Nhớ ngày Quân Lực VNCH 19/6: Không quên những Chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa
Phan Đức Minh
(Mến tặng các chiến hữu, đồng bào và những người bạn trẻ của tôi)

Ở đây, người viết muốn vinh danh các chiến Sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa
qua những ḍng ngắn ngủi này, và nói lên một vài nét để chứng minh rằng:
nhiều kẻ, có cả những nhân vật lănh đạo quốc gia, những nhân vật… cỡ lớn
của nhiều hệ thống truyền thông Báo Chí, đă lẩm cẩm, thiếu hiểu biết,
hay cố t́nh với ác tâm, ác ư bôi nhọ Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa. Họ đă
bị ảnh hưởng mạnh mẽ của những vụ xuống đường biểu t́nh chống chiến
tranh Việt Nam của giới sinh viên Đại Học, mà cái tổ phát xuất của nó từ
Trường Đại Học Kent State Unuversity, do một Giáo Sư, cán bộ cao cấp của
Đảng Cộng Sản Mỹ hồi đó, lănh đạo, chỉ huy theo kế hoạch của Cộng Sản
Quốc Tế. Bởi v́ họ biết rằng đánh thắng Hoa Kỳ trên chiến trường Việt
Nam th́ rất khó, nhưng đánh thắng Hoa Kỳ tại Quốc Hội, trên đường phố, ở
các trường Đại Học, trên mặt trận truyền thông th́ chẳng khó bao nhiêu.
Bởi thế cho nên công cuộc lănh đạo sinh viên biểu t́nh chống chiến tranh
Việt Nam, góp phần đập tan tinh thần chiến đấu, quyết thắng của Quân Đội
Mỹ – vốn có từ xưa – trong cuộc chiến Việt Nam phải được giao cho một
Giáo Sư Đại Học có uy tín và là cán bộ cao cấp của Đảng Cộng Sản Mỹ. Sự
việc này chỉ được người ta biết đến khi vị Giáo Sư lănh đạo phong trào
sinh viên biểu t́nh chống chiến tranh Việt Nam này từ trần, có Tổng Bí
Thư Đảng Cộng Sản Mỹ lúc đó, dự tang lễ, đọc điếu văn, nêu cao thành
tích của người quá cố, đă góp công sức vào việc chấm dứt chiến tranh
Việt Nam theo đường lối, kế hoạch của “Phong trào Cách Mạng Vô Sản thế
giới”.
Nhiều người đă đánh giá toàn thể Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa qua hành
động xấu xa của một vài Sĩ Quan cao cấp đích thân, hay cho vợ con, đệ tử
lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, nhất là giai đoạn Mỹ đổ quân tác chiến
vào Việt Nam (sai lầm chiến lược) để buôn lậu, làm áp-phe tiền bạc bằng
nhiều cách. Họ đánh giá Quân Đội VNCH qua h́nh ảnh tan ră của nhiều đơn
vị quân đội vào những ngày cuối cùng của cuộc chiến, mà người chịu trách
nhiệm nhiều nhất là Ông Nguyễn Văn Thiệu, một Tướng Lănh làm Tổng Thống
kiêm Tổng Tư Lệnh Quân Đội VNCH, ra lệnh choTướng Ngô Quang Trưởng, Tư
Lệnh Quân Khu I – một Tướng Lănh từng được kể vào hàng Danh Tướng – phải
bỏ ngay Quân Khu I và Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh quân khu 2 phải bỏ
quân khu 2 vào lúc chưa đánh nhau chi cả và các đơn vị quân đội của 2
Tướng này đang sẵn sàng chờ địch tiến đánh, với tinh thần rất cao, như
họ đă từng đánh bại quân cộng sản trên lănh thổ 2 Quân Khu này. Hai
Tướng Trưởng và Phú đều biết rơ: đánh th́ chưa chắc đă chết, nhưng tự
dưng bỏ chạy tán loạn th́ cả Quân lẫn Dân sẽ chết thê thảm, kinh hoàng…
Ông Thiệu ra lệnh bỏ 2 Quân Khu này khi chưa chạm địch để làm áp lực,
ḥng lôi kéo người bạn Đồng Minh khổng lồ đang “bỏ đi hay đúng hơn:
tháo chạy “bằng mọi giá, phải quay trở lại cứu Nam Việt Nam. Nếu không,
“Tiền đồn chống cộng sản của Mỹ tại Đông Nam Á Châu sẽ sụp đổ ”…
Tại sao Ông Thiệu không nghĩ đến việc: “Hơn nửa triệu quân Mỹ tham chiến
với vũ khí tối tân nhất lúc đó, trừ vũ khí nguyên tử “mà rốt cuộc phải
‘tháo chạy’ bằng mọi giá, th́ làm sao mà quay trở lại bây giờ, trong lúc
một nửa lănh thổ Nam Việt Nam đang rối loạn, sụp đổ hăi hùng, quân cộng
sản có cả một khối cộng sản quốc tế đứng phía sau yểm trợ, thúc đẩy cộng
sản Hà Nội giải quyết chiến trường càng mau càng tốt, trong không khí
quyết chiến, quyết thắng điên cuồng, không thứ chi cản nổi…

Cảnh di
tản hỗn loạn, đau thương
Một đoạn băng trong số 150 giờ thu âm và 30 nghìn trang tài liệu
đă được Thư viện Nixon công bố, có lời của Tổng thống Nixon nói
với Cố vấn An ninh Henry A. Kissinger về Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu là: để bắt Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa ký vào văn kiện
hòa đàm, ông sẵn sàng “cắt đầu y nếu cần thiết” (cut
off his head if necessary). Bài của Shaun Tandon trên AFP thì mô tả
ông Nixon đã yêu cầu ông Kissinger nói với Tổng thống Việt Nam
Cộng Hòa rằng Quốc hội Mỹ sẽ cắt viện trợ nếu Sài Gòn không
đồng ý với kết quả hòa đàm…
Tổng Thống Mỹ Richard Nixon đă từng hứa với nhân dân Mỹ là chấm dứt
chiến tranh Việt Nam, đem quân đội Mỹ trở về trong danh dự, trả người
thân về với gia đ́nh của họ… Qua trung gian của Tổng Thống Hồi Quốc, Ông
Nixon cho Cố Vấn Henry Kissinger (một nhân vật chính trị, ngoại giao quỷ
quyệt, độc ác và tàn nhẫn ) dọn đường cho Ông Nixon gặp Mao Trạch Đông,
lănh tụ Cộng sản Trung Hoa. Họ Mao với sức mạnh của Sư Phụ, với uy thế
của ông Thầy bao nhiêu năm trợ giúp cố vấn, vũ khí chiến tranh, lương
thực… đă ra lệnh cho cộng sản Hà Nội không được chơi trội, bắt bí phái
Đoàn Mỹ tại Hội Nghị Paris, dọa đánh cho Mỹ phải chạy mà không có “Hiệp
Định ngưng bắn – Agreement of cease- fire” chi cả. Họ Mao đă cứu Ông
Nixon, nhưng Ông Nixon phải đền ơn xứng đáng:
1. Vận động để cho Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa Quốc ngồi vào cái ghế
“Hội Viên Thường Trực – Permanent Member” của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp
Quốc (với quyền Phủ quyết) cuối năm 1971, trước khi Ông Nixon gặp Họ Mao
vào đầu năm 1972, mặc dầu họ Mao đă chiếm hết lục địa Trung Hoa, thiết
lập chính quyền, cai trị cả tỉ dân từ năm 1949. C̣n Ông Quốc Dân Đảng
Trung Hoa th́ vẫn là bạn của Mỹ nhưng phải rời khỏi cái ghế đó, chạy ra
đảo Đài Loan.
2. Ông Nixon phải bằng
mọi cách, nhưng kín đáo, bán cho họ Mao những vũ khí, kỹ thuật chiến
tranh tối tân hiện đại nhất lúc đó để Trung Hoa đủ sức “đánh nhau tay
đôi” với Liên Sô khi cần, v́ Liên Sô đă kết án, và đe dọa trừng trị họ
Mao về nhiều tội:
* Bất phục tùng Trung Tâm Lănh Đạo phong trào cộng sản thế giới là Điện
Kremlin ở Moscow.
* Dám thiết lập Tư Tưởng Mao Trạch Đông, trái nghịch với Học Thuyết Marx
– Lenin, là: Thiết lập nền vô sản chuyên chính kiểu Trung Hoa: lấy Nông
Dân (đại đa số dân Trung Hoa) làm giai cấp lănh đạo, thay v́ giai cấp
Công Nhân lănh đạo, như Học Thuyết Marx-Lenin, đă được dùng làm Phương
Châm Đấu Tranh cho Phong Trào Cộng Sản Toàn Cầu.
* Muốn thống trị Á Châu bằng sức mạnh của Trung Hoa và Tư Tưởng Mao
Trạch Đông, tách ra khỏi sự lănh đạo của điện Kremlin ở Moscow. Mao
không chấp nhận “Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Quốc Tế Vô
Sản”, theo luận điểm của Lenin về khả năng tiến lên Chủ Nghĩa Xă Hội
không qua giai đoạn phát triển Tư Bản Chủ Nghĩa (Lenin’s thesis on the
possibility of advancing to Socialism by passing the stage of capitalist
development) v́ Liên Sô đă có cơ sở công nghiệp trong khi Trung Hoa chỉ
có “Con trâu đi trước cái cầy”.
Như thế mới gọi là tư tưởng Mao Trạch Đông, chớ Hồ Chí Minh, lănh tụ
cộng sản Hà Nội chỉ có biết tṛ “Đu dây” theo voi ăn bă mía cả 2 phía
Liên Sô và Trung Hoa th́ làm ǵ có cái gọi là Tư Tưởng Hồ Chí Minh như
cộng sản Hà Nội vẫn ồn ào, ba hoa về Tư Tưởng Hồ Chí Minh.
Nhiều Sĩ Quan cao cấp
của VNCH trông cảnh quân sĩ dưới quyền bị tan ră một cách thê thảm, đau
đớn, trông cảnh dân chúng cả triệu người trên đường tháo chạy, phải làm
bia lănh đạn trọng pháo, hỏa tiễn của Liên Sô và Trung cộng tiêu diệt
một cách tàn bạo, kinh hoàng, dă man mà thấy xót xa trong tim, trong
ḷng, phát điên phát khùng lên v́ sự sai lầm của ông Nguyễn Văn Thiệu.
Là Tướng Lănh, là Tổng Thống, là Tổng Tư Lệnh Quân Đội mà ông Thiệu
không hiểu rằng: Những pḥng tuyến đầu tiên bị tan ră, quân đội chưa
đánh mà bỏ chạy tán loạn cùng với hàng triệu dân chúng th́ hậu quả quân
sự, chính trị, tâm lư của Nam Việt Nam sẽ ra làm sao! Những kẻ bôi nhọ
Quân lực VN Cộng Ḥa đă cố t́nh quên đi tinh thần chiến đấu của Quân Đội
này trong dịp Tết Mậu Thân -1968. Lúc đó quân cộng sản được trang bị cá
nhân, tất cả bằng súng tiểu liên xung kích AK- 47 của Liên Sô, Tiệp
Khắc, cùng với lực lượng vơ trang của Mặt Trận Giải phóng miền Nam – do
Hà Nội lập ra cho hợp t́nh thế chính trị – lợi dụng yếu tố bất ngờ khi
phản bội thỏa hiệp ngưng bắn trong dịp Tết thiêng liêng cổ truyền của
dân tộc Việt Nam, th́nh ĺnh mở cuộc “Tổng tấn công” vào hầu hết các
thành phố, thị trấn của Nam Việt Nam. Trong khi đó Quân Đội VNCH phần
lớn chỉ được trang bị bằng súng trường bán tự động Garant M-1, Carbin
M-1 và tiểu liên loại nhẹ Carbin M-2 của quân đội Mỹ sử dụng trong thời
Đệ nhị thế chiến c̣n bỏ lại trong kho, cần thanh toán cho hết, chớ giữ
lại làm chi!...

Những
người Lính VNCH đang bảo vệ xóm làng, quê hương miền Nam Việt Nam vào
những ngày Tết Nguyên Đán 1968
V́ bất ngờ cho nên chúng đă kiểm soát được một số lănh thổ có tính cách
chiến lược tại Quân Khu 2 và Quân Khu I, đồng thời tấn công mưu toan
đánh chiếm luôn Thủ Đô Sài G̣n. Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng tại Hà Nội
ra lệnh phải giữ đất đă chiếm bằng mọi giá để đưa dân chúng Nam Việt Nam
vào một cuộc Tổng nổi dậy, cướp chính quyền. Do đó, khi chiến trường đă
được quân đội Việt Nam Cộng Ḥa giải tỏa, quân cộng sản bị đánh bại,
phải bỏ chạy, phóng viên báo chí, truyền thanh, truyền h́nh đi theo quân
đội mới thấy những xác chết của quân cộng sản bị xiềng chân vào công sự
chiến đấu, các ổ bích kích pháo, súng đại liên. Cộng sản Hà Nội không
bao giờ ngờ được rằng Quân Đội VNCH có thể đánh bật chúng ra khỏi thành
phố Huế sau một thời gian cộng sản chiếm đóng, toan tính thành lập chính
quyền tại một thành phố giáp lưng với hậu phương to lớn của chúng ở bên
kia sông Thạch Hăn, Quảng Trị, hay vĩ tuyến 17. Vậy mà cộng sản đă phải
bỏ chạy khỏi thành phố Huế trong chiến dịch lịch sử Tết Mậu Thân -1968,
chỉ kịp lùa theo chúng hàng ngàn quân sĩ, nhân viên chính quyền VNCH,
đảng phái chính trị do chúng bắt được tại Huế, để dẫn đi tàn sát, chôn
sống tập thể theo kiểu Hitler giết người Do Thái, Staline giết người Ba
Lan, nhưng ghê tởm hơn, v́ chúng giết bằng đạn AK, bằng dao găm, mă tấu,
c̣n sống cũng đạp xuống hố chôn luôn hàng chục, hàng trăm người một lúc.

Quân đội VNCH chiến đấu trong thành
phố -1968
Bốn năm sau, 1972, nắm được tinh thần “Bỏ cuộc, chạy làng” của tay “Sen
đầm quốc tế ” khổng lồ, nhưng đă quá mệt mỏi, chán chường với cuộc chiến
tranh không thể thắng ở tiền tuyến bằng súng đạn tối tân v́ nó chẳng có
mặt trận, chiến tuyến nào rơ ràng để ḿnh chủ động sử dụng “ ưu thế hỏa
lực- Superiority of firepower ” được cả. Chỉ gây chết chóc lây cho dân
chúng bao nhiêu th́ căm hận của dân nông thôn càng hừng hực bốc lên
chừng đó, qua các… đ̣n phép tuyên truyền hiểm độc của cộng sản. Trong
khi đó hậu phương tại Mỹ Quốc th́ rối loạn, nát bấy v́ biểu t́nh, phản
đối chiến tranh, đốt cờ, đốt thẻ trưng binh, Quốc Hội căi nhau như mổ ḅ
về chuyện có hay không viện trợ chiến tranh cho người bạn đồng minh để
giữ vững cái “Tiền đồn chống công ở Á Châu”. Thế là cộng sản Hà Nội lại
áp dụng bài học cũ, 18 năm về trước, đă dùng chiến thắng Điện Biên Phủ
để đánh gục người Pháp tại Ḥa Hội Geneva.
Năm 1972 cũng thế, Hà Nội tung vào miền Nam những Sư Đoàn tinh nhuệ,
thiện chiến nhất đă từng đánh tan 2 Binh Đoàn Lưu Động (Groupements
mobililes) của Pháp tại chiến trường Bắc Kạn-Lạng Sơn hồi 1950, bắt sống
2 Binh Đoàn Trưởng (Commandants de Groupements mobiles): Đại Tá Le Page
và Trung Tá Charton, đưa những Sư Đoàn lừng danh từng đánh thắng, dứt
điểm người Pháp tại chiến trường Điện Biên Phủ năm 1954 bằng những trận
đánh vũ băo theo lối “Chiến tranh quy ước -Conventional War” hẳn hoi. Hà
Nội nhắm đánh vào Quân Khu I, lănh thổ địa đầu của Nam Việt Nam, cho 15
ngàn quân của Sư Đoàn 304 tràn qua vĩ tuyến 17, dưới sự yểm trợ của pháo
binh và hỏa lực pḥng không trang bị hỏa tiễn địa-không SAM-2 của Liên
Sô, sau 3 ngày đêm dội những trận băo lửa pháo binh và hỏa tiễn. Sư Đoàn
3 Bộ Binh Việt Nam Cộng Ḥa là Sư Đoàn mới thành lập, trong đó chỉ có
Trung Đoàn 2 Bộ Binh ṇng cốt là tương đối thiện chiến, c̣n hầu hết là
tân binh, lính mới, và vị Tư Lệnh Sư Đoàn là Trung Đoàn Trưởng mới được
vinh thăng Chuẩn Tướng th́ làm sao mà chịu cho nổi sức tiến quân của
cộng sản. Tại sao Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Tư Lệnh Quân Đội
VNCH, Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, lại cho Sư Đoàn 3 Bộ
Binh mới thành lập trấn giữ cái cửa ngơ ngăn chặn quân cộng sản Bắc Việt
ngay sát vĩ tuyến 17 như thế này? Tại sao lại như vậy?
Cộng sản đánh chiếm Tỉnh
Lỵ Quảng Trị, mở đường xuống Huế rồi phối hợp với các đơn vị chính quy
Bắc Việt, xâm nhập từ đường ṃn Hồ Chí Minh, cũng như các lực lượng vũ
trang địa phương, bộ đội chủ lực của Tỉnh và Huyện, dứt luôn Quân Khu 1.
Ngoài mục tiêu quân sự, cộng sản c̣n nhắm vào những mục tiêu chính chính
trị và ngoại giao to lớn, quan trọng hơn: trong cuộc Ḥa Đàm tại Paris
để quân đội Mỹ ra đi trong danh dự, không đến nỗi bị cộng sản quốc tế và
Hà Nội đánh cho phải chạy mà không có Hiệp Định ngưng bắn chi cả.
Tỉnh Lỵ Quảng Trị bị chiếm, cộng sản cho xe tăng T-54 của Liên Sô dẫn
đầu, bộ binh và cơ giới kéo xuống Huế theo quốc lộ I, được pháo binh và
hỏa tiễn 122 ly của Trung Quốc dọn đường. Quân cộng sản tiến về Huế như
đi vào chỗ không có người. Dân chúng Quảng Trị thoát chết khi qua khỏi
“Đại lộ Kinh hoàng” tràn xuống Huế, trong khi dân chúng Huế cũng xô nhau
bỏ chạy v́ dân ở đây làm sao quên được vụ tàn sát ghê gớm với những mồ
chôn tập thể trong dịp Tết Mậu Thân – 1968! Tướng 3 sao Hoàng Xuân Lăm,
Tư Lệnh Quân Đoàn I- Quân Khu I (vị Tướng được nhiều nhân vật chính trị
cũng như quân sự trong và ngoài nước đánh giá : không thích hợp để giữ
chức vụTư Lệnh Quân Đoàn I – Quân Khu I trong giai đoạn địch quân tiến
như vũ băo thế này) hoảng hốt, không biết phải đối phó ra sao, chỉ biết
cầu cứu liên tục về Dinh Độc Lập ở Sài G̣n. Tuyến đầu bị phá vỡ th́ địch
quân sẽ thừa thắng xông lên dễ dàng với tinh thần quyết chiến, quyết
thắng. C̣n phía ta đă rút lui, tan vỡ bỏ chạy tán loạn th́ tinh thần
quân đội và dân chúng rối rắm ra sao, ai cũng biết rồi. Ai tạo nên khung
cảnh bi thảm như thế này? – Ông Nguyễn Văn Thiệu! Lịch sử phải ghi nhận
như thế và đă ghi nhận rồi!

Tướng
Ngô Quang Trưởng
Giới truyền thông ngoại quốc, nhất là ở Mỹ đă đánh giá Quân Đội và các
cấp chỉ huy của Quân Lực VNCH qua những Tướng Lănh như vậy đó! Cho tới
khi đài phát thanh loan báo: Tướng Ngô Quang Trưởng được điều động từ
Quân Khu 4 ở trong Nam ra, nắm chức Tư Lệnh Quân Đoàn I và Vùng I chiến
thuật thay thế Tướng Lăm, dân chúng đang hỗn loạn bỏ chạy khỏi thành phố
Huế th́ nhiều người đă la lên
“Tướng Ngô Quang Trưởng về làm Tư Lệnh Quân Đoàn I, bảo vệ Huế và chiếm
lại Quảng Trị th́ bà con không có chạy đi đâu nữa cả!” Ḷng dân tin
tưởng mănh liệt là thế! Tướng Ngô Quang Trưởng xuất thân Khóa 4 Sĩ Quan
Trừ Bị Thủ Đức, gốc binh chủng “Thiên thần mũ đỏ nhẩy dù”, nhưng lúc này
đă mang lon 3 sao v́ những chiến công ngoài mặt trận, và luôn luôn ḥa
đồng với các Sư đoàn Bộ binh dưới quyền. Tướng Trưởng luôn mặc quân phục
tác chiến của Bộ Binh, thay v́ quân phục Nhẩy Dù. Có lẽ Tướng Trưởng
nghĩ rằng: Bộ áo không làm thành Thầy Tu. Tướng giỏi không cần phô
trương bên ngoài mà cần phải đánh thắng trên trận địa và được ḷng kính
phục của quân sĩ. Tướng Ngô Quang Trưởng về Huế, chỉnh đốn lại quân ngũ,
tái phối trí lực lượng, kêu gọi dân chúng an tâm, xin tăng phái lực
lượng Tổng trừ Bị: Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến từ Sài G̣n bay ra. Thế
rồi trước sân cờ Phú Văn Lâu, Cổ Thành Huế, Ông đă thề trước ba quân “Sẽ
chiếm lại thành phố Quảng Trị trong thời gian ngắn nhất” như thời Nhà
Trần, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, khi ra quân đă cầm gươm chỉ xuống
sông Bạch Đằng mà thề trước Tướng Sĩ: “Nếu phen này không phá tan được
quân Mông Cổ th́ ta sẽ không c̣n trông thấy con sông này nữa!” Lịch Sử
dân tộc Việt Nam, làm sao quên được những giờ phút bi hùng và oanh liệt
như thế! Dưới quyền Tư Lệnh của Danh Tướng Ngô Quang Trưởng, Quân Đội
Việt Nam Cộng Ḥa đă anh dũng chiến đấu, chặn đứng những Sư Đoàn thiện
chiến, lẫy lừng nhất của cộng sản Hà Nội, trước sự ngỡ ngàng của dư luận
trong và ngoài nước. Cổ Thành Quảng trị đă được chiếm lại. Quân cộng sản
đành tháo chạy trở ngược về bên kia vĩ tuyến 17, giống như năm 1953,
Danh Tướng MacActhur của Hoa Kỳ đă phản công, đánh bật quân cộng sản Bắc
Hàn ra khỏi những vùng chiếm đóng trên lănh thổ Nam Hàn, bỏ chạy bán
sống bán chết trở ngược về phía Bắc vĩ tuyến 38… Tướng Ngô Quang Trưởng
và quân sĩ của Ông đă bảo vệ được Huế, chiếm lại cổ thành Quảng Trị đúng
như lời thề trước sân cờ Phú Văn Lâu bữa nào. Đó! Tinh thần chiến đấu
của Quân Đội VNCH là như thế đấy! Tướng Lănh của Quân Đội VNCH có những
người như thế đó! Tờ báo Time, Tạp Chí cỡ lớn của Hoa Kỳ, tôi có trong
tay hàng tuần, một lần đă đăng những ḍng cảm nghĩ của Đại Tướng 4 sao
Hoa Kỳ, Norman Schwarzkopf, Tư Lệnh Chiến Dịch ” Băo Sa mạc – Desert
storms ” chinh phạt hung thần Saddam Hussein của xứ Iraq, xâm lăng
Kuwait, đầu thập niên 1990, đại ư như sau: “Hồi c̣n chiến đấu ở Khe Sanh
thuộc lănh thổ Quân Khu I Việt Nam Cộng Ḥa, với tư cách là 1 Trung Tá
Tiểu Đoàn Trưởng Nhẩy Dù của Hoa Kỳ, tôi đă học được ở Trung Tướng Ngô
Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Khu I – VNCH rất nhiều kinh nghiệm quư báu
trong nghệ thuật chỉ huy cũng như tác chiến… Những kinh nghiệm đó đă
giúp tôi rất nhiều, ngay cả mấy chục năm sau, trong “Chiến thắng Băo Sa
Mạc – Desert Storms’ Victory”. Nhiều nhân vật chính trị, truyền thông
tại sao không biết những điều này khi nói về Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa?
Chẳng lẽ nào họ… không đủ khả năng, tŕnh độ để hiểu biết, hay mang đầy
ác ư trong đầu?!

Quân
Lực VN Cộng Ḥa tái chiếm cổ thành Quảng Trị
Rồi đến chiến trường An
Lộc, Tỉnh B́nh Long. Ở Ḥa Hội Paris, Lê Đức Thọ và Xuân Thủy, Ủy Viên
Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng cộng sản, ra mặt lấn áp Ngoại Trưởng Hoa Kỳ
Henry Kissinger trong các buổi mật đàm qua thế mạnh của quân cộng sản
tại Miền Nam, trong khi Hoa Kỳ muốn rút chân cho mau Khỏi “Vũng lầy kinh
khủng” này. Đại Tướng cộng sản Vơ Nguyên Giáp, người hùng Điện Biên Phủ,
Bộ Trưởng Quốc Pḥng của cộng sản đă tuyên bố trên đài phát thanh Hà Nội
“Nhân dân Việt Nam đă đánh gục 3 đời Tổng Thống Hoa Kỳ, và sẽ đập
tan chính quyền Nixon bằng 1 cuộc chiến thắng hoàn toàn – Defense
Minister Vo Nguyen Giap says that the people of Vietnam have defeated 3
U.S. Administrations and are about to complete victory over President
Nixon…” Với cái khí thế như vậy, xe tăng T-54 của cộng sản đă tràn
ngập, làm chủ t́nh h́nh thị xă An Lộc, dẫn theo sau những đơn vị bộ binh
thiện chiến, danh tiếng nhất của cộng sản Hà Nội, sau khi những trận băo
lửa pháo binh đă quét dọn sạch sẽ, không để lại những ǵ có thể sống
sót.

T-54 của
CSBV tại thị xă An Lộc
Các chiến sĩ Sư Đoàn 5 Bộ Binh VNCH cùng 1 số đơn vị bạn c̣n lại của địa
phương B́nh Long đă chiến đấu vô cùng anh dũng, ác liệt, giữ từng tấc
đất, từng góc phố, ngơ hẻm để có chỗ đứng hay nằm mà chiến đấu v́ ngưng
chiến đấu tức là chết. Mặt trận An Lộc làm rung động thế giới, làm rối
loạn không khí ḥa đàm tại Paris vốn đă nghiêng hẳn thế thuận lợi về
phía cộng sản. Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh cũng như Hà Nội muốn An Lộc phải
thất thủ kinh hoàng như Điện Biên Phủ ngày nào. Những tay cá độ quốc tế
đă dám đánh 100 ăn 1 là An Lộc sẽ thất thủ để cho cộng sản tiến quân về
Sài G̣n, đập tan chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ngay trong năm 1972. Tướng
3 sao (Général de Division) Vanuxem của Pháp, Tư Lệnh quân đội Pháp tại
Bắc Phi, người đă từng giữ chức vụ “Commandant de la Zône Sud du Nord
Vietnam – Tư lệnh Quân Khu tả Ngạn Sông Hồng Hà ” thời kỳ Điện Biên Phủ
thất thủ tại Việt Nam -1954 , khi trả lời phỏng vấn của báo chí, truyền
thanh, truyền h́nh, đă nói: “Quân Đội VNCH không thể nào giữ nổi
An-Lộc!” Có lẽ Tướng Vanuxem chưa quên được cảnh pháo binh cộng sản bất
ngờ hiện diện tại các đỉnh đồi chung quanh ḷng chảo Điện Biên Phủ (do
trâu, voi, người kéo lên, dân công khiêng vác từng bộ phận) dội như mưa
băo suốt ngày đêm, làm tê liệt hoàn toàn các giàn trọng pháo hùng hậu
của Pháp cho đến nỗi Đại Tá Pirotti, chỉ huy trưởng pháo binh của Pháp
tại chiến trường này quá thất vọng và khủng khiếp, phải mở chốt lựu đạn
mà tự sát. Có lẽ Tướng Vanuxem chưa quên được cái cảnh những Sư đoàn
cộng sản cuồng tín, đông như kiến cỏ, theo chiến thuật “Biển Người” của
Thống Chế Lâm Bưu, Nguyên soái Hồng quân Trung Cộng, tràn qua các băi
ḿn, đạp nát các công sự pḥng thủ, các hàng rào kẽm gai chằng chịt,
tràn xuống các giao thông hào, đạp lên xác chết của lính Pháp, Bắc Phi
và cả quân cộng sản, phối hợp với quân cộng sản từ dưới đất chui lên từ
các đường hầm đă được máy móc, cơ giới của Trung Cộng đào bới ngày đêm
trong lúc pháo binh hỏa tiễn Trung Cộng liên tục nổ rầm trời. Chắc Tướng
Vanuxem liên tưởng đến cái cảnh Tư Lệnh chiến trường Điện Biên Phủ,
Tướng De Castries, mặt mũi hốc hác, bị quân cộng sản bắt sống ngay tại
căn hầm Chỉ huy, cùng với toàn thể Sĩ Quan Bộ Tham Mưu của Ông để rồi
chiến tranh Việt-Pháp kể như chấm dứt từ chỗ này, mà phần thất bại tất
nhiên thuộc về phía người Pháp. Tướng Vanuxem tin chắc là Quân Đội Việt
Nam Cộng Ḥa không thể nào giữ nổi An Lộc một khi Hà Nội đă quyết định
biến An Lộc thành một thứ Điện Biên Phủ thứ 2 ,để giành thế chủ động
trên bàn Hội Nghị tại Paris, một khi cộng sản Hà Nội có Liên Sô và Trung
Cộng đứng sau lưng, nhất định bắt người Mỹ phải “nhắm mắt lại mà kư vào
Hiệp Định Paris” như cộng sản đă bắt người Pháp phải làm như thế ở Hội
nghị Geneva 1954. An Lộc đă bị thế giới coi như đă bị mất vào tay cộng
sản. Thế mà, khi Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù, hợp lực với Biệt Động Quân
và 1 số đơn vị Bộ Binh VNCH kéo tới đánh những trận phản công sấm chớp,
lở đất long trời th́ xe tăng T-54 Sô Viết, cũng như Bộ Binh cộng sản
từng làm mưa làm gió trước đó trên vùng đất An Lộc tan hoang, trơ trụi,
đành phải mở đường máu mà tháo chạy mặc dù lệnh của Hà Nội: phải giữ An
Lộc đă chiếm bằng mọi giá. An Lộc vẫn c̣n đó, không thất thủ như Điện
Biên Phủ năm 1954. Cả thế giới kinh ngạc. Tướng 3 sao của Pháp Vanuxem
cùng dân cá độ quốc tế đă thua đậm trong keo này. Tướng Nguyễn Văn
Thiệu, Tổng Thống Đệ Nhị Việt Nam Cộng Ḥa, bỗng dưng có được giờ phút
vinh quang và oai hùng nhất trong cuộc đời binh nghiệp cũng như chính
trị của ông: đáp trực thăng xuống ngay chiến trường An Lộc giữa tiếng
hoan hô vang dậy không ngớt của của các chiến sĩ VN Cộng Ḥa vừa chiếm
lại An Lộc, gần như đă bị cộng sản kiểm soát hoàn toàn, trong khi tiếng
đại bác của 2 bên, tiếng hỏa tiễn 122 ly của Trung Cộng vẫn c̣n nổ vang
quanh vùng, và An Lộc vẫn c̣n mù mịt, khét lẹt mùi lửa đạn…



tại
chiến trường An Lộc – 1972
Đó! Tinh thần chiến đấu của Quân Đội VN Cộng Ḥa là như thế đấy! Và c̣n
biết bao nhiêu trận đánh lẫy lừng khác trên khắp 4 Vùng Chiến Thuật. Một
bài báo có hạn, làm sao kể hết! Năm 1975, Cộng sản đánh chiếm Ban Mê
Thuột, cũng chẳng khác ǵ cộng sản đánh chiếm Huế năm 1968, đánh chiếm
Quảng Trị, kiểm soát An Lộc năm 1972 bao nhiêu. Vậy th́ khi Ban Mê Thuột
mới rơi vào tay giặc trong sự bất ngờ, tại sao Ông Thiệu lại hạ lệnh cho
Tướng Phạm Văn Phú phải bỏ ngay Quân Khu 2, cho Tướng Ngô Quang Trưởng
phải bỏ Quân Khu I, trong khi hai Tướng Tư Lệnh này đang có trong tay 6
Sư Đoàn Bộ Binh, hầu hết đều thiện chiến, chưa kể đến các Liên Đoàn Biệt
Động Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh, mấy chục Tiểu Đoàn Địa Phương Quân,
bao nhiêu là đơn vị yểm trợ chiến đấu, đó là chưa kể đến hỏa lực yểm trợ
của Hải Quân, Không Quân, lực lượng Tổng trừ Bị của Nhẩy Dù và Thủy Quân
Lục Chiến, tất cả đều đang sẵn sàng chiến đấu v́ chỉ có chiến đấu hay là
chết mà thôi. Ông Thiệu hạ lệnh rút bỏ 2 Quân Khu cửa ngơ, địa đầu của
Nam Việt Nam như vậy để làm ǵ? – Có nhận lệnh từ đâu không? Hay chỉ quá
kinh hoàng trước thái độ “tháo chạy” của phía Hoa Kỳ, mà quyết định vội
vă để tạo nên t́nh trạng… cũng tháo chạy một cách hoảng loạn, khiến cho
Lính cũng chết mà Dân cũng chết luôn trong cái thế…để cho cộng sản tàn
sát Quân – Dân Việt Nam Cộng Ḥa một cách thê thảm, nhục nhă chưa từng
thấy… Điều đó đă tạo nên một sự tan ră, hỗn loạn của cả một lực lượng
Quân Đội to lớn, hùng mạnh như nói ở trên, trong khi tất cả đang sẵn
sàng chiến đấu, chiến đấu để sống c̣n. Sự tan ră hỗn loạn này kéo theo
sự hỗn loạn tràn ngập của hàng triệu dân chúng đổ vào Quân Khu 3, bao
quanh Thủ Đô Sài G̣n. Trong t́nh thế đó th́ Quân Khu 3 c̣n đánh đấm ǵ
được nữa? Quân Cộng sản chẳng cần đánh, mà cứ như đi vào chỗ không có
người. Nên nhớ rằng, khi gặp sự quyết chiến của Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH,
với sự tăng cường của một số đơn vị bạn, mà Bộ Tư Lệnh Hành Quân của
Tướng cộng sản Văn Tiến Dũng đă phải tung ra 2 Sư Đoàn thiện chiến để
ḥng lấy số đông và nhân đà thắng lợi, đánh tan Sư Đoàn 18 Bộ Binh, dưới
sự chỉ huy của Tướng trẻ Lê Minh Đảo, nhưng không thắng nổi. Sau cùng
Văn Tiến Dũng phải tung thêm 2 Sư Đoàn nữa vào mặt trận này, là 4 Sư
Đoàn tất cả, lấy 4 đánh 1, trong thế thuận lợi về quân sự cũng như tinh
thần quân sĩ đang lên. Vậy mà Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH chỉ chịu rời bỏ
trận tuyến khi có lệnh của Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn 3 kiêm Vùng 3 Chiến
Thuật. Vị Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn 3 của VN Cộng Ḥa không muốn trông
thấy Sư Đoàn 18 Bộ Binh VNCH anh dũng, kiên cường bị tiêu diệt trước thế
trận bất quân b́nh, địch đông gấp 4 và có thể tăng gấp 5, gấp 6 nếu cần,
vũ khí đạn được, xe tăng, pháo binh được cộng sản quốc tế đổ vào như mưa
băo, quyết đánh chiếm Sài G̣n như đă định. Tướng Homer Smith, Tùy Viên
Quốc Pḥng Mỹ tại Sài G̣n, ngày 13-4-75, đă gửi 1 điện văn cho Tướng
George S. Brown, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu Hoa Kỳ tại Hoa Thịnh
Đốn, ca ngợi ư chí và tinh thần chiến đấu dũng cảm tuyệt vời của Quân
Đội Việt Nam Cộng Ḥa dù những bất lợi đang đè nặng trên vai họ. Sau 5
ngày theo dơi cuộc chiến An Lộc, Tướng Smith đă nói:
“Sự chiến đấu anh hùng và dũng cảm của quân đội Nam Việt Nam… kể cả Địa
Phương Quân Tỉnh Long Khánh, đă cho người ta thấy rơ tinh thần và khả
năng chiến đấu của những người lính VN Cộng Ḥa này giỏi hơn đối phương
của họ rất nhiều…” . Trong lúc đó tại Quân Khu 4, ở miền Tây, Tướng
Tư Lệnh Nguyễn Khoa Nam, một Tướng giỏi, với Tướng Tư Lệnh Phó Lê Văn
Hưng, người hùng tử thủ An Lộc mấy năm trước, có trong tay 3 Sư Đoàn Bộ
Binh thiện chiến và các lực lượng Biệt Động Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh,
Địa phương quân yểm trợ chiến đấu hùng hậu, tinh thần rất cao, sẵn sàng
chờ địch tiến đánh Quân khu này…
Khi Tổng Thống… cà chớn Dương Văn Minh, với tư cách Tổng Tư Lệnh lúc đó,
bị chỉ huy trực tiếp bởi Sư Phụ Thích Trí Quang và ngay cả từ Hà Nội qua
trung gian của người em ruột Dương Văn Minh là Sĩ quan cao cấp cộng sản
Dương Văn Nhựt (đă liên lạc với Dương Văn Minh từ hồi 1956) hạ lệnh cho
Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa buông súng đầu hàng cộng sản vô điều kiện, để
bàn giao cho cộng sản, hi vọng kiếm cho bản thân và bè lũ, phe phái, chỗ
đứng chỗ ngồi mà cộng sản sẽ dành cho trong chính quyền “Cách Mạng giải
phóng”, th́ Tướng Nguyễn Khoa Nam đă họp các Sĩ Quan có trách nhiệm chỉ
huy dưới quyền, và ra lệnh: anh em tùy nghi lo liệu về phần ḿnh, trước
t́nh thế chúng ta bị bắt buộc phải đầu hàng. Kế hoạch chiến đấu để tự
cứu ḿnh và bảo vệ vùng lănh thổ trách nhiệm của chúng ta đă không thi
hành được như anh em đă biết… Sau đó, Tướng Nguyễn Khoa Nam, trong bộ
quân phục tác chiến, mũ sắt 2 lớp, đă vào Văn Pḥng Tư Lệnh, ngồi xuống
ghế của ḿnh, chắc lả để nh́n lại lần cuối tấm bản đồ Tổ Quốc trên
tường, nh́n lá cờ nhỏ nền đỏ với 2 ngôi sao trắng, tượng trưng cho uy
quyền của một Tướng Lănh chỉ huy, để trên bàn rồi rút súng bắn vào đầu
tự sát. Chắc chắn là trước khi bóp c̣ cho viên đạn xuyên qua đầu, vị
Tướng đáng kính phục này đă nói những ǵ với Tổ Quốc, với đồng bào, với
chiến hữu của ông….
Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn, anh hùng tử thủ An Lộc mấy năm
trước, trở về căn cứ chỉ huy phụ, nói với người vợ thân yêu
“Em ở lại nuôi con, anh phải ra đi v́ thân làm Tướng không thể sống nhục
như thế này…” Người vợ thân yêu nói với ông “Anh Hưng! Cho em
chết theo với! Tất cả chúng ta và các con cùng chết với nhau!” th́
Tướng Hưng đă thuyết phục người vợ: “Không được! Cha Mẹ không có
quyền giết con. Em phải sống để nuôi dạy con nên người để trả thù nhà và
cùng với thế hệ mai sau lấy lại Đất Nước này! Em phải sống, dù phải chấp
nhận hi sinh, khó khăn, gian khổ.” Người vợ thương yêu và can
trường của vị Tướng anh hùng này nói trong nước mắt: “Em nghe lời
ḿnh với hai điều kiện: Nếu cộng sản bắt em phải xa ĺa các con hay
chúng làm nhục em th́ em có quyền tự sát!” Tướng Hưng bằng ḷng,
nắm lấy tay vợ rồi chào từ biệt vợ con cùng một vài Sĩ quan, Binh sĩ đă
có mặt từ trước tại đây để dự định liên lạc với các đơn vị thi hành kế
hoạch chiến đấu cứu ḿnh, cứu Quân Khu 4, của hai Tướng Nam và Hưng, rồi
vào pḥng riêng, gạt đi lời yêu cầu của người vợ xin được chứng kiến tận
mắt sự ra đi của chồng. Tướng Hưng đóng cửa lại, và 1 phát súng nổ…
Tướng Lê Văn Hưng đă ra đi vĩnh viễn cùng với Tướng Tư Lệnh Nguyễn Khoa
Nam, để lại cho Lịch Sử dân tộc Việt Nam những tấm gương bất khuất sáng
ngời, như những tấm gương bất khuất của Cha Ông ngày trước, của những
thời đại Lư Thường Kiệt phá quân ngoại xâm Nhà Tống, Hưng Đạo Vương Trần
Quốc Tuấn đại phá quân Mông Cổ v.v… Hai Tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn
Hưng đă cùng một số Tướng Lănh khác như Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê
Nguyên Vỹ và nhiều Sĩ Quan cao cấp khác của Quân Đội Việt Nam Cộng Ḥa
đă chết theo vận nước. Các Ông không muốn bị bắt làm tù binh hay đầu
hàng giặc để lại ô danh cho hậu thế. Các ông cũng không muốn bỏ quân mà
chạy lấy thân để rồi ra nước ngoài, mang theo tiền bạc ăn cắp của Quân
Đội, của Quốc Gia, làm giầu bất chính trên xương máu của chiến sĩ như
một số Tướng Lănh hèn hạ khác. Quân đội của quốc gia nào có những Tướng
Lănh anh hùng và can đảm như thế hay không? Một số Sĩ Quan cao cấp, cả
những cựu quân nhân b́nh thường của Hoa Kỳ, từng tham chiến tại Việt
Nam, không muốn dư luận cũng coi ḿnh như những kẻ khác không biết ǵ về
cuộc chiến Việt Nam, cuộc chiến kỳ lạ này, về sau đă lên tiếng trên các
phương tiện truyền thông đa dạng ngày nay, nói ra sự thật là: Quân Đội
Việt Nam Cộng Ḥa, nói chung, đă chiến đấu rất anh dũng và kiên cường,
mặc dầu họ luôn luôn phải chiến đấu trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu
thốn, không được chiến đấu trong những điều kiện đầy đủ, dễ dàng như
quân đội Hoa Kỳ chúng ta tại Việt Nam. Đúng như thế! Họ c̣n nêu rơ những
điều cần thiết để cho dư luận hiểu cuộc chiến một cách đơn giản nhưng rơ
ràng đúng với tinh thần trong sáng, ngay thẳng, minh bạch của những quân
nhân của đất nước Hoa Kỳ luôn được coi là vĩ đại trong con mắt của thế
giới loài người:
* Quân Đội Hoa Kỳ chỉ
chiến đấu khi nắm chắc được yếu tố “Vượt trội về hỏa lực – Superiority
of Firepower ”. Quân đội VNCH phải chiến đấu trong mọi trường hợp cần
thiết.
* Quân đội Hoa Kỳ chỉ chiến đấu tại Việt Nam trong thời gian ngắn hạn
rồi thay nhau về nước. Như thế không bị dồn vào cái thế mệt mỏi căng
thẳng quá độ, thường trực về thể chất cũng như tinh thần. C̣n Quân dội
VNCH th́ ngược lại, phải chiến đấu liên tục, không ngưng nghỉ. Sức chịu
đựng của người chiến binh VNCH nó khủng khiếp đến thế nào?
* Trong khi chiến đấu cũng như lúc đóng quân trong đồn lũy, người chiến
binh Hoa Kỳ luôn luôn được bảo vệ bằng những phương tiện chiến tranh dồi
dào, tối tân, hiện đại nhất, cả về tấn công, pḥng thủ cũng như yểm trợ.
C̣n người chiến binh VNCH làm sao có được như vậy! Cái mạng sống của
người chiến binh Việt Nam cũng vô cùng mỏng manh, hay nói rơ hơn là dễ
chết lắm..
* Điểm nữa, cũng ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần, thể chất, tâm lư của
người chiến binh Việt Nam là: trong khi ḿnh xả thân chiến đấu bảo vệ
đất nước, bảo vệ mạng sống của chính ḿnh th́ lúc đó gia đ́nh, những
người thân yêu phải sống ra sao? Liệu có đang kẹt trong vùng lửa đạn,
chết chóc hay không? Về điểm này, người chiến binh Hoa Kỳ khỏe hơn là
cái chắc, tinh thần ổn định, thoải mái hơn rơ ràng.
Bây giờ, nếu đặt người chiến binh của các cường quốc Âu-Mỹ vào vị trí,
hoàn cảnh chiến đấu khó khăn, thiếu thốn, khắc nghiệt của người chiến
binh Việt Nam Cộng Ḥa, thử hỏi liệu những người chiến binh ấy có thể
chiến đấu được như người chiến binh Việt Nam Cộng Ḥa hay không? Chịu
được bao lâu? Chính Phủ, Quốc Hội và Nhân Dân các quốc gia đó chịu được
mấy tháng, mấy năm?
Câu trả lời xin dành cho những nhà viết sử chân chính, cho những Sĩ Quan
và Quân Nhân Hoa Kỳ từng chiến đấu anh dũng, can trường bên cạnh những
người bạn chiến binh Việt Nam Cộng Ḥa của họ từ các chiến trường Khe
Sanh, Đác-Tô, Pleiku, Kontum, Đồng Xoài, B́nh Giả, Củ Chi, cho đến các
chiến trường vùng đồng bằng sông Cửu Long, điểm tận cùng của Đất Nước
Việt Nam…

San Diego – California
Phan Đức Minh