V́ sao Cộng Sản thù ghét Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm?

 

- Phần 1 -

 

Phạm Quang Tŕnh

 

 

Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm về nước chấp chánh ngày 7 tháng 7 năm 1954, được gọi Ngày Song Thất. Thời gian cầm quyền của TT Ngô Đ́nh Diệm vỏn vẹn chỉ có 9 năm (7- 1954 đến 11-1963). Nhưng báo chí Cộng Sản Việt Nam tức Việt Cộng đă không ngừng đă kích với đủ ngôn tử thậm tệ.

 

Cuộc đảo chánh 1-11-1963 đă đưa đến cái chết tức tưởi cho Tổng Thống, ông Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu cùng một số chiến hữu, đến nay (2020), đă 57 năm tức là trên nửa thế kỷ. Thời gian dài như thế, nghĩa là đă đi vào lịch sử, it khi được nhắc tới trừ khi có vấn nạn đặc biệt. Nhưng lạ thay, từ bao chục năm nay, trên các trang mạng truyền thông hầu như lúc nào cũng có người nhắc đến tên nhân vật Ngô Đ́nh Diệm. Khen có, chê có. Khen là những người biết và mến phục TT Ngô Đ́nh Diệm. Chê bôi, chí trích, phỉ báng hầu hết là do Việt Cộng và bọn tay sai.

 

Thật ra cũng không có ǵ đáng ngạc nhiên v́ tên tuổi nhân vật Ngô Đ́nh Diệm đă nổi bật từ hồi thập niên 30 thế kỷ trước, khi người đang đảm nhiệm chức vụ Thượng Thư Bộ Lại của Triều Đ́nh thời Vua Bảo Đại, đột ngột xin từ chức. Từ chức năm 1933, vậy mà 21 năm sau (1954) ông lại xuất hiện trên vơ đài chính trị, đối địch với nhân vật Hồ Chí Minh.

 

          Về lư do xin từ chức là như sau:

“Năm 1932, Hoàng Tử Vĩnh Thụy sau thời gian du học tại Pháp trở về nước, lên ngôi Hoàng Đế lấy hiệu Bảo Đại. Để thực hiện một cuộc cải tổ sâu rộng. Nhà vua đă mời ông Ngô Đ́nh Diệm, lúc đó mới 31 tuổi, đang làm Tuần Vũ tỉnh Phan Thiết, đảm nhận chức vụ Thượng Thư Bộ Lại, một chức vụ đứng đầu Nội Các, tương đương Thủ Tướng ngày nay, và kiêm nhiệm chức Tổng Thư Kư Hội Đồng Hỗn Hợp PHÁP-VIỆT vào ngày 2 tháng 5 năm 1933. Lúc đó ông Diệm vừa tṛn 33 tuổi.

Với chức vụ quan trọng này, ông Diệm đề nghị thi hành các kế hoạch canh tân xứ sở, như băi bỏ hai chức Thống Sứ Bắc Kỳ và Khâm sứ Trung Kỳ, đồng thời sát nhập hai kỳ Trung Bắc lại và bổ nhiệm một Thống Sứ cho cả hai miền, như cho phép Viện Dân Biểu được lo những vấn đề quốc sự giống như Quốc Hội. Nhưng, đề nghị của ông Diệm không được Toàn Quyền Pasquier chấp thuận.

Ngày 12 tháng 7 năm 1933, ông Diệm đệ đơn lên Hoàng Đế Bảo Đại xin từ chức. Việc từ quan của chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm đă làm chấn động Triều Đ́nh Huế và Chính Phủ Pháp thời đó.

Sau khi dứt khoát từ bỏ quan trường, ông Diệm lui về nhà làm dân thường. Sau này khi được Hoàng Đế Bảo Đại chấp thuận, ông Diệm về dạy học tại trường Providence Huế.

 

Về vườn nhưng cuộc sống không yên

 

Trong khi lui về dạy học, ông Diệm âm thầm nghiên cứu các sách vở và thường xuyên liên lạc với các nhà ái quốc như Cụ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, Cụ Phan Bội Châu và những nhà ái quốc cách mạng chống Pháp, hiện đang hoạt động tại Nhật Bản và trong nước, để mưu cầu giành Độc Lập Tự Do cho đất nước.

 

Đến năm 1939-1945, Toàn Quyền Đông Dương là Thủy Sư Đô Đốc Jean Decoux ra lệnh cho Khâm sứ Trung Kỳ là Émille Grandjean, bắt ông Diệm đưa đi an trí tại Xieng Khoang, Lào. Nhưng nhờ có ông Nguyễn Bá Mưu làm Thông Phán tại Ṭa Khâm Sứ biết được, đă vội vàng mật báo cho ông Diệm biết.

 

Ông Diệm muốn trốn đi Phan Thiết, nhưng luôn bị Pháp truy lùng ráo riết, may nhờ có ông Trần Văn Dĩnh đang làm Hiến Binh cho Nhật, đă đưa được ông Diệm vào Sài g̣n lánh nạn. (Sau này khi ông Diệm chấp chánh, đă cử ông Dĩnh làm Tổng Lănh Sự tại Miến Điện, Tuỳ Viên Ṭa Đại Sứ rồi Xử Lư Thường Vụ Ṭa Đại Sứ VNCH tại Hoa Thịnh Đốn).

 

Lánh nạn ở Sài g̣n một thời gian, ông Diệm trở lại Huế để thăm mẹ già, và ông đă bị Việt Minh chặn bắt tại Tuy Ḥa. Ông bị Hồ Chí Minh đưa đi an trí tại Thái Nguyên. Nhưng sau đó nhờ giới Công Giáo do Giám mục Lê Hữu Từ lên tiếng phản đối quyết liệt, buộc ḷng Hồ Chí Minh phải trả tự do cho ông, lại c̣n mời ông giữ chức Bộ Trưởng Nội Vụ. Nhưng ông Diệm cương quyết khước từ.” (Theo Ngô Đ́nh Châu)

 

Tháng 7 năm 1954, trận chiến Điện Biên Phủ đang trong giai đoạn quyết liệt giữa đôi bên Liên Quân Pháp - Việt và lực lượng Việt Minh Cộng Sản. Hội nghị Genève đă khai mạc được gần 3 tháng, (từ 26- 04 -1954) nhằm mục đích ban đầu để bàn về vấn đề khôi phục ḥa b́nh tại Triều Tiên Đông Dương. Do vấn đề Triều Tiên không đạt được kết quả nên từ ngày 8 tháng 5, vấn đề Đông Dương được đưa ra thảo luận. Trước t́nh h́nh nghiêm trọng khi Việt Minh đă chiến thắng trận Điện Biên Phủ, Quốc Trưởng Bảo Đại một lần nữa lại mời ông Ngô Đ́nh Diệm ra lập Chính Phủ thay thế Thủ Tướng Hoàng Thân Bửu Lộc. Ông Ngô Đ́nh Diệm đă nhận lời với điều kiện là trên cương vị Thủ Tướng Chính Phủ, ông phải được ủy nhiệm toàn quyền. Bảo Đại chấp thuận. Ông về chấp chính ngày 7-7-1954.

 

                   Giai đoạn mới: đất nước Việt Nam bị chia đôi   

 

Hiệp định Genève chia đôi đất nước Việt Nam thành 2 miền Nam Bắc, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Miền Bắc thuộc phe Việt Minh Cộng Sản dưới danh nghĩa là Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa với sự lănh đạo của ông Hồ Chí Minh. Miền Nam thuộc phe Quốc Gia Việt Nam đứng đầu là Quốc Trưởng Bảo Đại ủy nhiệm toàn quyền cho Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm.

 

Theo Hiệp định, đôi bên có thời 300 ngày phải di chuyển tất cả các cơ sở, dân sự cũng như quân sự của phe ḿnh về phía của ḿnh. Dân chúng cũng có thời hạn 300 ngày để di chuyển về phía ḿnh lựa chọn. Trong thời gian 300 ngày này, đôi bên phải tôn trọng quyền tự do đi lại và di chuyển của đôi bên cũng như của mọi người dân về bên họ đă chọn. Sau thời gian 2 năm (1956) sẽ có Tổng Tuyển Cử Thống Nhất đất nước. Tất cả những hoạt động của đôi bên luôn được Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đ́nh Chiến giám sát.

 

Nguyên tắc là như thế, nhưng thực tế th́ khác:

 

- Việt Minh Cộng Sản thay v́ tôn trọng tự do của người dân trong việc di chuyển, lại t́m đủ mọi cách, mọi thủ đoạn, kể cả dùng vũ lực ra sức ngăn cản dân chúng Miền Bắc ồ ạt di cư vào Miền Nam Quốc Gia.

 

- Theo Hiệp Định, Lực lượng Việt Minh Cộng Sản ở miền Nam phải rút hết về Miền Bắc. Thực tế chúng ch́ di chuyển một số đơn vị nổi. C̣n bao nhiêu cơ sở đảng bộ, cán binh, bộ đội... chúng ra lệnh chôn giấu vũ khí, rút vào bưng biền, vùng rừng núi và vùng nông thôn hẻo lánh chờ cơ hội vùng lên theo lệnh Đảng.

- Theo nhận định của nhiều giới, nếu t́nh h́nh Việt Nam cứ  diễn tiến b́nh thường như thế mà không có ǵ thay đổi thời phe Việt Minh có hy vọng nắm phần thắng lợi nếu như có Tổng Tuyển Cử (1956). 

 

Nhưng, tinh h́nh đă biến chuyển mau lẹ ở cả hai miền Nam Bắc.

 

    Miền Bắc của Việt Minh: Tuy mang danh nghĩa là chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, chính quyền phải tôn trọng quyền tự do của mọi người dân. Nhưng thực tế, Hồ Chí Minh và tập đoàn Cộng Sản theo chủ nghĩa Mác Lê đă đi ngược lại nguyện vọng của người dân. Nhà nước Việt Nam mệnh danh là Dân Chủ Cộng Hoà lại áp dụng chế độ độc tài Đảng trị. Hồ Chí Minh và tập đoàn Cộng sản Việt Nam thẳng tay dùng bạo lực để đàn áp dân chúng qua cái gọi là cuộc Cải Cách Ruộng Đất và Phong Trào Đấu Tố Địa Chủ dưới sự chỉ đạo của hai đàn anh Nga Sô và Trung Cộng. Chính Hồ Chí Minh sang tận Moscow nhận chỉ thị từ Stalin. Chính Hồ Chí Minh để cho tướng Lă Quư Ba và đoàn Cố Vấn Trung Cộng đứng ra chỉ đạo Phong Trào Đấu Tố Địa Chủ. Chúng đặt ra các chỉ tiêu phải đấu tố giết hại bao nhiêu phần trăm dân chúng trong làng xă với mục đích là dùng bạo lực trấn áp dân chúng để tiến lên “xă hội chủ nghĩa”. Chúng đă giết hại khoảng 300 ngàn người dân vô tội. Trước sự đàn áp của VM Cộng Sản, dân chúng vùng  Quỳnh Lưu Nghệ An đă nổi lên chống đối. Chúng đưa bộ đội đến đàn áp dă man. Các Văn Nghệ Sĩ trong Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm đ̣i quyền tự do sáng tác, liền bị đàn áp thẳng tay. Cuộc sống của dân chúng Miền Bắc bị cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Dân chúng tuyệt đối không được nghe các đài phát thanh bên ngoài, của Việt Nam Cộng Ḥa cũng như các đài của thế giới Tự Do, đài BBC, đài VOA...

 

          Miền Nam Quốc Gia: Khi Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm về chấp chánh thi t́nh h́nh thật vô cùng rối ren, lộn xộn.

 

Theo Hiệp Định Genève 1954, cả hai bên có thời hạn 300 ngày để di chuyển cơ sở và nhân sự của ḿnh về miền đă được quy định. Những người dân miền Bắc không chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản đă tạo nên một Phong Trào Di Cư vĩ đại. Gần một triệu người đă bỏ nhà cửa ruộng vườn ồ ạt di cư vào Nam. Giá như thời hạn cho thêm 100 ngày nữa thời số người di cư vào Nam chắc chắn c̣n tăng lên gấp bội.

 

Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm chân ướt chân ráo phải lo đủ chuyện. Ngoài công việc cấp tốc phải lo tiếp đón, lo định cư cho khối lượng đồng bào di cư, chính phủ phải lo ổn định t́nh h́nh, bảo vệ an ninh, xây dựng lại các cơ sở hành chánh, quân sự, an ninh, vân vân...

 

Miền Nam lúc đó dưới danh nghĩa Quốc Gia Việt Nam đứng đầu là Quốc Trưởng Bảo Đại vẫn c̣n nằm trong Khối Liên Hiệp Pháp cùng với Miên và Lào. T́nh h́nh lại rất là phức tạp, v́ ngoài Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, c̣n có ba Giáo Phái Cao Đài, Ḥa Hảo và B́nh Xuyên với Quân Đội riêng, không chịu sự chỉ huy của Chính Phủ. Vả lại, mỗi Giáo Phái hùng cứ một phương. Cao Đài lấy Tây Ninh làm thủ phủ. B́nh Xuyên với Bẩy Viễn trấn đóng ở vùng Sài G̣n, Chợ Lớn, Bà Rịa, Vũng Tàu, nắm Công An và chỉ huy Ṣng Bài Kim Chung Đại Thế Giới và B́nh Khang. Giáo phái Ḥa Hảo với Lê Quang Vinh tự Ba Cụt trấn ở Miền Tây (Long Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ). Thử hỏi: với t́nh h́nh như thế th́ làm sao phe Quốc Gia có thể đối phó hữu hiệu với sự xâm lăng phá hoại của Cộng Sản?

 

   Trách nhiệm của Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm và tân chánh quả thật là nặng nề. Nhiều người đă tỏ ra bi quan, thầm nghĩ rằng chính phủ này khó ḷng tồn tại được 6 tháng. Vậy mà chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đă vượt qua được cơn thử thách tưởng chừng như một phép lạ. Chính Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm, trong Bản Tuyên Cáo ngày 26-10-1955 thành lập chế độ Cộng Ḥa. Ngày 26 tháng 10 năm 1956 là ngày Quốc Khánh với sự ra đời của Bản Hiến Pháp. Vậy làm thế nào Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đă đạt được những thành quả ấy?

 

Trước hết, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm lo việc ổn định t́nh h́nh, thống nhất các lực lượng bằng việc kêu gọi các Giáo Phái về hợp tác với chính phủ để xây dựng một Quân Đội Quốc Gia thống nhất. Phần lớn các Giáo phái đă về hợp tác. Một số phần tử ngoan cố như Bảy Viễn, Lê Quang Vinh tự Ba Cụt đă bị quân chính phủ dẹp tan qua các chiến dịch Nguyễn Huệ, chiến dịch Thoại Ngọc Hầu, vân vân.

 

Nói tóm lại, trong hai năm trời (1954-1956), Miền Nam Quốc Gia dưới sự lănh đạo của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă làm được những việc phi thường: đưa được gần một triệu đồng bào di cư từ Bắc vào Nam, giúp đỡ cho có nơi ăn chốn ở, tạo công ăn việc làm, dẹp tan các giáo phái, thống nhất lực lượng quốc gia, thành lập chế độ Cộng Ḥa, đẩy mạnh Phong Trào Tố Cộng, khởi sự xây dựng các Khu Trù Mật và Dinh Điền làm cho đời sống nhân dân Miền Nam vững mạnh và sung túc.

 

          Hà Nội phản ứng thế nào trước sự lớn mạnh của Miền Nam?

 

Trước một Miền Nam lớn mạnh với danh xưng là Việt Nam Cộng Ḥa có  đầy đủ các cơ chế hiến định, một bộ máy hành chánh quy mô, một quân đội thống nhất, dân chúng từ Cà Mau tới Bến Hải có cuộc sống an b́nh sung túc và uy tín ngoại giao mỗi ngày một tăng lên nên Hà Nội lo sợ. Vả lại, khi thấy Hà Nội ra sức đàn áp dân chúng qua Phong Trào Đấu Tố và Cải Cách Ruộng Đất cũng như đàn áp, tước đoạt quyền tự do ngôn luận, tự do tư tưởng của các Văn Nghệ Sĩ trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, Chính phủ VNCH đă tuyên bố tẩy chay cuộc Tổng Tuyển Cử năm 1956 qua Tuyên Cáo: “Nếu nhà cầm quyền Hà Nội muốn hiệp thương, muốn thống nhất thời phải tôn trọng quyền tự do của người dân, hăy để cho cho họ được tự do di cư vào Nam.”

 

          Biết rằng bao dự tính và âm mưu thực hiện không được nên Hà Nội trở lại con đường bạo lực gây chiến tranh xâm lược Miền Nam. Thực tế là trước Phong Trào Tố Cộng do chính phủ VNCH phát động đă tiêu diệt được hầu hết các cơ sở nằm vùng của Việt Cộng. Có thể nói 95 phần 100 cơ sở nằm vùng bị phát hiện. Hàng chục ngàn cán binh bị bắt. Và cũng có hàng chục ngàn cán binh ra đầu thú xin trở về Chính Nghĩa Quốc Gia. Đa số những thành phần này lúc đó v́ vẫn c̣n mơ tưởng vào huyền thoại kháng chiến, họ đă bị tiêm nhiễm giọng điệu tuyên truyền của Cộng Sản, nhất là họ chưa hề biết đến đường lối Quốc Gia và chế độ Cộng Ḥa Nhân Vi mới được chính phủ VNCH đề ra đem áp dụng ở Miền Nam. Nay nh́n vào cuộc sống của dân chúng Miền Nam, họ cảm nhận được con đường chính nghĩa của chế độ nên họ sẵn sàng từ bỏ con đường sai lầm mà bọn Việt Minh Cộng Sản đă tuyên truyền để trở về hợp tác.

 

Ngoài việc phá vỡ các cơ sở nằm vùng, cơ quan an ninh t́nh báo của VNCH đă phát hiện ra các ổ t́nh báo, gián điệp của Cộng Sản gài ở Miền Nam. Bao nhiêu cơ sở của Việt Cộng bị phát hiện. Chính Hà Nội đă thú nhận rằng Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung dưới sự chỉ huy của ông Dương Văn Hiếu là một tổ chức đặc biệt có một không hai trên thế giới. Bao nhiêu ổ gián điệp của Hà Nội bị phát hiện. Bao nhiêu phần tử gộc của chúng bị Đoàn Công Tác tóm cho bằng hết. Nhiều phần tử gián điệp của Cộng Sản đă phản tỉnh, sẵn sàng hợp tác với chính phú VNCH để tiêu diệt Cộng Sản. Ngay cả Lê Duẩn, chút nữa cũng bị tóm cổ. Chính Đại Tá Phạm Ngọc Thảo là người đă theo dơi và báo cáo cho BS Trần Kim Tuyến Giám Đốc Sở Nghiên Cứu đường đi nước bước của Lê Duẩn. T́nh báo VNCH đă lập kế hoạch bắt Lê Duẩn, không may là khi ập đến th́ Lê Duẩn đă ra khỏi địa điểm chưa đầy nửa giờ!

 

Trước thực trạng khó khăn của Miền Bắc sau khi đi vào chương tŕnh tập thể nông nghiệp, dân t́nh càng thêm đói khổ. Hầu hết các cơ sở nằm vùng của Việt Cộng ở Miền Nam bị lực lượng an ninh của chính phủ VNCH tiêu diệt nên Hà Nội theo lệnh của hai đàn anh Nga Sô và Trung Cộng phát động chiêu bài chiến tranh giải phóng. Chúng tung ra cái gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam và phát động chiến tranh du kích. Chính phủ VNCH quyết liệt đối phó bằng mọi biện pháp quân sự nhằm dẹp tan các vụ nội loạn, khủng bố, đồng thời ngăn chặn con đường đưa bộ độ xâm nhập Miền Nam qua ngả Lào. Về mặt ngoại giao, Chính phủ VNCH công bố Bạch Thư tố cáo Hà Nội vi phạm Hiệp Định Genève và Mặt Trận Dân Tộc GPMN chỉ là công cụ bù nh́n của Hà Nội dựng nên nhằm xâm lang Miền Nam. Hai thành viên của UHQT Kiểm Soát Đ́nh Chiến là Ấn Độ và Canada công nhận Bạch thư của VNCH là chính đáng. Riêng Ba Lan là nước Cộng sản th́ không. Nhưng đa số 2 phần 3 đă nói lên chính nghĩa của VNCH.

 

CSVN càng gia tăng phá hoại thời VNCH càng cương quyết diệt trừ. Năm 1961, Quốc sách Ấp Chiến Lược ra đời. Chỉ sau 2 năm thực thi, t́nh h́nh an ninh đă khả quan. Tiếc rằng khi Chính phủ Hoa Kỳ do Đảng Dân Chủ cầm quyền thời quan hệ đôi bên lại đi vào chiều hướng mới. Chính quyền Kennedy muốn thực hiện giải pháp “trung lập hóa Ai Lao” và giành quyền chỉ đạo chiến tranh nên đă gây áp lực với chính quyền VNCH phải cho họ đem quân vào Việt Nam. Bị VNCH phản đối, chính quyền Kennedy, liền t́m đủ cách thực hiện cuộc đảo chánh 1-11-1963, sát hại TT Ngô Đ́nh Diệm và CV Ngô Đ́nh Nhu khiến VNCH đi vào vũng lấy bi thảm. Giới lănh dạo mới bất lực, chỉ lo tranh chấp và tham nhũng. Quốc sách Ấp Chiến Lược bị Dương Văn Minh ra lệnh phá bỏ tạo cơ hội cho Việt Cộng nằm vùng sống lại. An ninh nguy ngập. Ngày 22-11-1963 TT Kennedy bị ám sát sau đúng ba tuần đảo chánh tại Việt Nam. T́nh h́nh Miền Nam mỗi ngày một suy sụp. Mỹ vội đem nửa triệu quân vào Việt Nam, nắm quyền lănh đạo cuộc chiến. VNCH chỉ c̣n đóng vai tṛ phụ. Nhưng khi đă thực hiện được mục tiêu chiến lược toàn cầu th́ Mỹ vội rút đi để mặc cho VNCH chiến đấu đơn độc, không viện trợ vũ khí đạn dược nên bị Cộng quân tấn chiếm dễ dàng. Rơ ràng ngày 30 tháng 4 năm 1975 là kết quả đương nhiên của cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963.

 

          Nh́n lại ngày đau thương của Dân Tộc từ 45 năm trước với bao biến cố xẩy ra theo ḍng thời gian, mỗi người chúng ta không khỏi ngậm ngùi cho số phận một dân tộc đă chịu quá nhiều đau khổ v́ chiến tranh mà hậu quả vẫn c̣n di hại đến ngày hôm nay. Trong khi các quốc gia khác cùng hoàn cảnh đói nghèo như Việt Nam vào thời điểm 45 năm trước, nay đă trở thành những Con Rồng Kinh Tế Á Châu, thời Việt Nam vẫn c̣n là nước chậm tiến, đói nghèo, lạc hậu thua xa các nước trong vùng như Đại Hàn, Đài Loan, Thái Lan, Hong Kong, Singapore, và Nhật Bản.

 

V́ sao VN vẫn c̣n là một nước chậm tiến?

 

 Ngụy quyền Cộng Sản Hà Nội huênh hoang gọi ngày 30-04-1975 là ngày Thống Nhất đất nước, sẽ đưa đất nước lên chủ nghĩa xă hội phồn vinh! Thống nhất được đất nước mà không thống nhất được ḷng dân. Thực chất chỉ toàn là ảo tưởng và bịp bợm láo khoét v́ chúng đă thẳng tay:

- Áp đặt chế độ độc tài dựa vào chủ nghĩa Mác Lê phi nhân và phi dân tộc.

 

- Tước đoạt mọi quyền tự do căn bản của người dân mà cụ thể là quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, quyền tự do sở hữu và kinh doanh.

 

- Thực hiện kinh tế chỉ huy bằng nền kinh tế quốc doanh, đánh tư sản mại bản, ngu dân và bần cùng hóa nhân dân theo đúng chủ trương “Trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ” như ở Miền Bắc từ thập niên 50 đưa đất nước lâm vào cảnh nghèo đói.

 

- Trả thù Dân Quân Cán Chính VNCH bằng cách đưa vào các trại tù mệnh danh là học tập cải tạo, không thực tâm ḥa hợp, ḥa giải dân tộc như chúng tuyên truyền.

 

- Hủy diệt Văn hóa dân tộc, đề cao văn hóa vô sản dựa trên đấu tranh giai cấp.

 

- Chính sách dùng người “hồng hơn chuyên” không động viên được tiềm năng và sức mạnh của toàn dân.

 

Những chủ trương nói trên đưa đến hệ quả thảm hại khôn lường: một nước VN vẫn đói nghèo lạc hậu, không sao ngóc đầu lên được! Trước sự oán than của dân chúng, và nhất là chứng kiến những xáo trộn bao năm qua và nhất là sự sụp đổ thê thảm của chủ nghĩa Cộng Sản tại Đông Âu lan cả sang Đông Đức và Nga Sô (1989-1991), ngụy quyền Hà Nội vội bám theo quan thầy Trung Cộng kẻ thù truyền kiếp của Dân tộc Việt Nam, để đổi mới bằng cái gọi là “Kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa”, một thứ chủ trương “đầu Ngô ḿnh Sở” nhằm mục đích bảo vệ quyền hành và địa vị cho phe nhóm.

 

 Vơ Văn Kiệt, Thủ tướng Việt Cộng là dân Miền Nam ít nhiều hiểu rơ thực trạng đă phải nhắm mắt (bỏ qua Đảng) thực hiện chủ trương mở rộng, cho dân chúng phần nào được tự do làm ăn, kinh doanh và “khoán sản phẩm” để cứu văn t́nh h́nh đă phải thừa nhận: “Ngày 30-04, có triệu người vui, có triệu người buồn.” 

 

Hệ quả của ngày 30 tháng 04 năm 1975

 

 Ngày 30-04-1975 là ngày tạm gọi là thống nhất, cả nước Việt Nam bị đặt hoàn toàn dưới ách thống trị của Cộng Sản. Đáng lư ra, nếu đúng như giọng điệu tuyên truyền của Việt Cộng thời đây là cơ hội ngàn vàng để thực hiện tinh thần ḥa giải, tạo ra sức mạnh, tạo cơ hội cho mọi người dân có cơ hội đóng góp công sức vào việc hàn gắn vết thương, xây dựng và phát triển đất nước. Thời gian chiến tranh 30 năm quá dài, gây biết bao tang tóc cho dân tộc, lo chém giết nhau mà không xây dựng đất nước được phồn vinh. trái lại, Việt Cộng trong đà say mê chiến thắng không nh́n ra vấn để thiết yếu mà vẫn ngoan cố bám vào giáo điều Macxit làm mất cơ hội tái thiết và canh tân xứ sở. Cái gọi là Nhà Nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam xây dựng trên nền tảng Mác Lê, và được lănh đạo bởi một đảng độc tài chuyên chính thời Việt Nam đói nghèo và lạc hậu là chuyện đương nhiên. Cộng Sản VN huênh hoang khoe khoang phát triển, thực chất chỉ là thứ phát triển kinh tế kiểu “gia công, làm mướn” cho ngoại bang. Cho nên khi chứng kiến thực trạng bi thảm, nghèo đói, èo ọt...  của đất nước suốt từ Bắc chí Nam kể từ ngày 30 - 4 - 1975, người ta đă đưa ra một nhận định hữu lư: Ngày 30-4-1975, kẻ thắng người thua đều thất bại:

 

- Cộng Sản Việt Nam thắng nhưng thất bại trong việc xây dựng đất nước dù có đủ điều kiện để xây dựng và phát triển. Thực chất Cộng sản Việt Nam chỉ giỏi phá hoại! Hô hào sản xuất mà chỉ sản xuất được toàn là “nghị quyết”! Nắm được quyền bính rồi, thống trị cả đất nước rồi, CSVN chỉ lo vơ vét làm giàu trên xương máu của nhân dân. Cả một tập đoàn từ lớn tới nhỏ không ai bảo ai tự động đi theo một chủ trương mới “từ Cộng sản biến thành Cộng hưởng” và tạo thành giai cấp Tư bản Đỏ!” Chúng mặc sức làm giàu, lo vơ vét, khiến đạo lư, phong hóa suy đồi, môi sinh và dinh dưỡng tệ hại, mặc cho thanh thiếu niên ăn chơi buông thả, tệ đoan xă hội lan tràn,  miễn là đừng đụng đến cái ghế của bọn chúng.

 

Đối ngoại c̣n tệ hại hơn nữa. V́ bám theo Tầu, xin Tầu viện trợ vũ khí đạn dược và đưa quân sang giúp đánh Tây, chỉ đạo phong trào Đấu Tố và Cải Cách Ruộng Đất giết hại hơn 300 ngàn người dân vô tội, nhờ Tầu giữ miền Bắc để xua quân tấn chiếm Miền Nam, và dĩ nhiên nhờ th́ phải trả ơn bằng một cái giá bán nước cho Tầu qua kế hoạch “tằm ăn dâu”. Tháng 9- 1958. Phạm Văn Đồng kư công hàm thừa nhận chủ quyền của Tầu Cộng trên biển đông, cụ thể là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cho Tầu Cộng vào khắp ba miền khai thác, thuê đất trồng cây kỹ nghệ 50 năm. Chấp thuận cho Tầu khai thác Vũng Áng (nhà máy lọc thép Formosa) và khai thác mỏ Bô Xít ở Tân Rai, Tây nguyên, cho dân Tầu ra vào tự do buôn bán, thuê đất mua nhà, mở phố chợ, lấy vợ gả chồng, đẻ con, tự do làm ăn không bị kiểm soát. Cho Tầu Cộng ưu tiên khai thác ba Đặc khu: Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc với 99 năm thuê đất.

 

Nên biết rằng Hà Nội tự nguyện làm tay sai cho Nga Tầu, mà không nhận ra âm mưu thâm độc của hai đàn anh để tiếp tục làm tay sai và tự biến thành giặc ngoại xâm trá h́nh nhuộm đỏ quê hương đất nước. Thực chất, Nga Tầu chỉ lợi dụng chủ nghĩa Cộng Sản để mưu lợi ích cho chủ nghĩa Đại Hán, Đại Nga! Cho nên khi chủ nghĩa Cộng sản đă sụp đổ vào năm 1991 thời CSVN tỏ ra lúng túng, vội vàng bám theo Tầu Cộng và tiếp tục làm tay sai cho bọn Hán tộc nhằm duy tŕ quyền hành, địa vị! Chúng lư luận rằng, “theo Mỹ mất Đảng mà theo Tầu mất nước” nhưng chúng quyết định “thà mất nước c̣n hơn mất đảng”. Theo Tầu Cộng thời c̣n đảng, nghĩa là c̣n đặc quyền, đặc lợi. Cho nên Tầu Cộng làm ǵ thời Việt Cộng làm theo. Chúng đâu biết rằng Tầu Cộng không bao giờ xa rời chủ nghĩa Đại Hán, không bao giờ từ bỏ tham vọng xâm lược Việt Nam. Chúng chỉ lợi dụng chủ nghĩa Cộng Sản để khuếch trương chủ nghĩa Đại Hán, nghĩa là thực hiện giấc mộng bá quyền và làm bá chủ thế giới. Chỉ có những kẻ ngây thơ, ngu si đần độn mới nghĩ rằng theo Tầu Cộng sẽ được Tầu Cộng che chở mà chúng sẽ không thực hiện dă tâm xâm lược và đồng hóa! 

 

 Năm 1977, Cộng Sản VN xua quân qua Kampuchea đánh Pol Pot và Khờ Me Đỏ, đồng thời dựng Hun Sen lên làm lănh tụ Kampuchea. Chỉ vài chục năm sau, Hun Sen phản bội Hà Nội theo Tầu Cộng. Hun Sen ngang nhiên rước Tầu Cộng vào lănh thổ nhằm đe dọa Việt Cộng và cho Tầu Cộng thuê Sihanoukville làm căn cứ quân sự, giúp Tầu Cộng bành trướng thế lực ra Ấn Độ Dương. Quả thật là Việt Cộng tận t́nh giúp Hun Sen và khi đủ mạnh Hun Sen liền trở mặt theo Tầu!  Đường Lưỡi Ḅ chín đoạn ở Biển Đông và hệ thống đập thủy điện trên sông Mekong cùng tập đoàn Hun Sen Kampuchea tạo thành cái “Gọng Ḱm Hán Tộc” khép chặt Việt Nam vào giữa! Với những hành động khiếp nhược đê hèn như vậy cho thấy tập đoàn Hà Nội hiện nguyên h́nh là bọn Việt gian bán nước.

 

- Việt Nam Cộng Ḥa thua v́ không giữ được Miền Nam Tự Do. Đúng! Nhưng suốt trên hai chục năm (1954-1975) VNCH đă bảo tồn và phát huy được nền Văn hóa Dân tộc. Đó là một thắng lợi lớn lao.

 

Hơn hai chục năm đó, lănh đạo VNCH đă xây dựng được một nền dân chủ, tự do lành mạnh, tuy chưa hoàn hảo nhưng cũng đă đem lại hạnh phúc tự do no ấm cho người dân đồng thời tạo được uy tín và sự kính nể trên trường quốc tế. Chế độ VNCH đă xây dựng được nền giáo dục lành mạnh, bảo tồn và phát huy được nền văn hóa dân tộc rực rỡ vượt hẳn chế độ CS miền Bắc. Bao nhiêu tác phẩm văn học nghệ thuật mà ngụy quyền CS Hà Nội cho là đồi trụy, ủy mị của nhóm Tự Lực Văn Đoàn hay của các nhà văn tiền chiến như Đào Duy Anh, Vũ Ngọc Phan, Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Hồ Dzếnh, Huy Cận, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, Ngô Tất Tố, Bùi Hiển, và một số tác phẩm của Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, vân vân... đều được chế độ Việt Nam Cộng Ḥa ở Miền Nam trân trọng, cho tái bản và cho vào chương tŕnh giáo dục để các học sinh, sinh viên học hỏi. Ngay tác phẩm của một số các nhà văn, nhà thơ tiền chiến c̣n ở Miền Bắc đă gia nhập Đảng Cộng Sản vẫn được Miền Nam trân trọng v́ giá trị văn học và lịch sử. Chẳng qua v́ miếng cơm manh áo họ đă phải mang thân phận “bồi bút”. Rơ ràng nhất là những nhà văn nổi tiếng ở Miền Bắc có sáng tác được những tác phẩm độc đáo như khi họ c̣n sống trong thời tiền chiến hay không? Tuyệt nhiên là không. V́ sống trong chế độ độc tài, bị tước đoạt hết quyền tự do, thời khả năng sáng tác của họ đă bị thui chột! Trái lại ở Miền Nam, dưới chế độ Cộng Ḥa, mọi người được tự do sáng tác. Ngay những kẻ “ăn cơm quốc gia, thờ ma Việt Cộng” điển h́nh như học giả Nguyễn Hiến Lê đă biên soạn được hơn 100 tác phẩm. Giả sử Nguyễn Hiến Lê sống ở Miền Bắc dưới chế độ Cộng Sản thời ông có thể thoải mái ngồi đọc, viết và xuất bản như ở Miền Nam hay không? Chắc chắn là không và số phận của ông chắc chắn cũng không hơn ǵ Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo!  

 

Sau khi tấn chiếm được Miền Nam, CSBV phát động phong trào “bài trừ văn hóa đồi trụy” bằng việc hô hào, gom góp, tịch thu sách vở, văn hóa phẩm của Miền Nam đem đốt sạch! Vậy mà chỉ sau một thời gian thất bại ê chề, chúng vội vàng phải cởi trói, phải đổi mới! 

 

Những ǵ Cộng Sản Bắc Việt đă kích VNCH với tất cả những ngôn từ tồi tệ và bỉ ổi nhất th́ nay lại tận t́nh khai thác đón nhận trở thành cái “mode” của thời đại. Cứ coi lại nền âm nhạc nghệ thuật của VNCH, những ca khúc t́nh cảm, gọi là “nhạc vàng” trước kia chúng chê là thứ văn hóa đồi trụy nay chúng lầy ra sử dụng và thưởng thức hằng ngày với cái tên mới là nhạc “bolero”. Về văn học cũng vậy, hầu như chúng cho tái bản, cho in thả giàn các tác phẩm văn học và không c̣n dùng những ngôn từ hạ cấp để mạ lị phỉ báng nữa. Và nếp sống văn minh th́ sao? Hầu như chúng phục hồi toàn vẹn. Dân chúng Miền Bắc thích học theo nếp sống văn hóa của Miền Nam. Từ lối ăn mặc đến cách xử thế rập khuôn và bắt chước của VNCH. Thậm chí như mẫu áo dài theo kiểu vẽ thời trang do bà Ngô Đ́nh Nhu thực hiện để làm đẹp cho phụ nữ nay lại được cả nước khai thác tận t́nh, khai triển, vẽ kiểu cho đẹp và tân tiến hơn. Vân vân và vân vân. Cung cách đó (của Cộng Sản) được mệnh danh là “mạnh chống mạnh chấp”. Cộng Sản càng chửi, càng chê, thời chúng lại càng ôm vào. Chưa nói đến tiến tŕnh dân chủ hóa đất nước theo đúng xu thế của văn minh nhân loại, Miền Nam đă đi trước miền Bắc 20 năm.

 

Chế độ Việt Nam Cộng Ḥa chỉ tồn tại được 21 năm tại Miền Nam. Nền móng chế độ là do TT Ngô Đ́nh Diệm xây dựng. Chế độ VNDCCH tại Miền Bắc là do Hồ Chí Minh và tập đoàn Việt Cộng dựng nên theo chỉ thị của Cộng Sản Quốc Tế điển h́nh là hai đàn anh Nga Sô và Trung Cộng đă tồn tại trên 70 năm. Hai chế độ đó đối nghịch nhau và được biểu tượng bằng hai nhân vật Ngô Đ́nh Diệm và Hồ Chí Minh. Chế độ chính trị ở Miền Nam sau cuộc đảo chánh 1-11-1963 vẫn là chế độ Cộng Ḥa, một chế độ kéo dài của nền Đệ Nhất. Thay đổi lănh đạo, dù có kém cỏi, nhưng về mặt văn hóa giáo dục vẫn tiến mạnh trên cơ sở “Nhân bản, Khai phóng và Dân Tộc”.

 

Hai nhân vật Ngô Đ́nh Diệm và Hồ Chí Minh không c̣n nữa nhưng ảnh hưởng và dư âm vẫn c̣n nguyên vẹn. Ai tốt ai xấu lịch sử đă ghi lại và phê phán. Các nhân vật lănh đạo sau cuộc đảo chính ngày 1-11-1963 chỉ là cái bóng mờ trước một Ngô Đ́nh Diệm đạo đức, liêm khiết, yêu nước, thương dân, dám chết v́ bảo vệ chủ quyền Dân Tộc. Miền Bắc sau cái chết của ông Hồ Chí Minh cũng thế. Tập đoàn CSVN như Lê Duẩn, Trưởng Chính, Phạm Văn Đồng, Vơ Nguyên Giáp cũng chỉ là những cái bóng mờ trước nhân vật Hồ Chí Minh! Hai nhân vật đó đă được người dân nhận biết, so sánh, đánh giá. Ai hay ai dở? Ai đạo đức, ai phi đạo đức ? Ai yêu nước ai là kẻ bán nước? Ai bảo vệ chủ quyền? Ai làm tay sai cho ngoại bang? Vân vân và vân vân?  T́m hiểu sự thật lịch sử về hai nhân vật sẽ t́m ra câu trả lời cho vấn nạn: V́ sao Cộng Sản thù ghét TT Ngô Đ́nh Diệm?

 

 

(Xin mời đọc phần 2)

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính