HỒI KƯ CHIẾN TRƯỜNG

PHI CÔNG QUAN SÁT L-19 và KHU TRỤC A-1

KLVNCH

 

 

 

 

tiếp Phần II

 

 

  

 Bảng Phi cụ A-1H, AD-6

 

 

Phi Vụ BOBS   (Beacon Only Bombing System)

 

Vào năm 1973, một số ít phi công khu trục được huấn luyện BOBS, đa số là Phi tuần trưởng. Đài nầy đặt tại Biên Ḥa, dùng ra-đa và tín hiệu dẫn phi cơ đến mục tiêu để thả bom. Người điều khiển đài liên lạc phi cơ và dẫn phi cơ bay vào đường bay cho mục tiêu được chọn của đài. Các tín hiệu đít-đa hay đa-đít phát ra để chỉ phi cơ lệch trái hay phải đối với đường bay. Tín hiệu vội vă chỉ phi cơ lệch càng lúc càng xa đường bay và tín hiệu chậm lại khi phi cơ gần vào đường bay. Tín hiệu đa-dài khi phi cơ trên đường bay và tín hiệu đa-dài phải có khoảng 10 giây cuối cùng mới được thả bom qua tiếng click thứ 3 (sau khi tiếng đa-dài tắt bắt đầu 3 giây c̣n lại qua 3 tiếng click).

 

Phi tuần trực đêm của tôi được đánh thức bởi tiếng chuông điện thoại từ pḥng HQCC/KĐ23 vào lúc hai ba giờ sáng. Tôi bật dậy trong đôi mắt cay xé với thân h́nh uể oải sau giấc ngủ say để ghi nhận chi tiết cho phi vụ. Phi tuần viên là Tr/u Đào Công Quận, người chưa bay BOBS trước đây. Chúng tôi lấy nón bay, mặt áo lưới đầy đủ dụng cụ cấp cứu phi hành, đeo dây dù…rồi đi bộ ra băi đậu phi cơ gần đó. Cho dù thế nào đi nữa, giờ nầy chúng tôi cũng tỉnh rói và sẵn sàng trong sự dè dặt cho phi vụ. Trong đêm mọi cử động dường như chậm lại, tôi đi một ṿng quanh phi cơ với đèn pin để kiểm soát cơ phận trong điều kiện an toàn, rồi dùng hết sức ḿnh phóng lên cánh phi cơ, trước khi vào pḥng lái. Người cơ trưởng giúp gài dây dù, sau khi tôi đặt người lên ghế pḥng lái, rồi vội vă leo xuống. Dấu hiệu quay máy của tôi được đáp ứng bởi ánh đèn cầm tay của anh. Chong chóng nặng nề xoay rồi vụt nhanh khi máy nổ. Mùi khét lẹt của khói gần như quen thuộc. Tôi thử vô tuyến với chiếc số hai và xin đài chỉ thị di chuyển. Người cơ trưởng chào tạm biệt và chờ đợi sự trở về an toàn của đôi cánh chim. Hai phi cơ di chuyển chậm chạp trong đêm tối ra đầu phi đạo và được trang bị bom nổ, mỗi chiếc 6 trái 500 cân. Sau khi cất cánh, tôi lấy cao độ và bay một ṿng ở Biên Ḥa để kiểm soát và điều chỉnh phi kế và cũng là lúc để người lái ḥa ḿnh trong đêm đen. Cái cảm giác an b́nh dưới ánh đèn rực rỡ và lưu luyến của thành đô chẳng mấy chóc sẽ để lại phía sau và đôi cánh chim lạnh lẽo, im ĺm đi vô màn đêm u tịch.

 

Tôi liên lạc tần số …và được biết đây là phi vụ BOBS. Trong thời gian đài dẫn phi tuần vào đường bay, tôi nói với số hai là tôi sẽ nhắc lúc để bom và thả. Phi tuần tiếp cận đường bay với cao độ 7.000 bộ. Số hai bay thật nhuyễn trong hợp đoàn sát cánh đă làm cho tôi an tâm. Đôi đầu cánh của hai phi cơ cách nhau và trên dưới không quá hai mét. Tôi dán mắt vào các phi kế dưới ánh đèn mờ sáng trong pḥng lái nhỏ hẹp, bao trùm bởi đêm đen, sự vận chuyển của phi kế nói lên vị thế phi cơ trong không gian hay ngược lại. Tôi theo dơi tín hiệu, giữ phi cơ trên đường bay và thỉnh thoảng nh́n sang kiểm soát sự hiện diện chiếc số hai. Tiếng động cơ và tín hiệu là âm thanh duy nhất cho đôi cánh chim đến chân trời vời vợi. Hôm nay thời tiết tốt, phi tuần không gặp khó khăn. Sau khi vào đường bay, tôi nhắc số hai để bom. Có thể nói, khi phi cơ lệch đường bay 10 m là có tín hiệu điều chỉnh.  Một tiếng đa dài khoảng 10 giây tiếp theo là tiếng click 1, 2, 3, tôi hô to “thả”. Phi vụ hoàn tất khoảng 15 phút từ khi liên lạc đài BOBS. Chúng tôi không biết tính chất mục tiêu, chỉ nghe tiếng dội lại của bom trong lúc lấy hướng trở về Biên Ḥa. Sau khi đáp, chúng tôi ngủ tiếp cho đến sáng.

 

 

Phi Vụ Không FAC   (Air Forward Controller)

 

Vào đầu năm 1974, tôi được chỉ định bay phi vụ thả bom bằng cách đến vùng làm việc, t́m mục tiêu được chỉ định để oanh kích, không phi cơ quan sát hướng dẫn và không có quân bạn. Hai chiếc A-1 được trang bị bom nổ. Tr/u Nguyễn T. Bá bay chiếc số hai. Chiều ngày hôm trước, chúng tôi đến Pḥng Quân báo Không đoàn để nhận hai bản đồ tỷ lệ 1/250.000 có đánh dấu mục tiêu. Chúng tôi không biết tính chất mục tiêu. Mục tiêu nằm về Tây Bắc An Lộc (AL) khoảng 8 phút bay. Nghe mà thích, sao nó đơn giản và dễ dàng như vậy. Chúng tôi cũng không nghe nói đến pḥng không, mặc dù trong thời điểm nầy, CSBV đưa nhiều pḥng không đủ loại kể cả hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7 vào Nam. Chúng tôi không có thuyết tŕnh nào về phi vụ nầy th́ làm sao có phi cơ trực thăng cứu cấp trong trường hợp lâm nạn. Người có thẳm quyền chỉ biết cắt phi vụ qua yêu cầu cấp trên, ḿnh là người thi hành phi vụ, có trách nhiệm đưa bom đến mục tiêu. Tôi có cảm nghĩ “đem con bỏ chợ” v́ không ai quan tâm đến phi vụ, vậy tôi cũng có thể bay trên cao ngang qua mục tiêu và cho bom rớt xuống, nhưng không làm vậy. Tại sao tôi là người thi hành phi vụ nầy?

 

Chúng tôi chọn lối đánh truy kích và bất ngờ để pḥng không địch không có th́ giờ trở tay. Kết thúc cho phi vụ tiền phi là phải làm ǵ khi một chiếc bị bắn rớt. Nếu chúng tôi được chọn thời gian đánh th́ b́nh minh vẫn là lư tưởng, nhiều bất ngờ hơn và hy vọng bọn”vẹm” c̣n đang ngủ. Nhưng không, chúng tôi được gọi ra đi vào lúc 9 giờ sáng. Sau khi cất cánh, phi tuần bay đến An Lộc, nhưng giảm cao độ thật nhanh khi sắp đến AL. Từ AL đến mục tiêu phi tuần bay ở cao độ 700 bộ, mặc dù thế đất cao thấp khác nhau từ 200 đến 400 bộ trên lộ tŕnh, hướng 320 độ, tốc độ 180 knots/giờ cho 8 phút bay. Tôi bắt đầu ghi giờ và theo dơi hướng bay  từng phút. Phi cơ lướt nhanh trên ngọn cây qua thế đất cao, thấp. Tôi tự cảnh giác ḿnh cẩn thận. Chiếc số hai trong hợp đoàn lơi xa cùng cao độ. Phút thứ sáu chúng tôi bắt đầu để vị trí bom, cơ chế và đội h́nh thả bom. Phút thứ bảy chúng tôi lấy cao độ và t́m mục tiêu. Mục tiêu được nhận ra ở hướng 10 giờ (phía trước cánh trái) và được báo ngay cho số hai. Mục tiêu là rừng cây cách bờ sông 50 mét có băi cỏ xanh. Trong lúc lấy cao độ tôi điều chỉnh ṿng đánh. Sau một phút phi cơ có đủ cao độ, tôi vào thả hết bom. Chiếc số hai tiếp tục thả ngay sau đó. Sau khi kéo phi cơ lên, tôi quẹo gắt để t́m số hai và thấy nhiều đóm khói đen trên bầu trời, đó là đạn pḥng không 37 ly nổ cùng cao độ thả bom. Mặc dầu đánh nhanh nhưng vẫn bị pḥng không. Chúng tôi may mắn trở về căn cứ an toàn. Phải chăng cuộc chiến đă đến thời kỳ bắt chúng ta đáp ứng cho nhu cầu một cách lều lĩnh và đặt nhẹ vấn đề an phi?

 

Cuộc chiến ngày càng leo thang và khốc liệt, pḥng không địch ngày càng gia tăng. Không Quân Việt Nam gặp nhiều khó khăn và nguy hiểm hơn trong việc yểm trợ quân bạn. Phi công VNCH cố chiếm chiến công đôi khi vượt ra ngoài lănh vực an phi, và gan dạ hơn bao giờ hết. 

 

AD-6 (A-1H) ở Biên Ḥa

 

  

Khu Trục Yểm Trợ An Lộc trong Hè Đỏ Lửa  (1972)

 

An Lộc (AL), một địa danh không những quen thuộc với người dân miền Nam từ tháng 4 năm 1972 mà c̣n nổi bật trên thế giới, nhất là giới quân sử, qua trận tử thủ khốc liệt 68 ngày của quân ta.  Nhiều nhà quân sử so sánh trận An Lộc không kém các trận chiến lịch sử của thời Thế chiến. Người Mỹ hănh diện về trận Khe Sanh vào tháng 3 năm 1968 sau 72 ngày tử thủ, cho nên quân dân miền Nam cũng hănh diện với chiến thắng ở An Lộc. An Lộc, một tỉnh lỵ nhỏ với dân số hơn sáu mươi ngàn ở hướng Bắc Sài G̣n khoảng 100 Km. Hướng Bắc AL có Lộc Ninh, Nam là Chơn Thành, Lai Khê và B́nh Dương trên cùng Quốc lộ 13. An Lộc thuộc Vùng III Chiến thuật dưới sự yểm trợ của 3 Sư đoàn (SĐ) Bộ binh: 5, 18 và 25 cùng 3 đơn vị lưu động. Sư đoàn 5 ở Lai Khê trách nhiệm về vùng Bắc, SĐ18 ở Xuân Lộc trách nhiệm vùng Đông và SĐ25 ở Tây Ninh trách nhiệm vùng Tây. Bản doanh Quân Đoàn III đặt tại Biên Ḥa. Những đơn vị tăng phái cho chiến trường An Lộc gồm SĐ21 và Trung đoàn 15/SĐ9 từ Vùng IV, Lữ đoàn 81 Biệt Cách Dù và Lữ đoàn 1 Nhảy Dù.

 

Cộng sản Bắc Việt (CSBV) tung 3 Công trường (Sư đoàn của một vùng): 5,7 và 9 cùng với 2 Trung đoàn 202 và 203 tăng, tổng số gần bốn chục ngàn quân đến từ biên giới Cambuchia cho cuộc Tổng Tấn Công vào AL, đầu tháng 4 năm 1972. Các tiền đồn của ta gần biên giới lần lượt thất thủ trong mấy ngày đầu, tiếp theo là quận lỵ Lộc Ninh thất thủ vào ngày 6-4-1972. Công trường (CT) 5 sau khi chiếm Lộc Ninh tiến về hướng Nam trên QL 13 đánh bung một Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 52/SĐ18, Tiểu đoàn c̣n lại lui về An Lộc. Trong khi CT9 tiến đánh An Lộc từ hướng Tây và CT7 đóng “chốt” tại Tàu Ô trên QL 13, đồng thời chận đường tiến quân của ta đến tiếp tay cho AL.      

 

An Lộc đứng vững là nhờ sự chiến đấu anh dũng đến giọt máu cuối cùng của người lính Cộng Ḥa, trong đó chúng ta phải kể đến sự yểm trợ hữu hiệu của Không quân Việt-Mỹ. Trong phạm vi bài nầy, tôi xin ghi lại những phi vụ yểm trợ của phi cơ Khu trục thuộc SĐ3KQ bên cạnh các đơn vị KQ tham chiến tại An Lộc.

 

Sư đoàn 3 KQ gồm những phi đoàn:

- 2 Phi đoàn Quan sát 112 và 124

- 2 Phi đoàn Khu trục cánh quạt Skyraider 514 và 518

- Phi đoàn Khu trục phản lực 522 (F-5A)

- Phi đoàn Trực thăng Chinook 237, 4 Phi đoàn Trực thăng UH-1 (221, 223, 231, 245) và một Biệt đội tản thương 259E.

 

Sư đoàn 5 KQ gồm những phi đoàn tham dự trận An Lộc:

- Phi đoàn 819 (AC-119G)

- 3 Phi đoàn Vận tải (421,423 và 425) C-123

- Biệt đội Trinh sát 716 (EC-47D) 

 

Một số Phi công Quan sát và Trực thăng biệt phái từ Vùng IV.

Không quân Hoa Kỳ gồm Quan sát, A-1 Skyraider, F-4, C-130, AC-130 Specter và B-52.

Không quân VNCH đă chứng minh sự lớn mạnh, kinh nghiệm và hữu hiệu qua sự yểm trợ An Lộc và đă thi hành tất cả những phi vụ giao phó một cách nghiêm chỉnh và can đảm trước hỏa lực pḥng không CS đáng ngại. CSBV dùng pḥng không 12.8 ly, 37 ly và SA-7, một số cán binh cộng sản leo lên ngọn cây cao bắn vào đoàn trực thăng vỏ trang, chuyển quân, tiếp tế và tản thương. Các phi đoàn trực thăng đă đóng góp hữu hiệu vào cuộc chiến và cũng đón nhận thiệt hại khá to, đáng kể nhất là PĐ-223 gần như xoá sổ. Sau khi 2 chiếc Chinook (CH-47) bị bắn rớt, thành phần yểm trợ tiếp vận trên không được KQVN C-123 đảm trách kể từ ngày 12 tháng Tư. C-123 chỉ thả dù tiếp vận chính xác ở cao độ thấp, nhưng lại bị cản trở bởi pḥng không. Chiếc C-123 đầu tiên bị bắn rớt ngày 15 tháng 04 và chiếc thứ hai vào ngày 19-04-72. Kể từ 21-4-72, KQ Mỹ đảm trách yểm trợ tiếp vận bằng C-130 với kỹ thuật HALO (high altitude, low opening) thả từ 20.000 bộ cao, dù tự động mở từ 500 đến 800 bộ cao. Sau vài tuần thụ huấn lối thả mới (BOBS), phi cơ vận tải VN trở lại yểm trợ An Lộc. Trinh sát điện tử (EC-47D) ḍ tần số, theo dơi điện đàm của VC.... AC-119G trang bị 4 Minigun 6 ṇng với tốc độ bắn 6.000 viên 1 phút. Đại úy Trần Văn Tám ghi nhận không những bay đêm mà c̣n cả phi vụ ban ngày. Anh thấy rơ VC mặt quần cụt chạy như kiến trên mục tiêu giữa QL 13 và đường rầy xe lửa phía Tây An Lộc. Anh hạ thấp cao độ và bắn cho đến hết đạn trước khi rời mục tiêu. Phi công quan sát bay hằng giờ trên mục tiêu, biết rơ vị trí bạn cũng như địch và hướng dẩn phi công khu trục đánh chính xác và hiệu quả vào mục tiêu mà quân bạn đang đối đầu.


Hai phi đoàn khu trục cánh quạt Skyraider cùng với phi đoàn khu trục phản lực F-5 yểm trợ cho An Lộc. F-5 mang 4 trái 500 cân và A-1 Skyraider mang 6 trái 500 cân hay 12 trái 250 cân cho mỗi phi cơ, phi công A-1 rất ít sử dụng 4 cây đại bác 20 ly mà chỉ dành cho trường hợp khẩn cấp, như yểm trợ cho chiếc bị rớt hay nhận rơ tính chất mục tiêu. Mỗi phi đoàn có khả năng thi hành trung b́nh từ 14 đến 16 phi xuất trong ngày. Mặc dầu chiến trường An Lộc bắt đầu sôi động, nhưng Bộ Tư Lệnh KQ quyết định tăng phái PĐ-518 của chúng tôi ra Đà Nẵng 7 ngày, kể từ ngày 4-4-72 cho chiến trường Quảng Trị. Nơi đó, Đ/úy Trần Thế Vinh và Đ/úy Phan Quang Tuấn đă hy sinh cho Tổ quốc. PĐ-522 và PĐ-514 yểm trợ quân bạn trong những ngày đầu cuộc chiến ở An Lộc. Ngày 6-4-72, Đ/úy Trần Văn Mười PĐ-514 dẫn phi tuần đến Lộc Ninh, phía Bắc AL, đă ghi nhận nhỉều pḥng không 12.8 ly bắn lên kèm theo đạn lửa (tracer) và những đóm khói đen trên bầu trời của pḥng không 37 ly từ các ụ phi cơ trong phi trường, sau khi VC vào Lộc Ninh. Việt cộng rất ít dùng đạn lửa trừ khi vị trí bị lộ hay có lợi thế trong tay. Anh ghi nhận chưa bao giờ thấy nhiều pḥng không bắn lên như vậy trong cuộc đời bay bổng. Ngày 10-4-72, PĐ-514 gởi một Biệt đội 12 phi công ra Đà Nẵng thay PĐ-518. Chiều ngày 11-4-72, Đ/úy Nguyễn Văn Chín PĐ-518 dẫn phi tuần 2 A-1 với 6 bom nổ 500 cân và chiếc số 2 là cố vấn Mỹ Bennet mang 6 trái bom xăng đặc (Napalm) 500 cân, chận đánh đoàn xe tăng 5 chiếc trên QL 13, khoảng giữa Lộc Ninh và An Lộc. Đ/úy Chín ghi lại, các tăng chạy thật nhanh, mặc dầu bị phủ đầu bởi những trái bom lửa với chiến thuật thả thấp 50 m trên đầu tăng để gây hiệu quả tối đa. Ông Bennet chịu chơi hết ḿnh! Lâu lâu mới bay một phi vụ, lại là lần đầu gặp 5 tăng th́ c̣n ǵ sung sướng cho bằng, chẳng khác chi “lân thấy pháo”. Cũng may là không bị SA-7. V́ thắc mắc, Đ/úy Chín hỏi lính Dù về việc sao tăng có thể chạy được với sức nóng giết người như vậy? Lính Dù cho biết, khi đạp chân ga vào là tăng ngừng lại, ngược với tăng VNCH.  Không biết đây là lời nói chơi hay nói thật?


Buổi sáng ngày 12-4-72 lúc 10 giờ, tôi dẫn phi tuần 2 A-1 mang 6 trái 500 cân cho mỗi chiếc và có mặt ở phía Bắc An Lộc 2 km. Số 2 là một Tr/úy nhưng tôi không nhớ tên. Mục tiêu là 3 chiếc tăng chạy thật nhanh từ khu rừng già, băng qua đồng cỏ tranh trống trải đến An Lộc. Sau khi chúng chạy được 2 km th́ bị chận đánh, những quả bom rớt thật gần tang, nhưng không chận được 3 tăng, cuối cùng có hai chiếc đâm vào ṿng đai thành phố AL, c̣n chiếc thứ 3 quay đầu chạy ra hướng Đông Bắc và sau cùng đâm xuống con sông. Phải chăng chân ga bị bỏ không?


Ngày 17-4-72, biệt đội của PĐ-514 trở về sau 7 ngày biệt phái, hợp tác với PĐ-518 và PĐ-522 để thực hiện những phi vụ dọc theo hai bên QL 13 gần An Lộc và Tàu Ô. Ba phi đoàn khu trục thực hiện trung b́nh 46 phi xuất mỗi ngày cho phía Tây, Tây Nam An Lộc, đồi 169, đồi Gió nằm về phía Nam An Lộc 3 cây số và Tàu Ô. Th/tá Nguyễn Văn Phong hay “Phong già” thộc PĐ-518, xuất thân từ hạ sĩ quan và cao niên hơn chúng tôi khá nhiều, vẫn bay “mút mùa” như  anh em khác. Anh ghi nhận: “tất cả các phi công bay hai phi vụ mỗi ngày”. Số phi xuất nầy c̣n tùy thuộc vào số phi cơ khả dụng do hai Đoàn Bảo tŕ và Vũ khí đảm trách. Họ làm việc ngày đêm để đáp ứng nhu cầu khẩn thiết của chiến trường. Tuy tầm vóc không so bằng người Mỹ, nhưng biết khai thác dụng cụ đúng mức và kinh nghiệm có thừa đă hoàn tất nhiệm vụ giao phó trong thời gian tối thiểu.


Việt cộng dùng nhiều pḥng không 12.8 ly, SA-7 và số ít 37 ly với những đóm khói đen ở trên không. Phi cơ như những con chim sắt nhào xuống, kéo lên, làm bia cho Cộng quân nhả đạn và “đạn tránh phi cơ, phi cơ không tránh đạn”. Các vị trí pḥng không được ngụy trang khéo léo và không dùng đạn lửa, cho nên chúng tôi không bị áp đảo tinh thần mà b́nh tĩnh trong lúc vào thả bom. F-5 có nhiều lợi thế hơn qua hai yếu tố tốc độ nhanh và thả bom ở cao độ cao. Th/tá Nguyễn Đ́nh Lộc F-5 ghi nhận thời tiết trên mục tiêu không mấy khả quan.


Các phi vụ yểm trợ cho quân bạn gần như ở cùng vị trí từ ngày này sang ngày khác nhiều nhứt về hướng Nam, Tây-Nam An Lộc 3 km v́ đôi bên tranh giành từng tấc đất. Hằng chục tấn bom do ba phi đoàn khu trục mang đến mục tiêu mỗi ngày và nện lên đầu bọn khát máu “sinh Bắc tử Nam” gần sát với quân ta, nhưng không một trái bom nào lạc vào quân bạn. Đôi khi trên tần số FM chúng tôi nghe được lời yêu cầu của quân bạn là đánh sát hơn vào họ một chút nữa. Nhưng v́ sự chính xác và sức công phá của quả bom không cho phép phi công vượt qua tầm giới hạn tối thiểu. Hai Trung đoàn CS, 147/CT7 và 275/CT5 đẩy lui Lữ đoàn Dù ở đồi 169 và đồi Gió ngày 19/4/72. Trong lúc yểm trợ cho Tiểu đoàn Dù ở đồi Gió, phi cơ của Đ/úy Phạm Văn Huệ (PĐ-514) bị trúng pḥng không địch, anh nhảy dù và bị bắt làm tù binh. Sau đó không lâu, anh được thả qua chương tŕnh trao trả tù binh ngày 13-3-1973.


Công trường 5 và 9 quần thảo với bốn ngàn lính VNCH tử thủ trong An Lộc. Những người lính Cộng ḥa quyết đem xương máu bảo vệ từng tấc đất cho thành phố đổ vỡ do trăm, ngàn trái đạn pháo trong ngày. Vào đầu tháng 5/72, Cộng quân đem hai Trung đoàn 141 và 165 thuộc CT7 từ Tàu Ô đến Nam và Tây Nam An Lộc để hợp tác với thành phần c̣n lại của CT5 và CT9, quyết chiếm tỉnh lỵ nầy trong vài ngày, nhưng không quá một tuần. Đó là lời hứa của Tuớng lănh đạo CT5 với Bắc Việt.


Phi cơ B-52 chiến thuật lại được tận dụng trong những ngày tới. Hơn một tháng qua, B-52 đă cày nát vùng phía Tây Quốc lộ 13 trong nhiều cây số vuông ở Tây An Lộc và Tây Tàu Ô. Đó là vùng khai hoang trước đây, những thân cây khô giờ ngă xuống được thay bằng một vùng đất đỏ với những hố bom khổng lồ. Cũng trong thời gian nầy, SĐ21 Bộ binh được tăng cường và tiến chiếm Tân Khai trên QL 13, cách An Lộc 10 km để làm đầu cầu yểm trợ pháo cho An Lộc. Trung đoàn 15/SĐ9 VNCH từ vùng IV đến Tàu Ô ngày 15-5-72. Trong thời gian cao đỉnh này, với sự yểm trợ hữu hiệu của KQVN, người lính VNCH quyết tử thủ An Lộc và liên tục đẩy lui các cuộc tấn công khốc liệt từ 11 tháng 5 đến 14 tháng 5. Cộng quân liên tục thất bại và thất vọng trong việc chiếm An Lộc, họ buộc phải kéo TĐ141/CT7 trở về Tân Khai.


Đ/úy Nguyễn Thế Qui dẫn phi tuần, chiếc số hai là Đ/úy Nguyễn Cao Hùng/PĐ-514 đánh nhiều chiến xa ở Tân Khai ngày 20 tháng 5. Cộng quân cố quấy phá đầu cầu pháo và lập chốt chận mức tiến quân cuả ta. Phi cơ của Đ/úy Hùng bi SA-7, phi công gan dạ đă làm tṛn sứ mạng cho Tổ quốc với khẩu hiệu “Tổ-Quốc Không-Gian.” Anh đă thoát khỏi phi cơ nhưng chiếc dù định mệnh lại không mở. Kính chúc hương linh Đ/úy Hùng sớm siêu thoát, văng sanh miền cực lạc.


Tinh thần chiến đấu của người lính Cộng ḥa lên cao điểm. Tuy VC bắn hạ được vài phi cơ nhưng không làm tê liệt sự yểm trợ hữu hiệu của ba phi đoàn khu trục Phượng Hoàng PĐ-514, Phi Long PĐ-518 và Thần Ưng PĐ-522, thêm vào AC-130 specter và nhiều phi vụ trải thảm của B-52. Ba phi đoàn thực hiện 46 phi xuất hay 55 tấn bom mỗi ngày. Công sản thất bại trong việc pḥng không ở An Lộc. Phi đoàn khu trục bị thiệt hại nhẹ so với số phi xuất thực hiện cho chiến trường An Lộc. Cộng quân bị thiệt hại nặng, không c̣n đủ khả năng mở những cuộc tấn công đáng kể sau ngày 26 tháng 5, rút khỏi ṿng chiến trong đầu tuần tháng 6 năm 1972 và để lại mười ngàn xác. Chúng chọn An Lộc là liều lĩnh v́ hậu cần của chúng ở xa, trong khi căn cứ Biên Ḥa gần An Lộc, mỗi phi vụ chỉ mất một giờ bay.


Người lính Không quân chiến đấu dũng cảm đi vào vùng lửa đạn để hoàn tất nhiệm vụ giao phó và b́nh thản trước sự hiểm nguy. Trên chiến trường người lính Lục quân cảm tử xung phong tiêu diệt địch, chiếm mục tiêu, trong khi phi công VNCH dũng cảm xuyên qua màn lưới pḥng không và pháo của địch để đáp, cứu, chuyển tiếp liệu, di tản thương binh, thám sát mục tiêu, bắn phá, thả bom… sau khi phi công nghiên cứu mục tiêu, điạ thế, thời tiết, hướng tiến vào và ra... Công việc làm đầy thử thách trước sự sống chết xảy ra trên khắp chiến trường. Phi công VNCH không từ chối phi vụ khó khăn và nguy hiểm, họ thường họp và bàn tính với nhau để t́m một phương cách khả dĩ cho phi vụ đặc biệt qua một số phi công “Tự nguyện”. Những phi công nầy thi hành phi vụ thập tử nhất sinh, và hy vọng trở về sau phi vụ rất mong manh. Khi bay khu trục, phi công chỉ là Thiên Lôi, phi cơ quan sát chỉ đâu tôi đánh đó và may là trong thời gian gần 5 năm, tôi và phi tuần viên chưa có trái bom hay viên đạn nào lạc vào quân bạn. Phi cơ khu trục không thả bom trong thành phố AL, mà chỉ thả yểm trợ các tiểu đoàn bạn chống trả địch quân ngoài thành phố bị vây hăm. Trong khi Cộng sản rót bừa băi  trăm, ngàn hỏa tiễn 122 ly và đại pháo vào AL mỗi ngày, gây thương vong cho quân ta và người dân vô tội.


Chúng ta đă hát, hát măi và lớn theo từng bước chân như những ngày c̣n ở quân trường với câu “Đi không ai t́m xác rơi…” (Không Quân Hành Khúc). Thêm vào chiến thắng vang lừng của quân dân miền Nam ở An Lộc trong Hè Đỏ Lửa vẫn chưa làm sáng mắt người Mỹ trong việc bán đứng miền Nam qua Hiệp Định Ba Lê ngày 27-1-1973. An Lộc trở nên vùng đất lịch sử sau 68 ngày chống trả với bọn xâm lăng khát máu, dưới chiêu bài giải phóng miền Nam do đàn anh Nga, Tàu chủ xướng. Xương máu người lính Cộng Ḥa đánh đổi bằng tấc đất và Tự do cho người dân miền Nam Việt Nam.

 

Chiến Trường An Lộc (4/1972)

 

 

(c̣n tiếp)

Phi Long 31

 

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính