Bài Viết của Phu Nhân Tướng Lê Văn Hưng gửi cho Nguyễn Cao Kỳ Duyên nhân
dịp 30 tháng Tư 2010.
“Tôi chuyển đến cô bài viết này nhân dịp 30 tháng 4, 2010. Cô hăy đọc và
xin cô chuyển đến ba cô, cựu Thiếu Tướng Nguyễn cao Kỳ Phó TT VNCH như
là một lời trần t́nh của một công dân VNCH gửi đến vị cựu Phó TT VNCH
qua lời phát biểu của ông rằng: "Từ TT Nguyễn văn Thiệu trở xuống đều
ham sống sợ chết". Nếu nhận được hồi âm của cô hay ba cô th́ tốt quá. V́
không có địa chỉ email của ba cô, mong cô giúp tôi.
Cám ơn cô.
***
Tiếc, Thương, Cảm Phục, Yêu Kính...
Tưởng Niệm Những Anh Hùng trọng Tiết Tháo Chiến Sĩ...
Bà Lê Văn Hưng, nhũ danh Phạm Thị Kim Hoàng.
Từ chàng ra đi lưng khoác chiến y, và hồn nương bóng quốc kỳ
Nàng ngừng con thoi có khi nhớ chàng.
Có muốn ǵ đâu! Lệ thắm tơ vàng.
Chàng ngồi trên yên mơ bóng dáng em mịt mù sau đám khói tên.
Bâng khuâng mắt nh́n tay kiếm.
Không sao dấu đôi lệ hiền….
(Chinh phụ ca – Phạm Duy)
Ngày 21/4/1975, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại
cho cụ Trần Văn Hương, tôi c̣n nhớ rơ lời ôngThiệu nói: “Mất một Tổng
Thống Nguyễn văn Thiệu, quân đội c̣n Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng
bào c̣n một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bên
anh em chiến sĩ”. Lời tuyên bố của ông Thiệu đă gây cho tôi sự xúc động.
Thế rồi lời tuyên bố ấy cũng đă bay theo gió, khi số lớn cấp chỉ huy
trực tiếp điều hành guồng máy quốc gia đă vỗ cánh chim bay sang ngoại
quốc, t́m nơi ẩn trốn an lành, bỏ mặc quê nhà, dân tộc và quân đội đang
chết đuối trong cuồng phong súng đạn tơi bời, Thiếu Tướng Nam, Hưng,
Hai, Vỹ, Phú. Nhắc đến đây tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào. Ôi
tiếng súng nổ rền vang trên khắp lănh thổ. Mùa hè năm 1972, nhà văn Phan
Nhật Nam đă mệnh danh là mùa hè đỏ lửa. Mùa hè máu. Mùa hè cuối đầy yêu
đương. Mùa hè tận cùng vực thẳm. C̣n mùa hè 30/4/1975 bi thương thê thảm
ngần nào? Chúng ta c̣n đủ ngôn từ để diễn tả tận cùng nỗithương tâm kinh
hoàng của sinh ly, từ biệt, cuống cuồng ấy không? Tin thất trận từ các
Vùng 1,2,3 bay về dồn dập. Có những nơi chưa đánh đă bỏ cho địch tràn
vào. Cũng có nơi quyết liều tử chiến. Thảm thương thay, cuộc rút quân
hỗn loạn bi đát chưa từng có trong lịch sử và quân sử. Đài VOA và BBC
tuyên bố những tin thất bại nặng nề về phía QLVNCH khiến ḷng dân càng
thêm khiếp đảm. Những đoàn quân thất trận, tả tơi manh giáp, không người
chỉ huy, cuống quưt chạy như đàn vịt bị săn đuổi. Tinh thần binh sĩ rối
loạn hoang mang tột độ. Họ th́ thào bảo nhau:
- “Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Đại Tướng Viên đă cao bay xa chạy,
c̣n đánh đấm ǵ nữa. Ông Tướng này, ông Tỉnh nọ, đă trốn đi ngoại quốc,
chúng ta c̣n đánh làm ǵ”. Họ c̣n hỏi nhau: - “Bao nhiêu năm chúng ta
chiến đấu cho tổ quốc, hay chiếnđấu cho tập đoàn tham nhũng? Hay cho cá
nhân của ai đây?”
Mất người chỉ huy, những quân nhân như rắn không đầu, rối rít, tan ră.
Lại có những câu hỏi: - “Quân không Tướng chỉ huy th́ sao?” Có những kẻ
chủ tâm dè bỉu, thường chỉ trích chê bai:
- “Có những ông Tướng mà biết đánh giặc cái ǵ! Chỉ có lính đánh để các
ông Tướng hưởng”. Lời phê b́nh của những kẻ bất măn hay những kẻ có tâm
địa hạn hẹp, thật chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng. Cho dù có những vị
Tướng bê bối, làm cho quân đội bị nhục, th́ cũng có những vị Tướng trong
sạch đức độ, lỗi lạc, tài ba, đáng cho dân quân khâm phục. Những phần tử
bất măn ấy đă vô t́nh hay cố ư không thấy việc tối quan hệ của sự hỗ
tương, hỗ trợ, giữa các Tướng Lănh, Sĩ Quan, và Binh Sĩ thật cần thiết
cho quân đội và quốc gia như thế nào. Đối với những vị cao minh, hiểu
biết giá trị hy sinh của những người tuẫn tiết, tôi trang trọng cúi đầu
cảm tạ, tri ân. Có nhiều người đă nêu lên câu hỏi với tôi:
- “Tại sao Tướng Nam, Tướng Hưng chết làm chi cho uổng?
Tại sao các ông Tướng ấy không tiếp tục chiến đấu? Tại sao các ông không
trốn sang ngoại quốc?” Lại có người nghiêm khắc trách tôi:
- “Bà thật dở. Nếu là tôi, tôi quyết liệt can ngăn không để cho các ông
ấy chết. Vợ con như thế này, ông Hưng chết đành bỏ vợ con lại sao?” Ngay
cả vài vị phu nhân của các Tướng Lănh, hoặc c̣n ở trong tù, hoặc đă an
nhàn nơi xứ người, cũng thốt ra những lời chỉ trích tôi. Nghe những lời
phê b́nh ấy, tim tôi đau nhói.
Tôi tôn trọng sự nhận xét “theo tầm hiểu biết của họ”. Tôi ngán ngẩm
không trả lời, chỉ mỉm cười lắc đầu. Nhưng hôm nay tôi phải lên tiếng.
Lên tiếng để tạ ân những người đang âm thầm chiến đấu ở Việt Nam, để tạ
ân những người hùng can đảm đă, đang, và sẽ tiếp tục đánh đuổi Cộng Sản
cứu quê hương, để trả lời những người đă nêu lên nhiều câu hỏi đó. Tôi
trân trọng xin những vị nào đă có những lời chỉ trích nên b́nh tâm suy
nghĩ lại, trước khi phán đoán v́… những vị Tướng Lănh bách chiến bách
thắng lại lẽ nào chịu xuôi tay nhục nhă trước nghịch cảnh, trước kẻ thù?
Những vị Tướng đă từng xông pha trong mưa đạn, bao lần thử thách với tử
thần, với nhiều chiến công từ cấp bậc nhỏ lên tới hàng Tướng Lănh, đă
từng khắc phục gian nguy, xoay ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng trên
khắp mặt trận, lẽ nào những vị Tướng ấy chỉ nghe hai tiếng “buông súng”
rồi giản dị xuôi tay tự sát hay sao?
Viết đến đây tôi mạn phép nêu lên câu hỏi: Thưa toàn thể quư vị sĩ quan
QLVNCH. Ngày quư vị nhận lănh chiếc mũ sĩ quan của trường Vơ Bị, quư vị
c̣n nhớ sáu chữ ǵ trên chiếc mũ ấy không? Sáu chữ mà quư vị trịnh trọng
đội lên đầu là: “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”. Ngày măn khóa sĩ quan
với những lời tuyên thệ, quư vị hẳn nhớ? Cũng như những điều tâm niệm ai
lại chẳng thuộc ḷng? Những vị bỏ nước ra đi trước binh biến, những vị ở
lại bị sắp hàng vào trại tù Cộng Sản, tôi xin tạ lỗi, v́ thật t́nh tôi
không dám có lời phê phán nào. Tôi chỉ muốn nói lên tất cả sự thật về
cái chết của hai vị Tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng. Hai vị Tướng
này đă ba lần từ chối lời mời di tản sang ngoại quốc của viên cố vấn Mỹ,
cương quyết ở lại tử chiến, bảo vệ mảnh đất Vùng 4.Viên cố vấn Mỹ hối
thúc, đợi chờ không được, sau cùng chánnản và buồn bă bỏ đi.Trước đó,
vào ngày 29/4/1975, lời tuyên bố của Vũ Văn Mẫuvà Dương Văn Minh trên
đài phát thanh Sàig̣n ra lệnh tất cả người Mỹ phải rời Việt Nam trong
ṿng 24 tiếng đồng hồ, th́ chính là lúc “kế hoạch hành quân mật của hai
Tướng Nam, Hưng đă hoàn tất.”Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người thay thế Tướng
Vĩnh Lộc vào những ngày giờ cuối tới tấp điện thoại về Cần Thơ. Ông Hạnh
đă dùng t́nh cảm chiến hữu, dùng nghĩa đàn anh thân thuộc, khẩn khoản
yêu cầu Tướng Hưng về hợp tác với Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh.
Thâm tâm có lẽ ông Hạnh lúc đó muốn đ̣ xét thái độ của hai Tướng Vùng 4
như thế nào. Nhiều lần, qua cuộc điện đàm với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh,
Tướng Hưng đă luôn khẳng định: - “Không hợp tác với Dương Văn Minh.
Không đầu hàng Cộng Sản. Tử chiến đến cùng”. Khi Tổng Thống Thiệu từ
chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, và rồi v́ hoàn cảnh đắm ch́m
của vận mệnh đất nước, trước nhiều áp lực nên cụ Hương đă trao quyền lại
cho Dương Văn Minh, để rồi “ông Tướng hai lần làm đổ nát quê hương, ố
hoen lịch sử này, hạ ḿnh kư tên dâng nước Việt Nam cho Cộng Sản.” Vị
Tướng Lănh trấn thủ một vùng, tùy hoàn cảnh đất nước, và t́nh h́nh chiến
sự địa phương, trọn quyền quyết định, xoay chuyển thế cờ, không cần phải
tuân lệnh một cách máy móc theo cấp chỉ huy đầu năo đă trốn hết, th́ c̣n
chờ lịnh ai? Phải tuân lịnh ai? Tóm lại, lúc đó lệnh đầu hàng của Dương
Văn Minh và lời kêu gọi của Nguyễn Hữu Hạnh đă không được Tướng Nam và
Tướng Hưng đáp ứng. Viết đến đây, tôi xúc động lạ thường. Tôi nghẹn ngào
rơi lệ nhớ đến một số sĩ quan binh sĩ đă bật khóc khi nghe lệnh đầu hàng
của Dương Văn Minh. Anh em đă ôm lá cờ tổ quốc, ôm khẩu súng vào ḷng
nức nở. Có những chi khu trưởng và những đồn trưởng nhất định không chịu
đầu hàng. Họ đă tử thủ đến viên đạn chót. Và viên đạn chót dành để kết
liễu đời ḿnh. Cấp bậc của những anh em ấy không cao, chỉ chỉ huy khu
nhỏ, hay một đồn lẻ loi, nhưng tinh thần tranh đấu của anh em cao cả và
oai hùng thế đấy.
Trong khi Sàig̣n bỏ ngỏ đầu hàng th́ Cần Thơ vẫn an ninh tuyệt đối. Kế
hoạch hành quân đă thảo xong. Vũ khí lương thực đạn dược sẵn sàng. Tất
cả đều chuẩn bị cho các cánh quân di chuyển, sẽ đưa về các tuyến chiến
đấu. Kế hoạch di quân, phản công, và bắt tay nằm trong lịnh mật quân
hành đó. Vùng 4 có nhiều địa thế chiến lược, có thể kéo dài cuộc chiến
thêm một thời gian. Bởi lúc đó, cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, chưa
có một đồn nào, dù ở quận lỵ xa xôi hẻo lánh ở Vùng 4 đă lọt vào tay
giặc Cộng.
Nhưng, Cần Thơ, sáng ngày 30/4/1974, dân chúng nhốn nháo hoang mang. Đă
có một số binh sĩ bỏ ngũ. Tại thị xă, cảnh náo loạn đáng buồn chưa từng
có đă xảy ra. Từng nhóm đông đảo bọn ác ôn và thừa nước đục thả câu đă
ra tay cướp giật tài sản ở các cơ sở Mỹ, và ở những nhà tư nhân đă bỏ
trống, bất chấp tiếng súng nổ can thiệp của cảnh sát duy tŕ an
ninh trật tự công cộng. Chúng cướp giật, đập phá, ḥ hét như lũ điên.
Chắc chắn trong số này có bọn Cộng Sản nằm vùng có ư đồ gây rối loạn áp
đảo tinh thần binh sĩ.
Lúc ấy Tướng Nam và Tướng Hưng vẫn c̣n liên lạc với các cánh quân chạm
địch. Nhiều cánh quân nồng cốt được đưa về thị xă Cần Thơ để bảo vệ Bộ
Chỉ Huy Quân Đoàn, nằm chung quanh ṿng đai Alpha. Từ 2 giờ đến 4 giờ
chiều ngày 30 tháng 4, giờ đă điểm. Đúng theo kế hoạch lệnh hành quân
bắt đầu.
Nhưng hỡi ôi, khi liên lạc đến các cấp chỉ huy của các đơn vị th́ mới
hay họ chưa biết tư ǵ về kế hoạch, chưa rục rịch chi hết, ngoài việc
thay đổi các cuộc bố trí từ sáng đến giờ phút này. T́m kiếm Đại Tá an
ninh, người đă lănh nhiệm vụ phân phối phóng đồ và lệnh hành quân mật
đến các đơn vị, th́ mới vỡ lẽ ra vị sĩ quan này đă đưa vợ con t́m đường
tẩu thoát sau khi ném tất cả mật lệnh vào tay vị Đại Úy dưới quyền. Ông
này cũng đă cuốn gói trốn theo ông Đại Tá đàn anh, cho có thầy, có tṛ.
Các phóng đồ và lệnh hành quân mật cũng đă biến mất. Thiếu Tướng Nam và
Thiếu Tướng Hưng tức uất không sao tả nổi. Tôi không ngăn nổi tiếng nấc
nghẹn ngào khi hồitưởng lại vẻ bối rối của Thiếu Tướng Nam và sự đau khổ
thất vọng của Hưng. Những đường gân trán nổi ṿng lên, răng cắn chặt,
biểu lộ sự đau đớn và chịu đựng kinh hồn. Người đập tay đánh ầm xuống
bàn khi thấy kế hoạch sắp xếp thật tinh vi bị kẻ phản bội hèn nhát làm
găy đổ bất ngờ. Hưng ngước mắt nh́n tôi như muốn hỏi:
- “Có đồng ư đem con lánh nạn không?”
Tôi cương quyết từ chối. Tôi không cầu an ích kỷ, t́m sống riêng, bỏ mặc
người trong cảnh dầu sôi lửa đỏ. Tôi nhất định ở lại, cùng chịu hoạn
nạn, cùng liều chết. Hưng hỏi tôi:
- “Thành công là điều chúng ta mong ước, nhưng rủi thất bại, em định
liệu lẽ nào?” Tôi đáp:
- “Th́ cùng chết! Các con cũng sẽ thế. Em không muốn một ai trong chúng
ta lọt vào tay Cộng Sản”.
Và để khỏi phải sa vào tay giặc Cộng, tôi b́nh tĩnh thu xếp cái chết sắp
tới cho mẹ con tôi, đường giải thóat cuối cùng của chúng tôi. 4g45 chiều
ngày 30/4/75, Tướng Hưng rời bỏ văn pḥng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, về
bộ chỉ huy phụ, nơi chúng tôi tạm trú. Hưng không muốn chứng kiến cảnh
bàn giao ô nhục sắp tới giữa Thiếu Tướng Nam và tên Thiếu Tá Việt Cộng
Hoàng Văn Thạch. Năm giờ rưỡi chiều khi Hoàng Văn Thạch tiến vào Bộ Tư
Lệnh Quân Đoàn là lúc Hưng gọi máy liên lạc với Tướng Mạch Văn Trường,
ra lệnh đưa hai chi đội thiết giáp tới án ngữ ở dinh Tỉnh Trưởng để bảo
vệ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 21 mới về đóng nơi đây. Sau đó Hưng tiếp tục liên
lạc với các đơn vị đang tiếp tục chạm súng ở các tiểu khu.
Đồng thời Hưng mời Tướng Mạch Văn Trường cùng các đơn vị trưởng ở chung
quanh ṿng đai thị xă Cần Thơ về họp. 6g30 chiều, khi các vị sĩ quan vừa
ra đến cổng, có một toán thân hào nhân sĩ quen biết tại Cần Thơ đang
chực sẵn, gồm khoảng 10 người. Họ xin gặp Tướng Hưng, với tư cách đại
diện dân chúng thị xă, yêu cầu:
- “Chúng tôi biết Thiếu Tướng không bao giờ chịu khuất phục.
Nhưng xin Thiếu Tướng đừng phản công. Chỉ một tiếng lệnh của Thiếu Tướng
phản công, Việt Cộng sẽ pháo kích mạnh mẽ vào thị xă. Cần Thơ sẽ nát
tan, thành b́nh địa như An Lộc. Dù sao, vận nước đă như thế này rồi, xin
Thiếu Tướng hăy v́ dân chúng, bảo toàn mạng sống của dân, dẹp bỏ tánh
khí khái, can cường…”.
Nghe họ nói, tôi cảm thấy đau ḷng lẫn khó chịu. Tôi cũng không ngạc
nhiên về lời yêu cầu đó. Bởi mới tuần lễ trước, Việt Cộng đă pháo kích
nặng nề vào khu Cầu Đôi, cách Bộ Tư Lệnh không xa, gây thiệt hại cao về
nhân mạng và tài sản của đồng bào. Dân chúng Cần Thơ c̣n khiếp đảm. Hưng
như đứng chết lặng trước lời yêu cầu ấy. Một lát sau, Hưng cố gượng
nở nụ cười trả lời:
- “Xin các ông yên ḷng. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tránh gây thiệt hại
cho dân chúng”. Toán người ấy ra về. Hưng quay sang hỏi tôi:
- “Em c̣n nhớ tấm gương cụ Phan Thanh Giản? Bị mất ba tỉnh miền đông,
rồi cũng v́ dân chúng mà cụ Phan đă nhún ḿnh nhường thêm ba tỉnh miền
tây cho quân Pháp. Cụ Phan không nỡ thấy dân chúng điêu linh và cũng
không để mất tiết tháo, không thể bó tay làm nhục quốc sĩ. Cụ Phan Thanh
Giản đành nhịn ăn rồi uống thuốc độc quyên sinh”.
Trầm ngâm vài giây, Hưng tiếp:
- “Thà chết chứ đâu thể bó tay trơ mắt nh́n Việt Cộng tràn vào”. 6g45
chiều ngày 30 tháng 4, Tướng Nam điện thoại cho Hưng,hỏi t́nh h́nh các
nơi. Hưng báo với Tướng Nam về việc đại diện dân chúng thị xă đến yêu
cầu thẳng với Hưng. Hưng cũng cho Tướng Nam biết đặc lệnh truyền tin mới
nhất sẽ giao cho người tín cẩn phân phối. Tướng Nam cho Hưng hay là
ông đă cho thu băng lời kêu gọi dân chúng và lời yêu cầu này sẽ cho đài
Cần thơ phát thanh. Nhưng mưu sự tại nhân, thành sựtại thiên. Thêm một
lần nữa, sự gây đổ đau ḷng. Đài Cần Thơ bị nội ứng trước đó, khoảng một
giờ, viên giám đốc đài bị uy hiếp, thay v́ phát thanh cuốn băng của
Thiếu Tướng Nam trước, chúng thay cuốn băng có lời kêu gọi của Thiếu Tá
Cộng Sản Hoàng Văn Thạch. Khoảng mười phút sau, đài mới phát thanh cuốn
băng của Tướng Nam. Muộn màng rồi. Không c̣n níu kéo được sự tin tưởng
nơi dân chúng và binh sĩ được nữa.
Hàng ngũ các đơn vị đă thưa thớt lại càng thêm thưa thớt. 7g30 tối ngày
30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn pḥng làm việc. Đây là giờ phút nghiêm
trọng nhất, không có ai hiện diện hết. Sau khi kể cho tôi nghe hết sự đổ
vỡ từ trưa đến giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh:
- “Hoàng, em đă hiểu sự thất bại do các nguyên nhân sau đây: Vị Đại Tá
không tuân lệnh, nên giờ chót không điều động quân về các vị trí chiến
lược, trù liệu theo kế hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân chúng và
binh sĩ không thành. Lời kêu gọi trễ tràng của Tướng Nam không có tiếng
vang. Cũng như lời yêu cầu của dân chúng thị xă Cần Thơ”.
Quắc đôi mắt sáng, Hưng nh́n tôi dằn giọng:
- “Em phải sống ở lại nuôi con”.
Tôi hoảng hốt:
- “Ḱa ḿnh, sao ḿnh đổi ư?”
- “Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết con.”
- “Nhưng không thể để con sống với Cộng Sản. Em sẽ thay ḿnh làm chuyện
đó. Chỉ cần chích thuốc ngủ cực mạnh cho con. Chờ em một chút, chúng ta
cùng chết một lúc”.
- “Không thể được. Cha mẹ không thể giết con. Anh van ḿnh. Chịu nhục,
cố sống. Ở lại thay anh, nuôi con trở thành người công chính. Phú quư
vinh hoa địa vị hăy đề pḥng, những thứ đó dễ làm mờ ám lương tri. Nhớ,
giang san tổ quốc là trọng đại hơn hết. Gắng chịu cúi ḷn, nhục nhă để
nuôi con và cũng nuôi luôn ư chí để có ngày c̣n phục hận cho đất nước
chúng ta”.
- “Nếu v́ con, ḿnh thương con, sao ḿnh không đi ngoại quốc?”
Hưng đanh mặt lại, nghiêm khắc nh́n tôi trách móc:
- “Em là vợ anh. Em có thể nói được câu ấy sao?”
Biết ḿnh vụng về, lỡ lời xúc phạm đến người, tôi vội vàng tạ lỗi:
- “Xin ḿnh tha thứ. Chẳng qua v́ quá thương ḿnh nên em mới nói thế”.
Giọng Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh:
- “Nghe anh nói đây. Người ta trốn chạy được. Chớ anh không bao giờ trốn
chạy. Mấy ngàn binh sĩ dưới tay, hồi nào sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ
t́m sống riêng ḿnh sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây giờ th́ rút cũng
không kịp nữa, v́ vào mật khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn
dược, lương thực th́ không cầm cự được lâu. Đă muộn rồi. Việt Cộng đang
kéo vào đừng để anh không dằn được nổ súng vào đầu chúng, th́ gây thiệt
hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một
tên Việt Cộng nào”.
Tôi phát run lên hỏi:
- “Nhưng ḿnh ơi, c̣n em? em phải làm ǵ trong lúc này?”
Nắm chặt tay tôi, Hưng nói:
- “Vợ chồng t́nh nghĩa bao nhiêu lâu, anh hiểu em và em hiểu anh. Em tuy
chỉ là con cá nhỏ nhưng biết mang ư chí ḱnh ngư. Gắng chịu nhục. Dù
phải chịu trăm ngàn sự nhục nhă để nuôi con, để phục hận cho quê hương.
Cải trang, cải dạng, len lỏi mà sống. Anh tin em. V́ anh, v́ con, v́ nợ
nước, t́nh nhà, em có thể chịu đựng nổi! Nghe lời anh đi. Anh van ḿnh,
anh van ḿnh”.
Tôi không sao từ chối được trước ánh mắt van nài, trước những lời tha
thiết ấy:
- “Vâng, em xin nghe lời ḿnh”.
Hưng sợ tôi đổi ư, tiếp lời thúc giục:
- “Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi”.
- “Em xin hứa. Em xin hứa ḿnh ơi. Nhưng xin cho em hai điều kiện. Nếu
Cộng Sản bắt em phải sống xa con, nếu giặc Cộng làm nhục em, lúc ấy em
có quyền tự sát theo ḿnh chứ?”
Hưng suy nghĩ giây lâu, gật đầu đồng ư, và ra lệnh cho tôi:
- “Em mời má và đem các con lên lầu gặp anh”.
Tôi quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá cờ vẫn dựng ở góc pḥng. Tôi
vội vàng đem cờ đến bên người. Tôi nói:
- “Bao nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Bây giờ ḿnh hăy giữ nó”.
Chúng tôi nh́n nhau cảm thông. Hưng ôm lá cờ, áp vào mặt, đôi mắt Hưng
chợt ướt. Sau cùng Hưng cũng rán đứng lên hối tôi:
- “Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên”.
Khi mẹ tôi và các con lên văn pḥng, Hưng nói rơ cho mẹ tôi hiểu v́ sao
người phải chết và tôi phải sống.
Vâng lệnh Hưng, tôi mời tất cả sĩ quan binh sĩ c̣n tụ họp dưới nhà lên
văn pḥng. Mọi người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng cảm động. Giờ
phút từ biệt sanh ly giữa những người từng bao ngày sống chết bên nhau.
Hưng dơng dạc nói:
- “Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn sang ngoại quốc. Như các anh
đă biết, cuộc hành quân chưa chi đă bị gẫy đổ nửa chừng. Tôi không phản
công vào phút chót là v́ dân chúng. Tôi không muốn Việt Cộng pháo kích
bừa băi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ hai. Tôi cũng không chịu nhục
đầu hàng. Các anh đă từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi,
tôi rầy la. Rầy la không có nghĩa là ghét bỏ. Rầy la để mến thương nhau,
để xây dựng nhau. Mặc dầu đất nước ta bị bán đứng, bị dâng cho Cộng
Sản, nhưng các anh không trực tiếp chịu tội với quốc dân. Chính những
người trực tiếp nắm vận mệnh các anh, mới chính là những kẻ trọng tội.
Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm, nếu có. Tôi bằng ḷng chọn
cái chết. Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, th́
phải chết theo thành, theo nước, chớ không thể bỏ dân, bỏ nước, trốn
chạy, cầu an. Tôi chết rồi, các anh hăy về với gia đ́nh, vợ con. Nhớ rơ
lời tôi căn dặn: Đừng bao giờ để bị Cộng Sản tập trung các anh, dù tập
trung dưới bất cứ h́nh thức nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh”.
Tướng Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người một. Mọi người đều khóc.
Đến bên Thiếu Tá Phương, Trung Úy Nghĩa, Hưng gởi gấm:
- “Xin giúp đỡ giùm vợ con tôi. Vĩnh biệt tất cả”.
Mọi người đều đứng yên không ai nói lên được lời nào. Mẹ tôi nhào lại ôm
chầm lấy người, xin được chết theo. Hưng an ủi mẹ tôi, yêu cầu mẹ tôi cố
gắng chăm lo cho cháu ngoại. Hưng ra lệnh cho tất cả mọi người phải ra
ngoài. Không ai chịu đi.
Hưng phải xô từng người ra cửa. Tôi van xin:
- “Ḿnh cho em ở lại chứng kiến ḿnh chết”.
Người từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng quay vào văn pḥng đóng chật
cửa lại. Tôi gọi giật Nghĩa:
- “Nghĩa trở lại với tôi”.
Tôi bảo Giêng t́m dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như bay. Nghĩatrở lên, đứng
trước cửa chờ đợi. Có tiếng súng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng
hồ: 8g45 tối ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày kết liễu cuộc đời của chúng
tôi. Lê Văn Hưng, anh đă chết. Giêng run run lấy dao nạy cửa. Cửa bật
ra. Nghĩa lách ḿnh nhường tôi chạy vào pḥng trước. Hưng ngả người nằm
trên, nửa người nằm dưới, hai cánh tay dang ra, cong lên và giật mạnh,
toàn thân run rẩy từng cơn. Đôi mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há
ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm lấy Hưng hỏi:
- “Ḿnh, ḿnh ơi! Ḿnh c̣n lời ǵ dặn ḍ em nữa không?”
Hưng không c̣n trả lời được tiếng nào. Nghĩa gào lên nức nở:
- “Thiếu Tướng! Trời ơi, Thiếu Tướng!”
Giêng chạy vào phụ Nghĩa đỡ lưng và chân, tôi đỡ đầu Hưng, đặt nằm ngay
ngắn trên giường. Máu tim nhuộm thắm áo trận, ướt đỏ cả tấm drap trắng.
Tôi đưa tay vuốt mắt cho người.
Nghĩa vẫn gào khóc:
- “Thiếu Tướng! Thiếu Tướng ơi!”
Tôi bảo Giêng:
- “Nói Ḥa đưa Hải, Hà, Quốc lên nh́n xác ba lần cuối. Dặn Phương cho
Khiết, Hoàng giữ ở cầu thang, bất cứ giá nào cũng phải ngăn chận Việt
Cộng”.
Tôi đi t́m đầu đạn và đuôi đạn. C̣n khẩu súng, lạ lùng thay không biết ở
đâu. Đến lúc tắm rửa người, thay drap dấy máu, tôi mới hiểu. Trước khi
hồn lià xác, với ư chí cuối cùng, người c̣n b́nh tĩnh nhét khẩu súng,
dấu dưới nệm. Có lẽ người sợ tôi quá xúc động, quên lời hứa, tự sát
theo. Bé Hải lúc ấy năm tuổi, ôm hai chân ba, khóc than, kể lể thảm
thiết. Bé Hà hai tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên nằm trên bụng ba, bé mở
tṛn đôi mắt to, ngạc nhiên không thấy ba đưa tay bế bé như mọi khi.
Nghĩa điện thoại khắp nơi t́m Thiếu Tướng Nam, không thấy trả lời. Tôi
vội vă mở đặc lịnh truyền tin, lên máy gọi liên lạc với Thiếu Tướng. Lúc
ra máy, chỉnh tần số, tôi chỉ nghe những giọng nói rặc mùi Cộng Sản trên
các tần số thuộc đơn vị của chúng ta. Lũ Việt cộng, ngày 30 tháng 4,
tràn vào nhà. Phương cương quyết chận chúng ở cầu thang. Chín giờ
rưỡi, 30 tháng 4, chuông điện thoại reo vang:
- “Alô, Alô, ai đây?”
- “Dạ thưa chị đó à? Hồ Ngọc Cẩn đây”. Tôi bàng hoàng:
- “Anh Cẩn! Có chuyện chi cần không?” Tôi cố gắng giữ giọng nói cho b́nh
thường, để Cẩn không nhận biết sự việc xảy ra. Trong điện thoại, về phía
Cẩn, tôi có nghe tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ầm ầm. Cẩn hỏi: - “Thiếu
Tướng đâu chị? Cho tôi gặp ông một chút”. Tôi lúng túng vài giây: - “Ông
đang điều động quân ngoài kia”. - “Chị chạy ra tŕnh Thiếu Tướng, tôi
cần gặp. Trung Úy Nghĩa đâu chị?”
- “Nghĩa đang ở bên cạnh Thiếu Tướng. Cẩn chờ một chút nhé”. Tôi áp chặt
ống điện thoại vào ngực. Mím môi, nh́n xác Hưng rồi nh́n sang Nghĩa tôi
hỏi:
- “Đại Tá Cẩn đ̣i gặp Thiếu Tướng, làm sao bây giờ Nghĩa?” Nghĩa lúng
túng: - “Cô nói Thiếu Tướng chết rồi”.
- “Không thể nói như vậy được. Đại Tá Cẩn đang cự chiến với Việt
Cộng”. Trí óc tôi chợt lóe sáng phi thường. Tôi muốn Cẩn chiến đấu anh
hùng. Sống anh hùng. Chết anh hùng. Tôi đưa máy lên giọng quyết liệt:
- “Thiếu Tướng không thể vào được. Cẩn cần ǵ cứ nói. T́nh h́nh ở Chương
Thiện ra sao? Anh c̣n đủ sức chiến đấu không? Tinh thần binh sĩ thế nào?
Địch ra sao?”
- “Tụi nó dần tụi tui quá. Tinh thần anh em vẫn cao. Chị hỏi Thiếu Tướng
c̣n giữ y lịnh không?”
- “Cẩn vui ḷng chờ chút”. Tôi lại áp chặt ống điện thoại vào ngực. Cắn
chặt môi suy nghĩ. Tôi hiểu lời Cẩn hỏi. Trong tích tắc tôi biết khó cứu
văn t́nh thế. Nhưng tôi muốn Hồ Ngọc Cẩn phải luôn hiên ngang hào hùng.
Tôi quyết định: - “Alô. Cẩn nghe đây: Lịnh Thiếu Tướng. Ông hỏi Cẩn có
sẵn sàng tử chiến?” Cẩn đáp thật nhanh: - “Lúc nào cũng sẵn sàng, chớ
chị!” - “Tốt lắm, vậy th́ y lịnh”.
- “Dạ, cám ơn chị”. Tôi buông máy gục xuống bên xác Hưng. Nước mắt trào
ra, tôi kêu nho nhỏ:
- “Vĩnh biệt Cẩn. Vĩnh biệt Cẩn!”
“Anh Cẩn ơi, hồn linh anh có phảng phất đâu đay, khi tôi ngồiviết lại
những ḍng này, nước mắt rơi trên giấy, Anh có biếtcho rằng trả lời điện
thoại với anh rồi, tôi đau khổ tột cùng không? Tha thứ cho tôi!” Đại Tá
Hồ Ngọc Cẩn đă chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, anh đă hiên ngang hào
hùng đến giờ phút chót của cuộc đời. Hiểu rơ Hưng, hiểu rơ tôi, bên kia
thế giới không thù hận, chắc anh hiểu rơ tâm trạng của tôi lúc bấy giờ,
hẳn anh tha thứ cho tôi?
Kính thưa toàn thể quư vị thuộc thân bằng quyến thuộc của Đại Tá Cẩn.
Kính thưa quư vị đă đọc những gịng chữ này. Xin quư vị chớ trách tôi
sao dám quyết định. Ngộ biến tùng quyền. Tướng Hưng đă chết. Thiếu Tướng
Nguyễn Khoa Nam chưa liên lạc được. Vợ người lính nghĩa quân trưởng đồn,
khi Việt Cộng tấn công, chồng chị bị tử thương, chị đă thay chồng phản
công ác liệt. Tôi không thể để một người như Hồ Ngọc Cẩn đưa tay đầu
hàng, hạ ḿnh trước Việt Cộng vào dinh tỉnh trưởng Chương Thiện. 11 giờ
đêm ngày 30 tháng 4, 1975. Điện thoại lại reo. Lần này, chính giọng của
Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam:
- “Alô, chị Hưng!”
Tôi vừa khóc, vừa đáp lời Thiếu Tướng:
- “Thưa Thiếu Tướng…” Giọng Tướng Nam buồn bă u uất:
- “Tôi biết rồi, chị Hưng, tôi chia buồn với chị, nghe chị Hưng”. Tôi
vẫn nức nở:
- “Thiếu Tướng nghĩ sao về kế hoạch đă găy đổ?”
- “Hưng đă nói với chị hết rồi hả? Đành vậy thôi. Không phải lỗi chúng
ta hèn nhát hay bỏ cuộc. Sự sụp đổ không cứu văn được v́ lệnh hành quân
không được Đại Tá… thi hành, phóng đồ và lệnh không tới tay các đơn vị
trưởng, lời yêu cầu của dân chúng, lời kêu gọi của tôi quá muộn màng,
không hiệu quả, khó cứu văn nổi t́nh h́nh”.
Nói đến đây, Thiếu Tướng Nam hỏi tôi:
- “Chị biết vụ đài phát thanh bị nội ứng chứ?”
- “Thưa biết. Hưng cũng bảo tôi như Thiếu Tướng vậy. Bây giờ
Thiếu Tướng định liệu lẽ nào, có định phản công không?”
- “Chị quên c̣n dân chúng sao? Cộng Sản coi rẻ mạng dân, c̣n ḿnh th́…
Đàng chị thế nào?”
- “Thưa Thiếu Tướng, chúng nó đă tràn đầy dưới nhà. Có vài tên định nhào
lên, nhưng bị Giêng cương quyết đuổi xuống. Hiện chúng đang thu dọn tài
sản”.
- “C̣n mấy chú đâu hết?”
- “Chỉ có Nghĩa và vài ba người lính ở lại. C̣n tất cả đă bỏ đi hết.
Hưng đă chết rồi, tôi không màng đến tài sản. Miễn là chúng đừng đụng
đến xác Hưng”
- “Chị tẩm liệm Hưng chưa?”
- “Thưa chưa. Vừa tắm rửa, thay quần áo xong th́ Thiếu Tướng gọi tới”.
- “Chị nên tẩm liệm Hưng ngay đi. Tôi sợ không c̣n kịp, chúng nó sẽ
không để yên”.
- “Thiếu Tướng c̣n dạy thêm điều ǵ không? Chẳng lẽ ThiếuTướng chịu đầu hàng thật sao?” Người thở dài trong máy. Người nói những
lời mà đến chết tôi cũng sẽ không quên: - “Số phận Việt Nam khốn nạn thế
đó, chị Hưng ơi! Tôi và Hưng đă sắp đặt tỉ mỉ, hoàn tất kế hoạch xong
xuôi, c̣n bị phản bội giờ chót”. Người chép miệng thở dài:
- “Thôi chị Hưng ơi”. Bỗng giọng người trầm xuống, ngậm ngùi:
- “Hưng chết rồi, chắc tôi cũng chết! Chúng tôi làm Tướng mà không giữ
được nước th́ phải chết theo nước”. Giọng người b́nh tĩnh và rắn rỏi:
- “Cố gắng can đảm lên nhé chị Hưng. Chị phải sống v́ mấy đứa nhỏ. Đêm
nay có ǵ nguy cấp, nhớ gọi tôi. Nếu gọi không được, dặn Nghĩa gọi Thụy,
lấy mật mă mới”.
- “Dạ, cám ơn Thiếu Tướng”.
Nói chuyện với Thiếu Tướng xong, tôi bước ra lan can nh́n xuống. Dưới
sân, sĩ quan và lính tráng đă đi hết. Trừ có Nghĩa c̣n ở lại. Cổng rào
bỏ ngỏ. Gió thổi đong đưa cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt bi ai.
Mảnh trăng cuối tuần 19 tháng 3 âm lịch chênh chếch soi, vẻ ảm đạm thê
lương như xót thương cho số phận Việt Nam Cộng Ḥa, cho tṛ đời bể dâu
hưng phế.
Viết đến đây, tôi nhớ lại từng lời của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, của
Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương thiện Hồ Ngọc Cẩn. Trọn đời tôi, làm sao
tôi có thể quên giọng nói gấp rút của anh Cẩn, giọng trầm buồn của Tướng
Nam. 7 giờ sáng ngày 1 tháng 5, năm 1975. Vừa tụng dứt đoạn kinh Sám
Tỉnh Thế trong nghi thức cầu siêu cho Hưng, tôi nghe có tiếng nấc sau
lưng. Quay lại, chính là Trung Tá Tùng, bác sĩ trưởng Quân Y Viện Phan
Thanh Giản, Cần Thơ. Ông đến thăm Hưng lần cuối. Ông cho biết phải trở
lại Quân Y Viện ngay v́ Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đă tự sát, xác c̣n
nằm tại Quân Y Viện. Tướng Nam đă bắn vào thái dương, lúc 6 giờ sáng
ngày 1 tháng 5, 1975. Cho đến chết, mắt Tướng Nam vẫn mở trừng trừng,
uất hận, miệng người há hốc, đớn đau. Sau cuộc điện đàm với người, tôi
đă linh cảm, biết trước chuyện ǵ sẽ xảy ra. Nhưng khi nghe bác sĩ Tùng
báo tin, tôi xúc động vô cùng, tôi quỳ xuống, hướng về Quân Y Viện, nơi
Tướng Nam c̣n nằm đó, cầu nguyện: - Xin Thiếu Tướng tha thứ. Tôi không
dám bỏ xác Hưng để đến vuốt mắt Thiếu Tướng và lo việc tẩm liệm cho
Thiếu Tướng. Bây giờ linh hồn của Thiếu Tướng đă gặp Hưng, xin linh
thiêng pḥ hộ cho mẹ con tôi thoát khỏi tay Cộng Sản.
Xin thương xót cho quê hương, cho dân tộc chúng ta. Xin thương xót cho
toàn thể anh em binh sĩ.
Trung Úy Nghĩa thay tôi đến viếng xác người. Trung Úy Thành, vị ân nhân
can đảm đặc biệt, đến với tôi trong giờ phút nguy nan đó. Thành đă mời
được Trung Tá Bia đến tẩm liệm cho Hưng. Những vị ân nhân trong cơn biến
loạn ấy, trọn đời tôi xin ghi khắc ơn sâu. 8 giờ sáng ngày 1 tháng 5,
1975, các sĩ quan quân đoàn, mặc thường phục, đến viếng xác Hưng. Mầu
nhiệm thay, khi gặp lại những cộng sự viên cũ, trong thoáng chốc, mắt
Hưng hé mở, nh́n lên. Và từ trong đôi mắt người chết, có hai gịng lệ
chảy. Mặt người chợt đỏ bừng lên.
Người khóc cho quê hương đất nước bắt đầu đắm ch́m trong điêu linh.
Người khóc cho đám tàn quân khốn khổ. Cho đến lúc chết, hai Tướng Nam và
Hưng chỉ phân tách nguyên nhân thất bại, làm hỏng kế hoạch của hai người
chớ không ai lên tiếng nặng lời trách móc vị Đại Tá kia.
Xin quư vị hiểu rơ giùm tôi. Tôi tôn trọng danh dự của hai ông, vợ con
và gia đ́nh hai ông. Trong hoàn cảnh căng thẳng của đất nước, khi ḷng
người mất niềm tin, hai ông cũng như nhiều người khác, thật sự đáng
thương hơn đáng trách. Không hiểu hai ông có đi thoát, hay bị bắt ở lại.
Vận nước ngàn cân treo sợi tóc, một vài người dù đánh đổi cả vận mệnh
cũng không nâng đỡ nổi ṭa nhà Việt Nam đang sụp đổ tang thương. Nhưng,
một ngày chúng ta c̣n mang trong người ḍng máu của dân tộc Lạc Hồng,
c̣n hít thở được khí trời, là một ngày chúng ta c̣n nợ nần quê hương. Đó
là món nợ thiêng liêng và cao quư mà ngôn từ loài người chưa thể diễn tả
được sát nghĩa, và thật đúng ư. Sao chúng ta không noi gương oanh liệt
của tổ tiên, của cha ông, nối tiếp ư chí bất khuất của tiền nhân, để
trang trải món nợ ân t́nh đó? Sao chúng ta cứ lo chê bai, công kích, hăm
hại, đạp chà nhau, để rồi vô t́nh làm lợi cho bọn cướp nước Cộng Sản?
Đọc những ǵ tôi kể ở đoạn trên, những vị từng hỏi hay mỉa mai tôi, đă
hiểu tất cả sự thật v́ sao Tướng Nam và Tướng Hưng đă phải tự sát để bảo
tồn tiết tháo. Không ai đem việc thành bại luận anh hùng. Cũng chớ bao
giờ lấy tâm địa tiểu nhân để đo ḷng người quân tử. Chúng ta, những
người c̣n sống, những người Việt Nam ở trong nước hay lưu vong khắp bốn
phương trời, chúng ta phải tự nêu lên câu hỏi: Chúng ta đă làm được ǵ
cho đừng hổ thẹn với những người đă nằm xuống?.
Họ đă nằm xuống không phải là v́ họ hèn nhát! Họ đă nằm xuống là v́ muốn
bảo toàn Sáu Chữ mà họ từng mang trên đầu: Tổ Quốc, Danh Dự, Trách
Nhiệm. Nếu chưa làm được ǵ cho quê hương, xin hăy thận trọng lời phê
phán vô ư thức. Đừng vô t́nh, thành tàn nhẫn sỉ nhục những người dám
chết cho Tổ Quốc.
Phạm Thị Kim Hoàng