LTS: Hồn
Việt UK online nhận được và đọc bài viết: "Ba cống hiến quan trọng của
Công giáo" dưới đây của tác giả Phan Thế Hải, một bài viết có phần đề cập
đến nguồn gốc Quốc ngữ của dân tộc Việt Nam đă được tạo dựng, lưu truyền,
phát triển cho đến ngày nay. Với tinh thần : "Uống nước nhớ nguồn, ăn quả
nhớ kẻ trồng cây" tự ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Tác giả bài viết đă
nêu ra được hầu hết những người có sáng kiến, t́m ṭi và phát triển, quảng
bá và cổ súy dùng chữ Quốc ngữ, mà ngày nay, người Việt chúng ta không thể
không tự hào là đă không phải viết và đọc các lối chữ vẽ bùa ngoằn ngoèo
như một số lân bang.
Tuy nhiên,
chúng tôi, xin được bổ túc một nhân vật có công đầu trong việc áp dụng,
khuyến khích người Việt dùng chữ Quốc ngữ là cụ Trương Vĩnh Kư qua bài
viết:
"Trương Vĩnh Kư và những nỗ lực phổ biến chữ quốc ngữ cuối thế kỷ"
của tác giả Thu Hằng mà chúng tôi đă chọn đăng.
Hồn Việt UK online trân trọng giới thiệu.
Ba cống hiến quan trọng của Công giáo
Tôi là người ngoài Công giáo, nhưng rất tôn trọng các tín ngưỡng..
Những xung đột giữa cộng đồng Công giáo với nhà cầm quyền trong thời gian
qua là điều không đáng có. Hơn thế, sau những xung đột đó, một số cán bộ
có chức sắc đă có những đánh giá thiếu khách quan về vai tṛ của giáo dân
với đất nước. Điều này không có ích cho khối đại đoàn kết dân tộc.
Để tạo được sự đồng thuận, không có cách nào khác là phải có cái nh́n
khách quan về vai tṛ của các tôn giáo. Xin được điểm qua một vài cống
hiến của bà con giáo dân với sự nghiệp chấn hưng nước nhà mà tôi có dịp
chứng kiến suy ngẫm.
1- Chữ quốc ngữ và nền văn minh của nhân loại
Trước khi các nhà truyền giáo vào Việt Nam, hàng ngàn năm qua, người Việt
vẫn dùng chữ Hán hoặc bằng chữ Nôm trong các giao dịch. Nhưng đa số người
Việt Nam mù chữ và không thể đọc và viết được chữ Tàu, v́ hệ thống chữ
viết này quá phức tạp.
Từ thế kỷ XVI, cùng với các phát kiến hàng hải, các nhà truyền giáo theo
các tàu buôn đến Việt Nam, họ là người tiên phong trong việc dùng mẫu tự
La-tinh để viết lại âm giọng mà họ nghe được từ tiếng Việt. Đầu năm 1625,
Linh Mục Alexandre de Rhodes đến Việt Nam , đă có một số phát âm tiếng
Việt được viết bằng chữ La-tinh rồi.
Trên cơ sở đó, Alexandre de Rhodes (1591- 1660) tiếp tục nghiên cứu, hoàn
thiện cách diễn đạt này, để rồi năm 1651, lần đầu tiên ông cho xuất bản
cuốn tự điển VIỆT-BỒ-LA tại Roma. Đây được coi là năm sinh chính thức của
chữ Quốc Ngữ. Cuộc khai sinh diễn ra tại nhà in Vatican . Chính nơi nhà in
Vatican mà Việt Nam nhận được chữ viết của ḿnh. Như vậy, chữ quốc ngữ từ
chỗ là công cụ truyền giáo trong các nhà thờ, đă từng bước trở thành ngôn
ngữ cho toàn dân Việt Nam .
Ngày nay, không ai có phủ nhận sự thuận tiện và văn minh của chữ Quốc ngữ,
chính nó đă góp phần lớn đưa đất nước VN hội nhập với thế giới dễ dàng,
đơn giản hơn nhiều ngôn ngữ khác. Những ngôn ngữ chính dùng trên thế giới
như Tiếng Anh, Tiếng Pháp… sẽ trở nên ít phức tạp hơn cho người học biết
chữ quốc ngữ, so với người dùng chữ Hán hoặc chữ Nôm. Nhưng nguồn gốc và
công lao của người sinh ra ít được người ta nhắc đến, đó là sự thiếu công
bằng.
Cùng với sự xuất hiện chữ quốc ngữ, những nét văn minh phương Tây cũng dần
dần được du nhập vào VN đi kèm với Công giáo. Những hủ tục mê tín, dị đoan
như cúng tế, bói toán… khi có bệnh được thay vào đó là bệnh viện, nhà
thương bố thí, trường học cho người nghèo… Trước đây, nơi nào có Nhà thờ,
th́ ở đó có thêm trường học, nhà thương cho những người không có khả năng
chữa bệnh hoặc học hành.
Ngoài ra, nếp sống quan niệm về cuộc sống cũng dần dần được đưa vào một
cách khoa học, thiết thực hơn bởi các sản phẩm văn minh phương Tây mà
những người truyền giáo mang đến cho đất nước An Nam theo bước chân truyền
đạo của họ.
Nền văn hóa làng xă, cục bộ địa phương “sau lũy tre làng” cũng dần dần
được thay đổi với cách nh́n toàn diện và tổng thể hơn. Với người Công
giáo, bất cứ chỗ nào có giáo dân cũng là anh em, với mọi người đều là con
Thiên Chúa dù khác đạo. Điều này dễ chứng minh nếu nh́n thấy bà con công
giáo khắp nơi đă đổ về Thái Hà, về Xă Đoài… khi có những biến cố mà về mặt
xă hội th́ không liên quan đến những người ở xa xôi.
Những hoạt động của các Ḍng tu trong Công giáo như Ḍng Chúa Cứu Thế với
linh hướng phục vụ người nghèo, Ḍng Phanxicô theo linh hướng “Sống với
tinh thần nghèo khó”… đă có những tác dụng thiết thực xoa dịu nỗi đau của
những người nghèo khổ trong xă hội. Nh́n những cộng đồng tu hành phục vụ
tại các trung tâm điều dưỡng, điều trị cho bệnh nhân AIDS, phục vụ những
người đang vướng vào tệ nạn xă hội, nuôi dưỡng trẻ mồ côi… đă thể hiện rơ
điều này và được xă hội công nhận.
2- Duy tŕ nền kinh tế nhiều thành phần
Thời bao cấp, do quan niệm thời kỳ quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xă hội
là nền kinh tế chỉ có hai thành phần chính là Kinh tế tập thể và Kinh tế
quốc doanh. Mọi thành phần khác đều không được khuyến khích và chính thức
thừa nhận.
Ruộng đất, các tư liệu sản xuất quan trọng khác và cả các loại h́nh dịch
vụ đều phải tập trung vào hợp tác xă. Nhưng phong trào Hợp tác hóa nông
nghiệp đă dần dần thể hiện rơ những bất cập của nó và sớm chết yểu bởi nó
đi ngược với quy luật kinh tế và cách nghĩ truyền thống của nông dân Việt
Nam. Chính v́ thế có thể nói đó là một mô h́nh công xă ảo tưởng, nó đă
tiêu diệt nền kinh tế nông nghiệp VN từ chỗ thừa gạo xuất khẩu đến một
giai đoạn từ Trung ương đến địa phương, từ quan chức đến mỗi người dân đều
chỉ lo… cái đói.
Tuy nhiên, nhiều nơi, đặc biệt là các vùng Công giáo vẫn có những gia
đ́nh, thậm chí là có những cơ sở không gia nhập Hợp tác xă nông nghiệp dù
bị nhiều áp lực xă hội. Chẳng hạn theo tôi được biết, ở Thái B́nh, Giám
mục Đinh Đức Trụ là người đă công khai khuyến khích giáo dân không nên vào
Hợp tác xă v́ nó chỉ là ảo tưởng. V́ vậy bà con giáo dân vẫn kiên tŕ mô
h́nh kinh tế hộ, và sau này vào thời kỳ đổi mới, đường lối đó được thực tế
chứng minh là đúng đắn. Cả đất nước sau mấy chục năm Hợp tác hóa đă chấp
nhận trở lại kinh tế cá thể.
Những hộ kinh tế cá thể không tham gia Hợp tác xă nông nghiệp, tự họ có
thể nuôi sống ḿnh mà không cần trợ giúp của nhà nước. Hơn thế, họ c̣n có
nông sản dư thừa cung cấp cho thị trường đă là minh chứng sống cho việc
khẳng định đường lối Hợp tác xă nông nghiệp là sai lầm. Điều này giúp cho
các nhà hoạch định chính sách mạnh dạn khẳng định chủ trương chấp nhận nền
kinh tế nhiều thành phần.
Thời kinh tế tập trung, mọi thứ hàng hóa đều do nhà nước quản lư và đều
chịu sự phân phối từ trung ương xuống địa phương. Trong khi nhu cầu là sự
đa dạng mà nhà nước th́ không thể quán xuyến hết nên trong một thời gian
thực thi chính sách này, nền kinh tế dần dần đi vào ngơ cụt, đời sống đói
kém, hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng. Thế nên dân gian mới có câu: “Cái
cứt ǵ cũng phân mà phân th́… như cứt”.
Khi sự đói kém bao phủ toàn xă hội th́ ở những làng công giáo, đời sống đỡ
tệ hơn nhiều. Làng Vĩnh Ḥa thuộc xă Hợp Thành, quê tôi là một làng như
vậy. Vào thời điểm đó, trong cộng đồng bà con công giáo, nền kinh tế gia
đ́nh vẫn âm thầm phát triển, đặc biệt là các nghề truyền thống. Do bị phân
biệt đối xử nên cộng đồng bà con công giáo vẫn ngầm “móc ngoặc” nhau sản
xuất hàng hóa và tiêu thụ trong cộng đồng rồi tuồn ra bên ngoài. Sau này
t́m hiểu được biết thêm, không chỉ ở làng Vĩnh Ḥa quê tôi mà cả các khu
vực khác đông đồng bào Công giáo như Phát Diệm, Bùi chu… các ngành nghề
phụ vẫn âm ỉ hoạt động và cung ứng hàng hóa cho xă hội.
Nhờ sự linh hoạt đó, nên khu vực kinh tế tư nhân mà nhà cầm quyền quyết
tâm tiêu diệt đă không chết. Đặc biệt là trong cộng đồng Công giáo. Để
rồi, khi dỡ bỏ chính sách cấm đoán đó, thành phần kinh tế này được dịp
trỗi dậy, làm sinh động của nền kinh tế.
Hiện tượng này vẫn được đảng ta gọi là: “Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và lănh đạo”
3- Tiên phong hội nhập
So với các tôn giáo khác, Công giáo là cộng đồng dân cư đa sắc tộc, đa
quốc nhất. Trải dài từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, hơn 175 nước và
vùng lănh thổ có bà con Công giáo sinh sống, nhưng tập trung một tỷ lệ lớn
nhất ở các nước phương Tây. Chính v́ sợi dây liên lạc này, nên ngay cả khi
cấm đoán đang ở vào thời điểm cao trào th́ cộng đồng Công giáo vẫn duy tŕ
liên lạc với các tín hữu của ḿnh ở ngoài biên giới quốc gia.
Những công tŕnh Công giáo nguy nga, rộng lớn dành cho việc thờ tự đă là
một nét văn hóa không thể tách rời từ lâu của nền văn hóa Việt Nam. Việc
xây dựng các công tŕnh đó đă đem đến cho Việt Nam những quan niệm ban đầu
về một lĩnh vực mới về kiến trúc và xây dựng hiện đại… thoát ra khỏi những
quan niệm xây dựng tranh tre lá nứa hoặc vôi cát từ lâu đă in sâu đậm
trong quan niệm người Việt.
Cùng với đó, những nhà truyền giáo ngoại quốc vào Việt Nam khiến nhu cầu
học tập ngôn ngữ nước ngoài cũng đă dần dần xuất hiện và cổ vũ cho sự t́m
hiểu thể giới bên ngoài bắt đầu từ những cá nhân trong chính Công giáo như
Nguyễn Trường Tộ…
Việc sinh hoạt cộng đồng đă từng bước thay đổi cách sinh hoạt truyền thống
của người Việt. Cùng kiến trúc là âm nhạc, hội họa là những môn nghệ thuật
mới tạo ra sự khác biệt trong sinh hoạt văn hóa truyền thống của người
Việt xưa. Thông qua những sinh hoạt như vậy, người Việt Nam vượt qua được
chính những định kiến, những tư tưởng cục bộ địa phương… đó được coi là
những mầm mống đầu tiên cho sự hội nhập của đất nước sau này.
Cũng cần nói thêm, cuộc di cư vĩ đại từ Bắc vào Nam năm 1954 hầu hết là bà
con Công giáo. Sau năm 75, là cuộc di tản vĩ đại sang các nước không cộng
sản, trong đó chiếm tỷ trọng lớn là bà con Công giáo. Một tỷ lệ lớn người
Việt ở Mỹ là bà con Công giáo. Họ là người có điều kiện tiếp cận với thể
chế văn minh, dân chủ phát triển ở tŕnh độ cao.
Khi nhà nước Việt Nam mở cửa, họ là những người đầu tiên về nước hoặc là
gửi ngoại tệ về giúp thân nhân ở trong nước. Cùng với đó là hàng hóa, dịch
vụ... Điều này giúp cho Việt Nam giảm căng thẳng về sự khan hiếm kéo dài
trong những năm bao cấp. Hơn thế là cách thức tổ chức làm ăn, cách thức tổ
chức đời sống và ư thức chấp hành pháp luật của một xă hội pháp quyền.
Có thể nói, cộng đồng công giáo là những người tiên phong hội nhập.
Trên đây là những cảm nhận được của riêng tôi, có thể các bạn có những
phát hiện khác, xin mời có ư kiến tham gia!
Phan Thế Hải
|