Noel 1958 tại Hà Nội: Khởi đầu cuộc khổ nạn của Cha Nguyễn Văn Vinh
 

Phùng Quán

 

 

Trong cuốn “Chứng từ của một Giám Mục” (Do Diễn Đàn Giáo Dân xuất bản năm 2009), Đức Cha Lê Đắc Trọng, cố Giám Mục phụ tá Tổng Giáo Phận Hà Nội, đă viết về lễ Giáng Sinh năm 1958 tại Hà Nội và về Cha Chính địa phận Nguyễn Văn Vinh như sau:

 

“Ở Phương Tây người ta chỉ chú ư cái lễ đêm Noel, bởi đó sửa soạn cờ quạt, đèn sáng cho lễ đêm, dải sao lớn v. v... Ở Việt Nam, th́ các thành phố mới có vẻ rầm rộ vào lễ đêm. Ở Hà Nội, lễ đêm chỉ người ngoại quốc mới được vào nhà thờ. Người Việt Nam cố gắng dự lễ âm thầm ở nhà Préau (nhà chơi có mái che cho học sinh - Chú thích của TS) trường Dũng Lạc.

 

Ngày 24-12-1958, “chính quyền” cho người đến treo cờ, giăng cờ ở trước cửa Nhà Thờ Lớn. Dĩ nhiên là cờ Hội Thánh và cờ Quốc gia. Không bàn hỏi, thông báo cho ai trong nhà thờ biết, cứ tự động làm. Lúc đó người Công giáo đề pḥng các phong trào Công giáo tự trị tách rời khỏi Vatican, như các nước cộng sản quen làm. Tự động đem cờ quạt đến trang trí, không báo cho cha xứ, có nghiă là chiếm nhà thờ. Mọi người nghĩ thế. Để phản ứng lại, cha xứ Nhà Thờ Lớn, Cha Căn (sau này là Đức Hồng Y Trịnh Văn Căn - Chú thích của TS), cho kéo tất cả các chuông nhà thờ trong ṿng một tiếng đồng hồ để báo động. Cờ dây đă được mắc, cha Chính Vinh trong Ṭa Giám Mục chạy ra, Ngài nóng tính, tự tay giật các dây cờ, trèo lên thang giật các băng cờ trước nhà thờ. Có người phản đối cha, việc lễ tự do tín ngưỡng, ai làm ǵ th́ làm. Cha Vinh bắt chéo hai tay ra đằng sau, nói tự do như thế này này, nghiă là tự do bị trói chặt cánh khuỷu. Chuông nhà thờ cứ réo lên, cho đến khi dẹp hết cờ quạt, các băng khẩu hiệu.

 

Hôm đó Đức Khâm Sứ Ṭa Thánh - Đức Cha Dooley - vẫn chưa bị trục xuất, c̣n ở Hà Nội. Ngài đồng ư với việc phản ứng của Công giáo. Phải mất một tiếng đồng hồ, cuộc xôn xao lộn xộn ở trước cửa Nhà Thờ Lớn mới tan...

 

Một tháng sau, Cha Vinh, Cha Căn bị gọi ra ṭa án Hà Nội, mọi người nghĩ là chỉ để cảnh cáo, các cha sẽ về. Nhưng phiên ṭa xét xử về việc đạo không diễn ra một cách đơn giản. Trong ṭa, ngoài đường, đâu đấy đă được thu xếp chu đáo. Nghiă là người có đạo không được đến dự phiên ṭa. Đường phố không có người Công giáo tụ tập để nghe Ṭa án, v́ sợ có biểu t́nh.

 

Đến trưa, Cha Căn về một ḿnh, người thừ ra, Cha cho biết ṭa xử Cha sáu tháng án treo, c̣n Cha Vinh ba năm tù ở. Và lập tức bị tống giam ngay. Thế là từ đó Cha Vinh biệt tích, không biết giam ở đâu. Sau này có tiếp tế th́ trao đồ tiếp tế cho nhân viên nhà nước, chứ không được trực tiếp. Từ đó không có tin tức ǵ về Cha Vinh. Bị giam ở đâu không ai biết. Ba bốn năm sau, nghe nói người đă qua đời ở trại Cổng Trời, gần biên giới Trung Quốc” (các trang 371, 372, 373)

 

Kiều Duy Vĩnh, một người đồng tù tại trại giam Cổng Trời với Linh Mục Nguyễn Văn Vinh, Nguyễn Hữu Đang... đă viết bài tả cảnh tù tội của họ, gửi ra ngoại quốc và được nguyệt san Thế Kỷ 21 tại California đăng vào năm 1995. Sau đây, chúng tôi xin trích vài đoạn:

“Chúng tôi được tập trung ở Hỏa Ḷ Hà Nội từ khắp mọi miền đất Bắc, từ vĩ tuyến 17 trở ra... Tay xích c̣ng số 8, hai người một. Hàng đầu: Cha Vinh địa phận Hà Nội, người bị kết án có 18 tháng tù thôi thế mà hóa ra án tử h́nh. Cha Quế địa phận Xă Đoài, Nghệ An. Thứ đến là Nguyễn Hữu Đang, người cầm đầu Nhân Văn Giai Phẩm, tu sĩ Đỗ Bá Lung tu sĩ xứ Ngọc Đồng, Hưng Yên nay là Hải Hưng. Tiếp theo là một lũ tù dây, đầu trần trán khỉ, hôi hám rách rưới, chống bướng, cứng đầu cứng cổ, không chịu sự cải tạo của Đảng và Chính Phủ, bọn “dám bẻ que chống trời”.

 

Chúng tôi lên xe đi. Súng ống bao quanh...

 

Điều cuối cùng họ phải thi hành nghiêm chỉnh là làm cách nào giết hết được chúng tôi. Và họ đă hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đó: 72 người c̣n lại độ chừng 11 người...

 

Năm đó là năm 1961. Chúng giết anh em ta ở khu O, khu H và khu A. Những ḷ thiêu xác - khổng lồ hay hay nhỏ nhoi? - không có khói và không cần chất đốt.

 

Chúng giết anh em ta

Bằng chiều cao của núi

Bằng chiều sâu của đất

Bằng thông cáo của nha khí tượng

 

Cứ âm 0 độ là gọi đi xà lim. Xà Lim là cái quan tài bằng đất dầy một mét, cùm răng cá sấu cắn chân không bao giờ được mở, và bỏ đói cho đến chết. Tiếng gọi của thần chết đột ngột, bất thần, không lư do và khỏi cần giải thích. Lưu Nam chuẩn bị đi. Khánh Sơn chuẩn bị đi. Đinh Hiền Lương (tu sĩ Châu Sơn) chuẩn bị đi. Cứ thế lần lượt ra đi và không ai trở lại...

 

Những người ở trong cái nhà mồ ấy chết gần hết, chỉ c̣n lại tôi, và h́nh như Liệu nữa.

 

Nhà tù của chúng tôi không có tên, hoặc là có th́ đây: 65HE Bộ Công An, hay công trường 75A Hà Nội.

 

Những người Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng B́nh đi thăm, hỏi công an địa phương, họ cho cái địa chỉ đó. Có người ngây thơ nghĩ rằng người thân của ḿnh được ra làm công trường ở Hà Nội. Họ ùa đi t́m và không bao giờ thấy cả.

 

Vậy nó ở đâu?

 

Ở thị xă Hà Giang đi lên, qua đèo Quyết Tiến đến Cổng Trời gần biên giới Việt-Trung, chỗ có thể chưa được phân định rơ ràng, có thể là đất Tầu có thể là đất ta, một thung lũng không rơ tên, không có dân, chỉ có tù và người coi tù. Mặt đất đầy nghệ. Rừng nghệ. Tù lấy lá nghệ mọc trong gầm giường ăn thay rau chống đói.

 

Không biết ḿnh ở đâu? Không định được tọa độ trên bản đồ. Hàng rào cao kín mít, con chim không bay qua, con chuột to không chui lọt...

 

Cứ từng bước một, ban giám thị trại thi hành chính sách diệt tôn giáo, cụ thể là diệt Thiên Chúa Giáo. V́ ở Cổng Trời, tôi chưa hề gặp một nhà sư hay một Phật tử nào. Chỉ gặp các linh mục và các tu sĩ Thiên Chúa Giáo mà thôi. Trong cái nhà mồ đó, có một tôi là người không theo đạo Thiên Chúa, nhưng không phải là Phật tử... Nhưng tôi đă thật sự gặp các vị thánh tử v́ đạo. Các vị thánh tử v́ đạo bằng xương bằng thịt sống cạnh tôi nhiều năm, mà tôi vẫn coi thường, nhưng cái chết của họ đă làm tôi phải nghĩ khác đi. Tôi vốn xa lạ với các tên Phêrô, Phaolô và Mađờlen. Nhưng cái tên tu sĩ Đỗ Bá Lung th́ cho đến hết đời tôi không thể nào quên...”

 

Đó là cảnh bị cầm tù, đầy đọa cho đến chết của những người bạn tù của ông Kiều Duy Vĩnh, trong đó có Cha Nguyễn Văn Vinh, tại trại Cổng Trời. Ông Kiều Duy Vĩnh đă sống sót, được thả sau 1975, đă đi thăm thân nhân bên Hoa Kỳ, và đă theo đạo Công Giáo.

 

Chúng tôi xin cống hiến độc giả một bài viết khác về Linh Mục Nguyễn Văn Vinh khi ở trong tù và lúc lâm chung. Phùng Quán đă viết bài này theo lời kể của một người bạn, nhà thơ Nguyễn Tuân (không phải nhà văn lăo thành Nguyễn Tuân), người đồng tù với Cha Vinh:

 

 

NGƯỜI TÙ KHÙNG NHÂN TỪ VÀ UYÊN BÁC (1)

 

“… Anh ta vào trại trước ḿnh khá lâu, bị trừng phạt v́ tội ǵ, ḿnh không rơ. Người th́ bảo anh ta phạm tội h́nh sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội ḿnh đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Ḿnh có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nh́n anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao ḷng kḥng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.

 

Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu ḿnh cứ tưởng anh ta bị câm v́ suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện tṛ với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái ǵ đó làm ḿnh đặc biệt chú ư, cứ muốn làm quen… Nhiều lần ḿnh định bắt chuyện, nhưng anh ta nh́n ḿnh với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đă cúi chào cung kính.

 

Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đ́nh tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.

 

Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi “thằng khùng” (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đă từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.

 

Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái ǵ đó không ai nghe rơ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược găy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài.

 

Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống ǵ, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đă hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc.

 

Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:

- Thằng tù chết ấy là cái ǵ với mày mà mày khóc như cha chết vậy?

 

Anh ta chấp tay khúm núm thưa:

 

- Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn th́ vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó t́m cách làm hại cán bộ. Lúc hắn c̣n sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.

 

Thằng khùng nói có lư. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu th́ khóc. Nhưng ḿnh không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan ḥa nước mắt. Cả thân h́nh gầy guộc của anh ta run rẩy. Ḿnh có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc… Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, “đầu chày, đít thớt, mặt bù loong” cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Ḿnh thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền...?

 

Thế rồi, một lần, ḿnh và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Băi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên băi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và ḿnh phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. V́ mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại:

- Anh Tuân này - không rơ anh ta biết tên ḿnh lúc nào - sống ở đây anh thèm cái ǵ nhất?

- Thèm được đọc sách - ḿnh buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên.

- Nếu bây giờ có sách th́ anh thích đọc ai? - anh ta hỏi.

- Voltaire! - một lần nữa ḿnh lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire th́ cũng chẳng khác ǵ nói với gốc cây mủng mà ḿnh đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện tṛ bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe ḿnh, hiểu ḿnh hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong ḷng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng phạt”.

 

Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:

- Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?

 

Ḿnh sửng sốt nh́n anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ư nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đă ngồi thay vào chỗ anh ta… Ḿnh lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng pḥng hồi c̣n ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.

 

Ḿnh trả lời anh ta:

- Tôi thích nhất là Candide.

- Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?

 

Không đợi ḿnh trả lời, anh ta nói tiếp:

- Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.

 

Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm răi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy ḿnh ở trường Providence. Ḿnh trân trân nh́n cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nh́n phép lạ. C̣n anh ta, mắt vẫn không rời ḍng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…

 

Anh đọc đến câu cuối cùng th́ kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: “Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!”.

 

- Chúng ḿnh lùa trâu lên bờ đi! - anh nói.

 

Lội ra đến giữa sông, ḿnh hỏi anh ta:

- Anh là ai vậy?

 

Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời:

- Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.

 

Rồi anh ta tiếp:

- Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…

 

Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn - ngu ngơ, đần độn như thường ngày.

 

Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngă bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau ḿnh mới biết.

 

Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn ḿnh ngoẻo, sẽ không c̣n được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… - những người tù nói, giọng buồn.

 

Ḿnh gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.

 

Giám thị hỏi:

- Trước kia anh có quen biết ǵ thằng này không?

 

Ḿnh nói:

- Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi. Giám thị đồng ư cho ḿnh đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…

 

Ḿnh cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nh́n ḿnh. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt ḿnh tự nhiên trào ra rơi lă chă xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi.

 

 

Anh ta thều thào nói:

- Tuân ở lại, ḿnh đi đây… Đưa bàn tay đây cho ḿnh…

 

Anh ta nắm chặt bàn tay ḿnh hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tṛn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào ḷng bàn tay ḿnh một chữ nho. Chữ NHẪN.

 

Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.

 

Người lính canh dẫn ḿnh lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.

 

Giám thị hỏi:

- Cái h́nh nguệch ngoạc này có ư nghĩa ǵ? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.

 

Ḿnh nói:

- Thưa cán bộ, thật t́nh tôi không rơ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.

 

Nghe ra cũng có lư, “giám thị trại” tha cho ḿnh về lán…

 

 

Phùng Quán

 

____________________________

 

(1) Tựa đề do TS tự đặt. Người tù khùng chính là Cha Vinh.

Xin mời đọc tiểu sử của Cha Nguyễn Văn Vinh để biết thêm nhiều chi tiết về cuộc đời, gương phụng sự Thiên Chúa và con người của Ngài

 

 

Linh mục Gioan Lasan

NGUYỄN VĂN VINH (1912 – 1971)

Cha Chính địa phận Hà Nội

 

Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc Lũ, huyện B́nh Lục, tỉnh Hà Nam.

 

Cậu Vinh, một thiếu niên vui vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh về âm nhạc, ca hát. Cậu biết kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quư yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó là Cố Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis giới thiệu cậu lên học tại trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, Phú Xuyên, Hà Tây.

 

Năm 1930, thầy Vinh được cố Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại Chủng viện St Sulpice, Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở Limoges.

 

Chiến tranh thế giới xảy ra, cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập.

 

Ngài học Văn Khoa - Triết tại Đại Học Sorbone, học sáng tác và ḥa âm tại Nhạc viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài đă làm cho nhiều người Pháp tưởng lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: “Bonjour Madame!”

 

Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng là tính cương trực, dưới nụ cười là ư chí sắt son.

 

Sau khi tốt nghiệp cử nhân Văn Triết ở Sorbone, ngài gia nhập ḍng khổ tu Biển Đức tại Đan Viện Ste Marie.

 

Sau 17 năm du học, năm 1947 cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize - Thịnh, Bề trên Giáo phận đă bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài xin Bề trên lập ḍng Biển Đức ở Việt Nam, nhưng không thành.

 

Cha Vinh, dù tu học ở Pháp nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai tướng De Lattre de Tassigni. Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đ̣i đặt ghế của ông trên cung thánh và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam xuống dưới ḷng nhà thờ. V́ ḷng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh cương quyết không chịu.

 

Tướng De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe dọa. Cha Vinh cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ Tướng ngại khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha Khuê đă chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh văn, Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy Văn Triết ở trường Chu Văn An.

 

Năm 1954, Đức cha Trịnh Như Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều xin ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng Lạc.

 

Ngài tổ chức lớp học giáo lư cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh, đạo đức cộng tác, như cha Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học được tổ chức thành nhóm nhỏ tại pḥng khách Ṭa Giám Mục, về sau, con số người tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau, và ngồi ra cả ngoài sân. Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan trở thành đạo đức nhiệt thành, ảnh hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người gia nhập đạo. Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động v́ lư do an ninh.

 

Khi cha Vinh đang làm Hiệu Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh lănh tụ thay vào ảnh Thánh Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng không tháo bỏ Thánh giá, nên năm 1957, trường bị đóng cửa.

 

Thời bấy giờ, Đại học Y khoa Hà Nội thiếu giáo sư, nên đă đề nghị Đức Cha Khuê cử cha Vinh đến trường dạy La tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đoàn tháp tùng: “Đến giờ này mà c̣n có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?” Ít lâu sau trường Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.

 

Biết tài năng và kiến thức âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội t́m cha Vinh tham khảo ư kiến và nhờ xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.

 

Cha Vinh, một trong những nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam, và là một nhạc sĩ toàn tài. Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, chính ngài là người Việt Nam đầu tiên chơi vĩ cầm ở Hà Nội.

 

Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập chu đáo nên đă sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm thánh ca tuyệt vời. Cha Vinh tŕnh bày bản hợp tấu “Ở Dưới Vực Sâu” nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam do ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.

 

Ngài cộng tác với Hùng Lân sáng tác “Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít.” Sáng tác nhiều nhạc phẩm lớn: “Mở Đường Phúc Thật,” “Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi,” “Ôi GiaVi,” “Lạy Mừng Thánh Tử Đạo.” Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh 23, Ca vịnh 41, Ca vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Tâm Giêsu. Ngài c̣n viết những bài ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài “Bước Tới Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan.

 

Hằng tuần ngài đến dạy nhạc, xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng thanh thoát, lôi cuốn. Ngài tổ chức và chỉ huy dàn đồng ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ Hàm Long về Nhà Thờ Lớn Hà Nội.

 

Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt Nam đạo Công giáo vẫn được tự do hành đạo và tổ chức được những lễ nghi long trọng, tưng bừng. Dịp Lễ Noel, chính quyền tự động cho người đến chăng dây, kết đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đ̣i nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công.

 

Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ sở tôn giáo, không đồng ư, nhưng họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ cha xứ, hai bên to tiếng.

 

Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh luận không kết quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng đèn xuống, rồi chính ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay nắm lại, hai cườm tay đặt lên nhau, làm dấu hiệu c̣ng tay số 8, và nói lớn:

“Tự do thế này à!”

 

Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí không thành. Cha Căn, cha Vinh cùng một số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét xử. Ṭa án Hà Nội tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo.

 

Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối trị an, cố t́nh vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân” (!).

 

Sau phiên ṭa, cha Vinh bị đưa đi giam ở Hỏa Ḷ, sau bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.

 

Khi cha Vinh mới đến trại Yên Bái, ngài c̣n được ở chung với các tù nhân khác, nhiều giáo dân, chủng sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, v́ thế ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị cùm chân trong xà lim tối. Mấy tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội. Cán bộ hỏi:

“Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?”

 

Ngài đáp:

“Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, c̣n sống ngày nào, tôi phải làm bổn phận ḿnh!”

 

Ở tù đói rét là đương nhiên, lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già nấu muối, khi chia cơm phải cân đong từng chút một... Một lần cha Vinh nhận được gói bưu kiện do cha Cương, quản lư Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù h́nh sự thân thương gọi ngài là “Bố.”

 

Ngay trong nhà tù, cha Vinh vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, ngài lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, ngài đưa tay gạt, anh ta ngă khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi vơ, mọi người phải nể v́.

 

Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ muốn anh được tha về, nhưng với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ư, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”. Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của tôi”.

 

V́ không khuất phục được ngài, nên bản án từ 18 tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lư án lệnh nào, đă biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim, biệt giam và án tử.

 

Năm 1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính quyền mới báo cho Đức Cha Khuê và cha Cương quản lư Nhà Chung: “Ông Vinh đă chết. Không được làm lễ áo đỏ cho ông Vinh!”

 

Suốt đời ḿnh, trong mọi t́nh huống cha Chính Vinh làm tṛn trách vụ của ḿnh. Ngài đă mạnh mẽ rao giảng Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như khó khăn. Vượt mọi thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền, luôn trung kiên với Thiên Chúa và Giáo Hội.

 

Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.

 

 

TGP Hà Nội – 2013

BBT (Theo HĐGMVN)

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính