Chuyện đổi đời: Tŕnh diện đi tù
Phùng Văn Phụng
Trước năm 1975, tôi là Giáo sư trường Trung
học Lương văn Can, Quận 8. Sài g̣n.
Sau năm 1975, tôi bị đi cải tạo gần 8 năm. Chỉ là một Giáo chức, không
thuộc diện Sĩ quan phải tŕnh diện, vậy mà cũng vô trại Long Thành, Thủ
Đức, rồi Lào Cai và Vĩnh Phú ngoài Bắc.
Thực sự, th́ trước năm 1975, khi Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy c̣n làm Phó chủ
tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến, tôi có tham gia đảng Tân Đại Việt của
Giáo sư Huy nhưng chỉ với chức vụ phó Bí thư.
Giữa tháng 6 năm 1975, “Ủy Ban Quân Quản” Thành phố Sài g̣n, ra lịnh tất
cả Quân, Cán chính Việt Nam Cộng Ḥa phải tŕnh diện học tập cải tạo. Tôi
xin ba tôi mười ba ngàn đồng, bằng nửa tháng lương công chức hạng A của
tôi (Là hạng có mức lương khá lúc bấy giờ) để đi tŕnh diện tại trường Lê
văn Duyệt ở Gia Định.
Theo lời kêu gọi đăng trong báo chí và đài Phát thanh lúc bấy giờ, “Chính
phủ Cách mạng” yêu cầu chúng tôi mang mùng mền, thức ăn và tiền bạc để
đóng tiền “ăn trong một tháng”. Trước đó, Hạ sĩ quan Quân đội cũ được yêu
cầu “đi học một tuần rồi về làm ăn”. Vậy là mọi người đều đinh ninh rằng
vậy là những người chịu tŕnh diện, chịu đầu hàng, sẽ “chỉ học tập chính
trị trong ṿng một tháng để hiểu biết đường lối, chính sách của chế độ
mới, rồi chắc chắn sẽ được cho về làm ăn”. V́ nếu không thả về sau khi học
một tháng th́ đóng tiền làm ǵ. Không lẽ nhà cầm quyền vừa thắng trận lại
lường gạt kẻ bại trận sao?
Do đó, khi em tôi chở tôi đến trường nữ Trung học Lê văn Duyệt, thấy hai
đầu đường có hai xe tăng chỉa họng súng về hai phía của đầu đường Lê văn
Duyệt, tôi có cảm giác không yên, ḷng xao xuyến khó tả. Sao kỳ quá vậy.
Súng ống, xe tăng sắp hàng như đang chuẩn bị đánh trận.
Cũng ngây thơ như tôi, anh Trương chí Thiện là đoàn viên Phong Trào Quốc
gia Cấp Tiến và là Tổng Thơ Kư của Liên Minh các đảng gồm Cấp Tiến, Công
Nông... không nằm trong diện phải đi tŕnh diện cải tạo. Từ cấp bậc Phó
Chủ Tịch và Chủ Tịch cấp Quận trở lên mới phải tŕnh diện mà thôi. Nhưng
anh Thiện làm kư giả báo Tàu, sau ngày 30 tháng 04, các báo đều bị đóng
cửa, ngưng hoạt động, ở nhà cũng buồn, nên xin đi tŕnh diện cùng với anh
Trương Tấn Lộc là Chủ Tịch Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến là cựu Nghị Viên
Hội Đồng Đô Thành Sài g̣n. Anh Thiện không thuộc diện này nhưng cũng nhất
định xin đóng tiền để được học tập, hy vọng sau khi học xong sẽ có “Giấy
chứng nhận” đă học tập để dễ làm ăn sau này, không c̣n “bị làm khó dễ”.
Anh Thiện cũng lầm tưởng chỉ đi trong một tháng mà thôi. Sau đó anh ở tù
hơn 7 năm, bị bịnh lao phổi, ho ra máu trong trại và anh được về trong
bịnh hoạn, tức tối v́ bị lường gạt.
Ở trường Lê văn Duyệt, chúng tôi được nhà hàng Bát Đạt đem cơm tới mỗi
ngày, cho nên bữa ăn nào cũng thịnh soạn, ăn uống dư thừa, được cho ăn no
và ngon nữa nên cứ nghĩ rằng nhà nước mới tử tế, chiêu đăi “trại viên”
bằng thức ăn của nhà hàng sang trọng bậc nhất nh́ của Thành phố Sài g̣n.
Sau vài ngày làm thủ tục ghi tên đóng tiền, nộp giấy căn cước, họ phân
chúng tôi thành từng đội, tạm thời ở trong các pḥng học của nhà trường.
Giữa đêm, đang ngủ ngon giấc, bỗng nhiều ánh đèn “pin” chiếu sáng vào
mùng, gọi chúng tôi thức dậy gấp, thu dọn đồ đạc cho gọn nhẹ để di chuyển.
Trong đầu óc anh em chúng tôi hết sức hoang mang, đi về đâu, đem ra biển
Vũng Tàu thả xuống biển hay đi đâu mà lại lên xe hơi, kéo cửa xe xuống kín
mít để không cho ai nh́n thấy và lại đi nửa đêm. Tới gần sáng, chúng tôi
được chở vô Làng cô nhi Long Thành. Chúng tôi được phân vào dăy bên trái
của Làng cô nhi. Khu vực này dành cho anh chị em đảng phái Chính trị.
Họ phân ra 4 khối: khối một là khu dành cho các viên chức hành chánh từ
cấp Chánh Sự Vụ trở lên, các Dân Biểu, Nghị sĩ của Việt Nam Cộng Ḥa. Khối
hai dành cho những người hoạt động trong Đảng phái Chính trị chống Cộng.
Khối ba là khối T́nh báo đa số làm trong Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh báo.
Khối bốn là các viên chức trong ngành Cảnh Sát quốc gia.
Chúng tôi, hoạt động đảng phái được xếp vào khối hai, ở dăy nhà bên tay
trái của trại, phân ra nhiều đội. Trong số những viên chức lănh đạo, tôi
nhớ lúc bấy giờ có Luật sư Trần văn Tuyên, Ông Vũ Hồng Khanh, Cựu Nghị Sĩ
Trần Trung Dung, Trong đội tôi có Nguyễn Ngọc Minh, anh có 6 người con, là
Chủ Tịch đảng Tân Đại Việt Quận 5, chủ nhà in. Anh nói với tôi là anh c̣n
40 triệu ở ngân hàng cho nên anh làm kế hoạch nuôi heo gởi lên “Cán bộ” để
hy vọng lấy được số tiền này ra. Đó là hy vọng của anh. Anh đang ở trong
tù mà vẫn c̣n thơ ngây, tin tưởng họ sẽ trả lại cho anh số tiền 40 triệu
đồng đó. trong khi ngoài kia, Cộng sản đang chuẩn bị đánh tư sản, cầm tù
những người có tài sản mà anh lại c̣n hy vọng lấy được số tiền này nữa.
Nh́n chung, những người Quốc gia hoạt động chính trị của phía chúng tôi đa
số đều ngây thơ như thế.
Trong tù tôi gặp lại giám đốc Nha Khảo Thí Nguyễn Kim Linh mà trước đây
tôi có làm việc hai năm ở nha Khảo Thí. Tôi gặp lại thầy Hà Khải Hoàn,
thầy dạy tôi môn Việt văn ở trường Trung học Cần Giuộc năm 1957, 1958 nay
là phó Giám Đốc Nha học chánh thuộc Bộ Giáo Dục.
Từ Thủ Đức đến trại Lào Cai.
Cũng được gọi bất ngờ giữa đêm tối, yêu cầu sắp xếp đồ đạc gọn gàng, hai
người chung một cái c̣ng, từ trại Long Thành chúng tôi bị đưa về giam ở
nhà tù Thủ Đức. Ở đây không có cuốc đất trồng khoai. Mỗi ngày đọc báo
“Nhân dân” tờ báo của đảng Cộng Sản. Tuy ở gần Sài g̣n nhưng từ ngày tŕnh
diện giữa tháng 6 năm 1975 đến nay, đă hơn một năm trời, gia đ́nh không
biết chúng tôi c̣n sống hay đă chết và bị giam giữ ở đâu?
Tháng 12 năm 1976 chúng tôi được kêu ra sân tập họp cũng hai người cùng
chung một c̣ng số 8 lên xe chạy trên xa lộ Biên hoà và đưa xuống bến sông
Sài g̣n giữa đêm khuya, để lên tàu chuyển ra Bắc.
Lần lượt chúng tôi xuống hầm tàu c̣n dấu vết than đá trên nền. Khi tàu
chạy, họ đóng nắp hầm tàu lại, chúng tôi bị ngộp thở và đă la hét ôm sồm,
nấp hầm mới được kéo ra để chúng tôi thở.
Trong chuyến đi này bạn tôi là Lê Như Ninh, người Công giáo giới thiệu cho
tôi biết Đức Phụ Tá Giám Mục Sài g̣n, sau này là Hồng Y Nguyễn Văn Thuận,
cùng ra Bắc một chuyến với chúng tôi. Anh em đi vệ sinh bằng “sô” xách
nước. Khi cái sô đầy phân và nước tiểu th́ xách lên trên “boong” tàu để đổ
xuống biển. Nhiều khi đang lên cầu thang bị sóng đánh, tàu nghiêng sô nước
tiểu và phân người đổ vào đầu, vào cổ, vào áo quần anh em đang ngồi ở phía
dưới. Anh em nào bị dính phân, nước tiểu vào người cũng phải chịu trận như
vậy trong suốt mấy ngày tàu chạy lênh đên trên biển chứ đâu có được tắm
rửa ǵ đâu?
Con tàu chở tù miền Nam đến cảng Hải pḥng vào buổi sáng mùa Đông năm
1976. Trời lạnh buốt. Vài chiếc tàu nhỏ đậu ở cảng giống như ở bến đ̣ quê
nào đó, chứ không thấy ǵ to lớn cả. Trời th́ lạnh mà đa số anh em tù
không có đủ áo quần ấm để mặc hầu có thể chống lại cái lạnh, cái rét của
mùa đông miền Bắc. Năm đó có lúc lạnh tới 6 độ C lạnh gần đông đá.
Mùa Đông năm 1976, trời quá lạnh, có khi nửa tháng tôi mới dám tắm một
lần. Mỗi lần xối nước lên ḿnh, nước bốc thành hơi, khói bay lên mù mịt.
Khi nói chuyện, thấy hơi nước bay ra khỏi miệng. May mắn thay tôi có mang
theo cái áo mưa lớn bằng “nylon” rộng thùng th́nh quá đầu gối. Nhờ nó, tôi
chịu đựng được cái lạnh mùa đông năm 1976 và những mùa đông kế tiếp. Cái
áo mưa này tôi vá đùm, vá chụp hơn chục miếng vá, đến nỗi “Cán bộ quản
giáo” tức cai tù nói: “Anh không c̣n cái áo nào khác sao mà anh cứ mặc cái
áo này vậy”. Cái áo này vá tứ tung làm xấu hổ Cán bộ cai tù chăng? thấy sự
nghèo khổ tột cùng của tôi, không có cái áo lành lặn mà mặc? Có những anh
em khác c̣n may bao bố để mặc khi gia đ́nh chưa có gởi áo quần vào, trông
c̣n tệ hơn là cái áo vá đùm vá chụp của tôi nữa.
Xuống xe tại cổng trại Trung ương số 1 Lào Cai, chúng tôi được dẫn vào khu
nhà khá sạch sẽ. Được cho ăn bữa chè nóng hổi. Mấy ngày sau, ngày nào cũng
ăn cơm trắng, thịt cá đầy đủ. Chúng tôi có cảm tưởng ở miền Bắc, Công an
tử tế hơn trong Nam. Nhưng chỉ được vài ngày rồi thôi. Mỗi bửa ăn chỉ là
một miếng bánh ḿ mỏng dính, xẹp lép chưa được nửa nắm tay. Ăn hết rồi vẫn
c̣n thấy đói. Có khi trại phát bắp luộc, được vài ba trái. Ăn bắp trái,
càng thấy đói hơn nữa v́ ba trái bắp th́ ăn được mấy hột. Có hôm, chúng
tôi được phát bánh ḿ, nhưng trộn lẫn với than đá. Ăn vào đụng răng, nghe
lộp cộp, không thể nhai được. Nhà bếp thu hồi lại, nấu thành cháo, phát
cho một ít nước bánh ḿ để cầm hơi. Đói quá, không ngủ được, nhưng chúng
tôi cũng phải chịu chớ có kêu ca được với ai bây giờ.
Lúc nào Cán bộ cũng theo dơi chúng tôi xem chúng tôi có nói lời nào chống
đối họ không? Có t́m cách trốn trại không. Vậy mà năm 1976 cũng có mấy anh
trốn ra khỏi trại, nhưng đều bị bắt lại ngay hôm đó v́ không thể đi xa
được. Đa số những người sinh sống ở vùng này là Dân tộc thiểu số. Trong
trại này, khi chúng tôi đến ở, đă thấy trên các tấm ván trên các hộc đựng
đồ lĩnh kỉnh ở đầu chỗ nằm, có khắc tên người Mỹ đă từng bị giam ở đây.
Sau này tôi mới biết trại này cũng từng giam tù binh Mỹ. Đó là trại Trung
ương số 1 Lào Cai. Đây là trại kiểu mẫu giam tù Chính trị.
Trại K3 và K4 Vĩnh Phú.
Tôi ở trại K3 Vĩnh Phú ṛng ră bốn năm trời. Trại này có nhiều kỹ niệm với
tôi hơn hết. Một người tôi không bao giờ quên tên được, đó là Đội trưởng
đội hai, đội trồng bắp, trồng khoai lang, khoai ḿ. Sau đó, đương sự nhờ
quá tích cực được cất nhắc lên làm thi đua toàn trại K3 Vĩnh Phú. Người đó
là Phạm Đ́nh Thanh.
Khi Trung Quốc chuẩn bị tấn công vào các Tỉnh tiếp giáp với Việt Nam, Cộng
Sản đưa chúng tôi xuôi về miền Nam. Hai bạn tù bị c̣ng tay với nhau, đẩy
lên xe bít bùng. Trong khi di chuyển, bên ngoài trời mưa to, xe lắc lư dữ
dội, khi chạy có lúc tôi cảm thấy chắc là sắp sa xuống thung lũng hay
xuống hố sâu. Tôi ở phía trong xe, gần tài xế, khi xe ngả nghiêng, lôi kéo
cả mấy chục người tù từ phía sau xe, chúi mũi dồn về phía trước, đè lên
chúng tôi, tưởng đâu đă ngộp thở. Tôi nghĩ chắc ḿnh sẽ chết v́ ngộp thở,
hay có thể chết v́ xe lăn xuống hố và rồi gia đ́nh vợ con, chẳng có ai
biết được ḿnh chết ở đâu?
Mùa Hè năm 1978, tôi bị đưa về trại K3 Vĩnh Phú, nơi có đền thờ vua Hùng
Vương. K3 Vĩnh Phú nằm ở giữa thung lũng, núi đồi vây phủ xung quanh. Ở
đây tôi gặp Cha Khoa tự Khải, Hiệu Trưởng trường Trung học Đồng Tiến.Tôi
được phân chia vào đội trồng khoai lang, khoai ḿ. Mỗi sáng sau khi được
phát cho một củ khai lang hay khoai ḿ nho nhỏ, vác cuốc ra rẫy, cuốc đất,
lật từ vuông đất lên, rồi bừa cho nhuyễn để khi mưa xuống gieo hột bắp hay
đặt các dây khoai lang. Không đủ trâu để cày, nên người tù chúng tôi phải
thay trâu kéo cày.
Tôi ở chung với Luật sư Lê Như Ninh, sống ở Nha Trang, ở tù v́ tham gia
đảng Dân Chủ, và các anh Vơ văn Bé, Phùng văn Chấn, Lê Tấn Hà... nhân viên
Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh báo. Những tháng ngày dài lê thê sống ở K3 này
công việc thường là cuốc đất, trong khi ngày ba bữa ăn toàn bo bo không
xay. Sau khi ăn chừng năm mười phút th́ tất cả bo bo đều được tống ra
ngoài hết v́ bao tử người không thể tiêu hoá bo bo không xay, bo bo c̣n
nguyên vỏ được. Loại này dùng để cho ngựa hay trâu, ḅ ăn. Cho nên chúng
tôi ăn bo bo được vài tháng, mọi người chỉ c̣n da bọc xương giống như
những con khỉ ốm đói biết đi, những con ma đói đang cuốc đất. Mỗi lần phát
cơm, phân chia cơm, mỗi người được một nắp b́nh thủy cơm, c̣n là bắp trái
loại cứng ngắc nhai không được. Tù nhân chỉ được ăn loại bắp cứng dành cho
trâu ḅ.
Đói mờ mắt. Đói triền miên. Đói dữ dội. Đói quá có nhiều anh em ăn bất cứ
thứ ǵ anh em nghĩ là có thể ăn được, nên anh em thường nói: “Cái ǵ nhúc
nhích th́ ta ních liền”. Ra ngoài đồng gặp rau má, rau tàu bay, bất cứ thứ
rau ǵ tù nhân đều ngắt ăn sống. Có người khi đi ra đồng làm việc, ăn rau
trừ bữa, hay gom ba phần của trại phát, sáng trưa và tối, ăn một lần buổi
tối cho no. Anh em tù đa số đều bị bịnh phù thũng. Mùa Đông năm 1978 là
mùa đông khủng khiếp nhất trong đời tù của chúng tôi. Lần đầu tiên tôi mới
biết thế nào là mưa phùn, gió bấc. Ở trong Nam chỉ có mưa nắng hai mùa chứ
chưa bao giờ gặp cảnh mưa gió mà c̣n lạnh lẽo liên tục như thế.
Tôi c̣n nhớ anh Quế là Giáo sư ở Quảng Nam, Đà Nẳng, là Thanh tra của Sở
Giáo dục. Anh bị tù v́ tham gia đảng Dân Chủ. V́ quá ốm yếu nên làm việc
chậm chạp, cuốc đất không đạt “Chỉ tiêu trong ngày”, bị đội trưởng cự nự.
Anh cố cuốc mạnh tay hơn, nhanh hơn, nhiều hơn. Tối hôm đó vào khoảng hai
ba giờ khuya, anh em nằm gần bên anh Quế hô to lên:
- “Anh Quế chết rồi”.
Không ai biết anh Quế chết v́ bịnh ǵ, nhưng chắc chắn anh đă chết v́ bị
thiếu ăn, bị bỏ đói lâu dài, bị kiệt sức mà thôi.
Mới mấy hôm trước trong đội tù cũng có người chết v́ ăn cóc nướng ở ḷ
rèn. Có lẽ v́ anh nướng vội vă, không kịp làm sạch sẽ, nên khoảng vài giờ
sau khi ăn thịt cóc, chừng nửa đêm, anh kêu đau bụng, không có thuốc và
cũng không chở đi cấp cứu kịp và hôm sau th́ anh chết.
Trong thời gian này khoảng cuối năm 1978 đầu năm 1979, cứ vài ngày là có
vài người ra đi. Anh em liên tục đóng ḥm chôn cất bạn tù. Vài người tù
khiêng bạn ḿnh ra b́a rừng, chôn vội vàng vùi dập. Không có ai được phép
khóc thương. Vợ con ở nhà cũng chẳng hay. gười, một tù nhân đă chết.
Ở K3 Vĩnh Phú tôi có gặp Nguyễn Minh Diệu học cùng lớp trường Trung học
Cần Giuộc 1955 - 1959. Gặp Phan tấn Ngưu ở K5, gặp Dương Bồng Quảng con
chủ nhà máy xay lúa ở Chợ Trạm, bạn học chung ở trường Tấn Thành, Chợ Trạm
1954-1955.
Những tháng này là thời gian đói khát dữ dội nhất và cũng bị kềm kẹp,
khống chế nhiều nhất. Một lời nói than van hay dèm pha nhà nước được báo
cáo lên Cán bộ là có thể bị cùm chân, cùm tay từ 14 ngày trở lên.
Một lần đang ở trong pḥng nghe tiếng la thất thanh ở bên ngoài, tôi ḍm
qua cửa sổ pḥng giam thấy 4 Công an đang đá một tù nhân như đá banh. Họ
đá anh này từ trái sang phải, từ góc nầy sang góc kia, đá chán thấy mệt,
họ mang anh vào pḥng giam riêng.
Mùa Hè năm 1982, tôi được chuyển sang K4 Vĩnh Phú và được đưa về Đội 8,
đội làm ruộng. Tôi được biết đây là nơi thường giam giữ những người tội
nặng của miền Bắc. Vùng này có tên là Mai Côi, Thác Guồng. Đến Mai Côi,
Thác Guồng này mà được trở về đời sống b́nh thường là chuyện hy hữu. Thông
thường đă bị giam ở đây coi như sẽ chết.
Mỗi buổi sáng sớm chúng tôi vác cuốc ra ruộng, lội xuống nước sâu quá đầu
gối. Ruộng này là vũng nước ao tù, là vùng tận cùng là chỗ trũng, nước từ
các con suối ở thượng nguồn trong vùng rừng núi trên cao gôm về, cho nên
chứa đủ tất cả các chất độc nhất do lá rừng, vi trùng, chất thối rửa của
súc vật, côn trùng qui tụ về đây. Chúng tôi làm ruộng này chừng một tháng
th́ rụng hết lông chân và bị sốt vàng da. Loại sốt này rất đặc biệt, ai bị
bịnh này không thể đứng được, tay chân ră rời, không ăn uống ǵ được, nếu
ăn chút cháo cũng bị ói ra hết. Mỗi khi bị bịnh, không đi đứng được, phải
nhờ bạn bè cơng.
Trong đội 8 của chúng tôi quá nửa đội bị bịnh sốt vàng da. Anh Minh cùng
đội đă phải cỏng anh Đề lên Trạm xá, vài ngày sau anh Đề lại cơng anh Minh
lên Trạm xá v́ bịnh này. Tôi cũng bị bịnh này không ăn uống được hơn một
tuần lễ. Nếu không có Bác sĩ Thịnh biết cách điều trị bịnh này, chắc tôi
cũng như nhiều anh em tù khác đă được chôn cất ở b́a rừng thuộc thung lũng
Mai Côi, Thác Guồng của tỉnh Vĩnh Phú này.
Mai Côi, Thác Guồng là địa danh mà dân miền Bắc, Hà nội rất sợ, đó là nơi
“đi dễ, khó về”. Một lần trong dịp Tết ta, anh em trong trại đang nấu
nướng v́ được nghỉ ngơi trong mấy ngày này. Vợ một anh lính gác Vietj
cộng, áo quần vá nhiều chỗ, ẳm đứa con, đi vào bên trong trại t́m xin
thuốc uống cho con. Chị này đi hỏi anh em nào có thuốc cảm hay thuốc ho để
cho cháu dùng. Tôi không hiểu tại sao chị không lên Trạm xá của Công an.
Nhưng tôi thấy chị ăn mặc áo quần vá víu như thế, chứng tỏ chị cũng nghèo
quá, khổ như chúng tôi mà thôi. Chúng tôi ở tù trong, th́ chị ở tù ngoài.
Tôi c̣n nhớ có lần đi làm rẫy ở Vĩnh Phú, gặp dân chúng ngoài đường, họ
nói: “Tôi tưởng mấy anh sẽ giải phóng chúng tôi chứ, tôi đâu có ngờ ngày
hôm nay tôi gặp các anh ở đây”
Sau mấy năm thấy tù nhân chết quá nhiều, trại cho tổ chức nhận quà năm kư
từ miền Nam, để cho vợ con của tù nuôi tù, đỡ gánh nặng nhà nước. Sau này,
mới hiểu sở dĩ có vụ cho thăm nuôi là v́ bắt đầu có thương thuyết với phía
Mỹ về số phận tù Chính trị của miền Nam. Nếu để bọn tù chết hết, đâu c̣n
thứ ǵ mang ra đổi chác với Mỹ được. Do vậy, nhiều khi gia đ́nh gởi nhiều
hơn năm kư mỗi ba tháng cũng được cho thông qua v́ khi có quà cáp anh em
cũng có biếu Cán bộ như thuốc lá, đường, bánh trái, thuốc uống trị bịnh
cảm, thuốc bổ, Vitamin, thuốc sốt rét…
Trại Hà Nam Ninh.
Cuối năm 1982, chúng tôi được chuyển đến trại Hà nam Ninh gần Hà nội. Đây
cũng là lúc diễn ra nhiều thay đổi.
Một lần khám xét đồ đạc của tù, thấy mấy cuốn sách về Lê Nin, một cán bộ
coi tù nói “Giờ này mà c̣n đọc cuốn sách này”. Từ câu nói này, tôi thấy
Văn hóa miền Nam đă tác dụng ngược trở ra miền Bắc.
Khi tôi c̣n bị giam giữ ở K3 Vĩnh Phú cán bộ cấm chúng tôi hát nhạc vàng,
gọi là “nhạc ngụy”, nhạc làm cho mất nước. Nếu có ai hát nhạc vàng bị báo
cáo lên th́ có thể bị cùm chân bị giam riêng. Cái nón có mũ lưỡi trai ở
phía trước cũng bị chê là của Mỹ ngụy yêu cầu cắt bớt. Đội nón từ miền Nam
đem ra là bị phê b́nh, chỉ trích. Đi dép râu th́ được. Nón cối th́ được.
Cái ǵ của miền Nam đều là xấu cả.
Nhưng rồi một hôm tôi được phân công nhổ cỏ ở chung quanh khu nhà cán bộ ở
v́ lúc đó tôi bị bịnh quá không ra ngoài đồng cuốc đất được. Tôi nghe từ
trong pḥng của cán bộ đang hát nhạc vàng của miền nam. Tôi bắt đầu suy
nghĩ, cấm tù nhân hát nhạc vàng mà cán bộ lại hát nhạc vàng. Như vậy văn
minh, văn hoá miền nam đă ảnh hưởng ra miền Bắc bằng chứng là nhạc vàng bị
cấm hát, nhưng họ lại thích nghe, say mê những bản nhạc vàng đó.
Bắt đầu ở đây anh em hát “nhạc vàng” thoải mái. Ban đêm, bên ngoài buồng
giam có lính gác đi tuần kiểm soát, bên trong anh em hát “nhạc vàng” không
c̣n bị phạt nữa. Trong trại lúc bấy giờ tôi nhớ có thầy Ḥa là Đại đức
tuyên úy Phật giáo, thuộc hàng trăm bài hát “nhạc vàng”. Thầy Hoà có thể
hát liên tục vài giờ cũng không hết nhạc. Đêm nào không hát, cán bộ ở bên
ngoài c̣n yêu cầu anh em hát “nhạc vàng” cho vui. Cán bộ Cộng sản đă mê
“nhạc vàng” rồi.
Văn minh, Văn hóa miền Nam Việt nam đă ảnh hưởng vào tâm tư, t́nh cảm của
người Cộng sản miền Bắc.
Sau ba mươi năm tất cả những điều ǵ trước đây họ chỉ trích, họ cấm đoán,
họ bỏ tù ngày hôm nay họ cho thực hiện lại hết như buôn bán tự do, không
c̣n ngăn sông cấm chợ nữa. Nhưng họ áp dụng chế độ tư bản theo luật rừng
rú v́ tất cả luật pháp cũ họ đều hủy bỏ mà luật lệ mới chưa thành h́nh.
Khi chiếm miền Nam xong, họ đóng cửa trường Luật, đóng cửa trường Đại học
Văn khoa Sài g̣n.
Sau khi thắng trận họ tưởng làm kinh tế như đánh đấm ngoài mặt trận. Bán
cà phê vĩa hè, hớt tóc vĩa hè cũng phải vô hợp tác xă. Do đó mà toàn dân
phải ăn độn bo bo, ăn gạo có nhiều bông cỏ, trước khi nấu phải mất rất
nhiều th́ giờ lượm bông cỏ ra.
Sự dối trá đă ăn sâu vào nhà cầm quyền lẫn dân chúng, phải lường gạt nhau
để sống. Nhà cầm quyền lường gạt dân. Dân lường gạt nhà cầm quyền và lường
gạt lẫn nhau. Lương tâm của con người đem dấu vào sọt rác.
Nếu sống đàng hoàng, mua bán đàng hoàng th́ không sống nổi. Nên dân chúng
phải lươn lẹo. Trong giai đoạn ngăn sông cấm chợ, muốn sống c̣n, phải dối
trá, phải lươn lẹo, đi mua thịt lậu từ dưới quê lên để bán, mua đường, mua
áo quần cũ, mua bán đồ phế thải. Chở ít gạo từ tỉnh này sang tỉnh kia để
kiếm lời. Khi đi buôn bán nếu qua mặt được công an kinh tế th́ sống, nếu
bị bắt th́ mất vốn. Nhưng không buôn bán th́ lấy ǵ mà sống.
Hôm nay “nhà cầm quyền” thông báo nói không đổi tiền, sáng hôm sau, giới
nghiêm, đổi tiền làm cho nhiều người sạt nghiệp. Thông cáo “kêu gọi quân
nhân, công chức, sĩ quan tŕnh diện học tập trong một tháng”, nhưng giam
măi không biết ngày về, không ra ṭa kêu án, ngồi bốc lịch dài dài. Mỗi ba
năm anh em gọi là một “cây gậy”. Không ai biết ḿnh sẽ phải ở mấy “cây
gậy” đây? Ba năm, sáu năm, chín năm, mười hai năm... Ở tù không biết ngày
nào về với gia đ́nh hay vĩnh viễn sống trong miền rừng núi Thanh Hóa, Nghệ
An, Vĩnh Phú, Hà Nam Ninh... Trung Quốc có Tân Cương. Nga sô có Tây Bá Lợi
Á dành cho tù nhân vĩnh viễn định cư ở đó.
“Tù cải tạo” dành cho người miền Nam thua trận thực sự không hy vọng có
ngày trở về với gia đ́nh, nếu những lănh tụ Cộng sản không th́nh ĺnh thấy
là mạng sống của đám tù này bỗng là thứ có thể thương thuyết đổi chác với
phía Mỹ. Nhờ vậy mà tŕnh trạng nhà tù bỗng thấy dễ thở hơn.
Thời gian sống tại trại Nam Hà là thời gian thoải mái nhất trong cuộc đời
ở tù. Lúc này quà cáp thường xuyên gởi ra từ vợ con ở trong Nam. Cán bộ đă
cởi mở hơn. Họ đă nh́n thấy Sĩ quan, công chức miền Nam không phải là
những người ăn gan, uống máu. Họ đă hiểu phần nào về người bại trận.
Thân nhân của các tù nhân từ trong Nam gởi tiền ra cho chúng tôi, để chúng
tôi mua thịt cá, trái cây. Nhiều khi Công an trại dễ dăi để chúng tôi nấu
chè, nấu cơm, nấu canh chua trong pḥng giam. Họ dễ dăi cho nấu nướng là
để họ bán được hàng, để họ kiếm thêm tiền. Với cái lon Guigoz chúng tôi
kho thịt, nấu cơm, nấu canh v.v... thật là tiện dụng. Cần giẻ rách, một ít
dầu là chúng tôi có thể đun một nồi chè ở trong pḥng giam.
Mỗi sáng chúng tôi đi ra đồng làm cỏ để cấy lúa. Tôi thấy nhiều người dân
ngoài trại ra đồng quá trễ. Hơn 11 giờ mới cầm cuốc, lếch thếch kéo ra
đồng làm việc.
Tôi hỏi họ: “Sao các anh đi làm trễ quá vậy?”
Họ trả lời: “Đi ra sớm mà làm ǵ. Làm cho hợp tác xă chứ có phải cho ḿnh
đâu. Làm nhiều, làm ít cũng chia chác như vậy mà thôi.”
Khi cuốc đất, họ khều khều vài lát cuốc như phủi bụi; một lát, họ đă kéo
nhau về nghỉ. Tôi suy nghĩ dân miền Bắc làm việc như vậy hỏi rằng khá giả
làm sao được. Vậy mà họ đă thắng miền Nam. Thế mới lạ chứ.
Nếu “Trương Chi đẹp trai” đó là tựa bài viết của Dương Hùng Cường để mô tả
dân miền Nam nghe tiếng hát Trương Chi th́ những người nhẹ dạ rất mê, rất
thích nhưng trong thực tế thấy gương mặt của Trương Chi th́ không c̣n có
thể mê được nữa. Nghe Cộng Sản tuyên truyền th́ đa số đều rất thích nhưng
thực tế, họ làm ngược lại những điều họ nói, nên sau khi chiếm miền Nam
rồi th́ “Nếu cái cột đèn biết đi nó cũng bỏ xứ mà đi”. Cho nên dân miền
Nam không bao giờ quên được câu nói để đời của Cựu Tổng Thống Nguyễn văn
Thiệu: “Đừng nghe những ǵ Cộng sản nói mà hăy nh́n kỹ những ǵ Cộng sản
làm”
Ba tôi có cảm t́nh với Việt Minh, Cộng sản v́ bạn của ba tôi là ông tư Lê
đă theo kháng chiến từ những năm 1945. Khoảng năm 1948, 1949 Việt Minh
đánh đồn Chợ Núi, quận Cần Giuộc, Tư Lê có vào nhà ba tôi để tṛ chuyện.
Ba tôi cho mượn ống quẹt để châm hút thuốc lá. Sau trận đánh đồn đó ba tôi
bị ông Tổng Nh́ và Pháp bắt, đánh để khai thác về Việt Minh (Cộng sản) và
ba tôi đă bị bịnh nhiều, nằm điều trị ở nhà gần một năm.Từ đó ba tôi rất
hận và ghét Pháp và có cảm t́nh với Việt Minh. Sau này dĩ nhiên ba tôi
cũng không có cảm t́nh với người Mỹ và Quân đội Quốc gia. Khi tôi ra ứng
cử Nghị viên Hội đồng đô thành Sài g̣n, để chuẩn bị ứng cử Dân Biểu, Nghị
sĩ sau này, ba tôi đă nói: “Ẩm tao ngồi chức đó tao cũng nhảy xuống” có ư
nói với tôi là “bỏ tiền ra ứng cử chi cho tốn kém, mất th́ giờ” mà ba tôi
cũng không ưa chức vụ đó nữa.
Khi di chuyển từ K4 Vĩnh Phú qua trại Hà nam Ninh, tôi được đưa về phân
trại A. Tôi gặp đủ hết các anh em cùng bị giam chung với tôi ở Long Thành
như Mai Kim Đỉnh cùng học chung ban Cao Học trường Chính Trị Kinh Doanh ở
thương xá Tax, Sài g̣n những năm 1972-1974, Hoài Sơn Ung Ngọc Nghĩa chủ
nhiệm của Ban Tuyên Huấn của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến và của đảng Tân
Đại Việt. Gặp lại một số học tṛ cũ bị giam ở đây v́ theo nhóm kháng chiến
“phục quốc”, chống Cộng sau năm 1975.
Nhóm này cũng ở tù khá lâu, bảy, tám năm hay hơn nữa nhưng khi có chương
tŕnh HO để đi định cư tại Hoa Kỳ th́ những người này không được xếp vào
diện HO v́ họ được xem là những thành phần chống đối sau năm 1975.
Sống ở phân trại A một thời gian ngắn, họ lại tách một số chúng tôi ra, di
chuyển về phân trại C của trại Hà Nam Ninh.
Không khí tù đày đă dễ thở hơn so với những thời gian trước. Khi chúng tôi
có quà cáp thăm nuôi đă đút lót Cán bộ thuốc lá, bánh kẹo, thuốc uống từ
trong Nam gởi ra. Chúng tôi được mua thức ăn do Công an tổ chức bán như
thịt heo, thuốc lá.
Tôi đă ở tù lâu quá rồi, gần tám năm. Mang trong người đủ thứ bịnh, không
chết là may mắn lắm rồi.
Sau khi ăn Tết trong trại Hà Nam Ninh chừng vài tháng, “cán bộ” gọi anh em
tập họp lại, ngồi ngoài sân, gọi tên từng người sang ngồi một bên và yêu
cầu đứng lên vào pḥng thu dọn đồ đạt. Lúc đó, anh em mới biết ḿnh sẽ
được thả cho về.
Khi ra khỏi trại, tôi không muốn nh́n trở lại chỗ mà tôi đă bị giam cầm
trong thời gian dài ở đó.
Xe hơi chở chúng tôi bỏ vào khu nhà ga xe lửa chờ có chuyến đi vào trong
Nam. Vài người trong chúng tôi đi t́m cà phê để uống. Phố xá tiêu điều.
Thành phố Hà Nội lúc bấy giờ (đầu năm 1983) là Thành phố chết, không có
buôn bán ǵ. Uống cà phê cũng phải uống chui. Đi ra nhà sau của tiệm cà
phê không có bảng hiệu ǵ cả, mua cà phê đen uống với đường đă là quí lắm
rồi. Họ không có bán cà phê sữa v́ đó là một xa xỉ phẩm.
Ngồi trên xe lửa xuôi về miền Nam, đến Quảng Ngăi chúng tôi c̣n mấy bộ áo
quần cũ trên bảy năm, mùng mền mang theo lúc đi tŕnh diện vậy mà tôi bán
cũng được mấy chục đồng bạc lúc đó. Với số tiền này tôi mua được tô hủ
tiếu để ăn uống dọc đường.
Khi đến ga Hàng Xanh trời vừa sáng. Tôi chỉ c̣n đủ tiền để kêu chiếc xe
xích lô chở về bến xe Phạm thế Hiển. Leo lên xe Lam chạy dọc đường Phạm
thế Hiển, tôi nh́n không ra được con đường cũ mà tôi đă đi qua lại thường
xuyên trước năm 1975. Bây giờ, sau gần tám năm, cảnh vật thay đổi nhiều
quá. Nhà cửa xây cất thêm lấn ra lề đường. Có những nhà mới cất tôi nh́n
không ra. Về tới nhà lúc nào tôi cũng không hay.
Bước vào nhà của ḿnh mà thấy quá xa lạ. Có mấy đứa trẻ con ngồi học ở
trong nhà mà tôi đâu có biết đứa nào là con tôi đâu. Khi tôi đi “Học tập
cải tạo” con út tôi mới vừa tám tháng, khi về đứa út cũng đă 8 tuổi rồi,
làm sao tôi biết nó cho được. Đứa con trai 9 tuổi chạy xuống nhà sau, lúc
đó bà xă tôi đang nấu cơm. Nó nói: “Má ơi có ông nào vô nhà ḱa.”
Tôi vừa bước vô nhà ḿnh, đi thẳng ra phía sau nhà, gặp bà xă đang nấu
cơm, gặp cậu bảy Bích, tự nhiên nước mắt tôi trào ra. Tôi đă khóc, không
thể nào cầm giữ nước mắt cho được. Người ta khóc v́ buồn rầu, đau khổ. Tôi
khóc v́ tưởng chừng như đă chết rồi mà được sống lại. Tôi đâu có ngờ tôi
c̣n sống để được về với gia đ́nh sau gần 8 năm trong các trại tù khắc
nghiệt ở các miền Thượng du, núi rừng âm u miền Bắc.
“Giấy ra trạ”i kư ngày 28 tháng 02 năm 1983, ngày tôi về tới nhà tŕnh
diện Công an phường là 9 tháng 3 năm 1983 ngót nghét c̣n ba tháng nữa là
đủ 8 năm tù, v́ cái tội duy nhất là “tội” tham gia đảng phái Quốc gia.
Ngẫm lại, tôi thấy ḿnh c̣n được ông trời thương, được sống sót về với gia
đ́nh, để cho các con của tôi có cha, cho tôi có cơ hội phụ giúp phần nào
sinh kế cho gia đ́nh vợ con. Và rồi sau cùng, có cơ hội đưa gia đ́nh tới
được nước Mỹ tự do để làm lại cuộc đời.
Xin tạ ơn Trời, tạ ơn người, và biết ơn nước Mỹ.
Ngày 26 tháng 04 năm 2015.
Phùng Văn Phụng
|