tôi phải đi động viên, rồi ra tiền đồn. Rồi biến cố
30-4-1975, tôi đi tù c̣n nàng th́ đă theo gia đ́nh ra đi trong ngày
29-4-1975 và chúng tôi xa nhau mà không một lời từ giă. Và cũng từ đó về
sau, tôi không được tin tức ǵ về nàng và gia đ́nh nàng.
Khoảng năm 1983, chúng tôi bị chuyển trại về Vĩnh Phú. Một hôm nhóm tôi
gồm 20 người đi đốn cây trong rừng. Buổi trưa là giờ ăn, tôi bèn đi sâu
vào rừng để t́m chuối rừng hay rau rừng để “cải thiện”. Bỗng nhiên tôi
thấy có một cánh tay phụ nữ trắng trẻo giơ lên vẫy tôi. Tôi nh́n quanh rồi
bước lại th́ một người con gái hiện ra ôm lấy tôi và kéo tôi vào một cái
hang ở dưới một gốc cây. Nàng ôm tôi và nói bằng tiếng Việt rất rơ ràng,
rành mạch :
“Em yêu anh! Anh hăy yêu em đi”
Tôi
không kịp phân biệt, như một cái máy, tôi ôm nàng và cởi y phục nàng. Tôi
không suy nghĩ, do dự. Tôi như con hổ đói vồ mồi. Tôi như con trai mới lớn
lần đầu yêu một cô gái trắng trinh. Nàng c̣n là một con gái và thân thể
thơm mùi con gái. Tôi như đi vào một thế giới mới mẻ đầy cảm xúc tuyệt
vời. Xong việc, nàng ngồi dậy, hôn tôi và bảo tôi:
“Anh
hăy đi nhanh đi. Em tên là Mỹ Lan”.
Tôi vội chỉnh đốn y phục và nói:
“Cảm
ơn em đă đến, đă cho anh những giây phút tuyệt vời”.
Tôi
ôm nàng nhưng không nói tên tôi v́ tôi không mong được gặp lại nàng lần
thứ hai trong đời v́ việc này rất khó đối với một tù nhân giữa núi rừng âm
u! Hơn nữa, tôi sợ câu chuyện có thể bị vỡ lỡ mà mang tai họa.
Trước khi ra khỏi hang, tôi nh́n ngược nh́n xuôi lỹ lưỡng. Thấy không có
ai theo dơi, tôi nhanh nhẹn bước ra rồi tiếp tục công việc như chẳng có
việc ǵ xảy ra. Mấy hôm sau, khi đi đốn cây rừng, tôi cố ư trở lại nơi
này, nhưng không hề thấy bóng dáng nàng hay một vết tích nào của nàng. Tôi
cố ư lắng nghe trong trại có tin tức ǵ một người con gái nào bị bắt ở gần
trại không, nhưng tuyệt nhiên không nghe ai nói ǵ cả. Tôi mừng nàng được
an toàn. Tôi phục nàng can dảm, dám xông pha hiểm nguy. Nếu chuyện vỡ lỡ,
nàng có thể bị bắt về nhiều tội.
Nàng
có thể mang tội gián điệp và bị tù măn kiếp, héo úa một đời xuân. Tôi bị
tù đă đành, nhưng nàng tại sao lại mạo hiểm? Ngoài đời thiếu ǵ trai tơ?
Thiếu ǵ đàn ông? Tôi không thể hiểu nguyên do nào mà nàng hành động như
thế! Nàng là con gái miền núi, đâu phải ngưởi Tây phương mà có lối “yêu
cuồng sống vội” như vậy? Quả thật tội không hiểu. Dẫu nàng thế nào đi nữa,
tôi vẫn yêu nàng, trân quư nàng. Nàng là một vị tiên đă hiện đến trong đời
tôi. Nàng đến một lần và chỉ ban ân sũng một lần thôi! Tôi nhớ nhung
nàng.
Tôi
nhớ làn da trắng ngà của nàng, hương thơm trên thân thể nàng, nhất là nốt
ruồi bên mép trái, đặc biệt là một nốt ruồi son giữa ngực của nàng. Nàng
chợt đến rồi chợt đi như con bướm vàng trong giấc mộng. Thỉnh thoảng tôi
nhớ đến nàng. Trong giấc mơ, tôi thấy nàng cùng tôi âu yếm.Tôi thắc mắc
không hiểu nàng là ai. Nàng là một cô gái Mường hay cô gái Kinh? Nàng là
một sơn nữ hay một cán bộ ở trong vùng? Nàng lăng mạn muốn t́m của lạ miền
Nam hay nàng là một cô gái bụi đời? Dẫu sao, đối với tôi, nàng là một vưu
vật!
Tuần
sau, chúng tôi được lệnh chuyển trại về Sơn La. Việc di chuyển này làm cho
ḷng tôi thêm chua xót.Thế là tôi xa cách Vĩnh Phú, không c̣n cơ hội gặp
lại Mỹ Lan.
Năm
1985, tôi được phóng thích.
Trước đây, tôi nghe nói một số sĩ quan cộng ḥa bị giải ra Bắc bằng xe lửa
th́ bị dân chúng ngoài Bắc ném đá. Nhưng lần này từ Hà nội đến Quảng B́nh
, chúng tôi không thấy có trở ngại nào. Khi về Quảng Trị, Huế, Quảng Nam,
chúng tôi bước xuống tàu cho giản gân cốt, th́ đồng bào bu lại hỏi han,
nắm tay, sờ đầu, kẻ cười, người khóc làm cho chúng tôi rất xúc động. Khi
chúng tôi lên tàu, đồng bào ném quà bánh cho chúng tôi rất nhiều. T́nh cảm
quê hương miền Nam rất nồng thắm với những đứa con bất hạnh như chúng tôi!
Sang
năm 1986, tôi cùng anh chị em trong gia đ́nh tổ chức vượt biên và may mắn
đến Poulo Bidong, sau đó, năm 1987, tôi được định cư tại Hoa Kỳ. Tại
Houston, tôi vừa đi làm vừa ghi tên vào đại học. Sau mấy năm, tôi đỗ bằng
kỹ sư điện toán và làm việc cho hăng Corel. Sau tôi gặp Mai Linh người Mỹ
Tho và chúng tôi kết hôn. Thỉnh thoảng tôi nhớ đến kỷ niệm Vĩnh Phú, nàng
đă đến rồi đi như giấc mộng Liêu Trai. Tôi nghĩ giờ nàng có lẽ đă lấy
chồng, hằng ngày vợ chồng mang gùi vào núi bẻ măng, đào khoai sọ, nhổ sắn
như h́nh ảnh những người dân thiểu số mà tôi thường thấy khi đi Đà Lạt
chơi. Tôi thấy bóng nàng ẩn hiện trong núi rừng Vĩnh Phú và ḷng tôi cảm
thấy luyến tiếc bâng khuâng. Tôi nghĩ cuộc đời nàng sẽ héo úa trong chốn
rừng sâu. Giỏi lắm th́ nàng sẽ thành một cán bộ thương nghiệp hay Hợp tác
xă trong bản làng, tay dắt con lớn,vai địu con nhỏ, ngực teo, mặt mũi xanh
xao như bao cô nàng Thổ Mán nơi thượng du miền Bắc.Hay cao hơn nữa là một
nữ đảng viên cấp xă, cấp huyện, mang áo bộ đội bỏ ngoài quần, đội nón cối,
đi dép râu, vai mang săc-cốt, tay đeo đồng hồ,thân gầy ốm, dáng lom khom
bước trong cơ quan. Những h́nh ảnh của nàng, lúc ẩn lúc hiện trong tâm trí
tôi làm thành một kho kỷ vật êm đềm.
Cuộc
hôn nhân của chúng tôi rất hạnh phúc. Chúng tôi sống bên nhau được ba năm
th́ Mai Linh bị bệnh ung thư rồi mất. Tôi buồn rầu mấy năm trời. H́nh ảnh
Mỹ Lan lại hiện đến trong tôi rất ngọt ngào và thần bí. Hương thơm của
thân thể nàng như c̣n vương vấn trong mũi tôi và thân thể tôi. Tôi có ư
định về Việt Nam du lịch, thăm lại Vĩnh Phú, mối t́nh tôi. Nhưng tôi lại
không dám v́ cuộc đời như nước chảy mây trôi, thuyền trôi mà bến bờ cũng
đổi thay, quá khứ e đă tan vỡ như xác pháo mùa Xuân, không thể nào t́m lại
được. Nếu đào bới quá khứ,chỉ thêm đau ḷng như Lưu Nguyễn khi trở lại quê
xưa!
Các
bạn bè khuyên tôi nên đi du lịch một chuyến để quên sầu. Tôi mua vé máy
bay đi du lịch Đức, Pháp, và Ư v́ Tây phương đối với tôi có nhiều quyến
rủ. Hơn nữa, tôi có bà chị họ định cư tại Tây Đức. Chị tôi có con du học
tại Tây Đức trước 1975, đỗ tiến sĩ, sau 1975 xin ở lại, rồi bảo lănh gia
đ́nh qua đây. Khi tôi đến Tây Đức, gặp anh chị và các cháu, tôi vui mừng
hết sức. Các cháu lái xe đưa tôi đi la cà trong thành phố. Một hôm các
cháu đưa tôi đi ăn phở của người Việt nổi tiếng là ngon nhất tại đây. Khi
bà chủ tiến tới chào hỏi chúng tôi th́ tôi ngạc nhiên hết sức, v́ nàng là
Mỹ Lan, người t́nh một khắc mà tôi ghi nhớ ngàn đời. Bên môi trái của nàng
vẫn in rơ một nốt ruồi duyên. Tôi liền đứng dậy, kéo nàng ra một bên, rồi
hỏi nhỏ:
-
Phải chăng em là Mỹ Lan? Chúng ta đă gặp nhau tại trại tù Vĩnh Phú?
Sau
một phút ngỡ ngàng, nàng cũng nhận ra tôi. Tôi hỏi nàng và kể lể mọi sự.
Chúng tôi ôm nhau mà khóc. Nàng giao công việc cho người nhà rồi đưa tôi
về nhà nàng. C̣n tôi, tôi quay lại bảo các cháu tôi:
- Bà
chủ nhà hàng là bạn quen của cậu ở Việt Nam. Bà ấy mời cậu lại nhà. Các
cháu về trước, cậu sẽ về sau”. Dặn ḍ các cháu xong, tôi theo nàng ra xe.
Nhà
nàng ở tại một khu yên tĩnh trong thành phố. Nàng ở một ḿnh với con trai.
Các anh em th́ đă có nhà riêng. Người th́ đi làm các hăng tư, người th́
phụ giúp nàng trông coi tiệm phở. Khi c̣n hai chúng tôi, nàng kể lể sự
t́nh. Quê nàng ở Sơn Tây, tổ tiên đỗ cử nhân, tiến sĩ, làm chức quan nhỏ ở
triều Lê, triều Nguyễn. Năm 1954, cộng sản về Hà Nội, mở cuộc cải cách
ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, gia đ́nh nàng bị quy là địa chủ.
Mẹ nàng và anh em nàng thu vén tài sản trong tay nải, bỏ trốn lên mạn
ngược. Ban đầu, gia đ́nh nàng giả làm thương gia lên buôn bán để t́m hiểu,
sau đó làm nhà cửa gần bản Mường, lán Thổ tại Vĩnh Phú.
Gia
đ́nh nàng ăn mặc, nói năng và sinh hoạt đều theo phong tục bản Mường, Mán.
Nhờ khéo giao thiệp, gia đỉnh nàng được cảm t́nh dân chúng nơi đây, dược
họ giúp đỡ và che chở. Nàng nghe tin các sĩ quan miền Nam bị đưa ra giam
giữ tại Vĩnh Phú, là một nơi gần bản Mường của nàng. Tuy chưa gặp những
người miền Nam, nhưng ḷng nàng chan chứa cảm t́nh với các tù nhân miền
Nam v́ họ với nàng là cùng chung cảnh ngộ, là nạn nhân của chế độ cộng
sản. Nàng quyết gặp một sĩ quan miền Nam và sẵn sàng hiến thân cho chàng
ta để giữ lấy ḍng máu trong sạch của người quốc gia. Nàng cam tâm mang
tiếng “không chồng mà chữa” c̣n hơn ở góa trong rừng thẳm, hoặc phải lấy
anh Mán, anh Thổ hay anh cộng sản làm chồng! Nàng đă nghiên cứu địa h́nh
địa vật, và đă đào hang ẩn náu đưới một gốc cây trong rừng, nơi tù cải tạo
thường tới lao động. Nàng đă chờ đợi vài ngày đêm; cuối cùng nàng đă gặp
tôi, và đă toại nguyện.
Sau
buổi gặp gỡ đầu tiên, nàng đă có thai. Lúc này, mẹ nàng đă mất, anh em
nàng chung sống với nhau. Hằng ngày, anh em nàng phải tô mặt cho đen thêm
một chút để tránh cặp mặt cú vọ của cộng sản, mặc dầu nơi đây hoang vắng,
người kinh it khi lên đây Gia đ́nh nàng cũng theo nếp “du canh” của người
thiểu số mà di chuyển nơi này nơi nọ. Cứ vài năm là một lần di chuyển, như
vậy cũng có lợi là tránh được sự theo dơi của công an. Nhân dịp người Hoa
bị đánh đuổi trong vụ nạn kiều, anh em nàng theo họ sang Hoa Lục, rồi sang
Hongkong.
Tại
đây, chính phủ Hongkong bắt anh em nàng vào trại tập trung. Sau một thời
gian, gia đ́nh nàng được phái đoàn Tây Đức nhận định cư tại Tây Đức. Anh
em nàng lúc đầu xin làm công nhân cho các hăng xưởng, sau cả nhà quyết
định góp vốn mở hàng phở, và anh em nàng đă thành công. Khách hàng vào ra
nườm nượp, người Việt Nam đă đành mà người Đức, Pháp, Mỹ cũng thích dùng
phở của nhà nàng. Con trai nàng nay đă lớn, được mười tuổi, đang theo học
trung học và nàng th́ vẫn pḥng không chiếc bóng. C̣n tôi, tôi cũng kể đời
tôi từ nhỏ cho đến nay, qua bao chuỗi ngày sóng gió và đau thương.
Chúng tôi ngồi nói chuyện một hồi th́ nàng rủ tôi theo nàng đón con đi học
về. Chúng tôi ra xe do nàng lái, và chờ đợi ở cổng trường. Vài phút sau
th́ học sinh tan học. Con nàng ra xe. Nàng giới thiệu tôi với con nàng:
- Hưng, đây là bố ruột của con từ Mỹ sang và gặp mẹ.
Tôi nh́n thấy Hưng giống tôi nhưng cao to hơn, và trắng trẻo hơn. Tôi ôm
con tôi và con tôi cũng ôm tôi trong xúc động. Tôi rất mừng v́ bất chợt mà
tôi đă có một đứa con trai khôn lớn.
Tối hôm đó, chúng tôi sống trong đêm tân hôn. Đêm đó cũng là đêm thứ hai
tôi thấy lại bộ ngực trần trắng như ngọc với một nốt ruồi son nằm ở giữa
hai g̣ bồng đảo rất xinh đẹp.
Tôi ngỏ lời xin cưới nàng làm vợ, nàng sung sướng cười trong hàng nước
mắt. Tôi hỏi nàng muốn sang Mỹ hay ở lại Đức, nàng trả lời nàng muốn sang
Mỹ cùng tôi chung sống. Mấy tháng sau, chúng tôi tiến hành thủ tục hôn
nhân và bảo lănh. Đám cưới của chúng tôi được tổ chức đơn giản tại Đức,
gồm anh chị họ và các cháu của tôi, cùng anh em nhà nàng với bạn bè. Sau
đó, vợ chồng và con chúng tôi về Mỹ và sống một đời tự do và hạnh phúc.
Sơn Trung
|