Những lời trối trăng của ông Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu

- 02 -

Cần Lao Nhân Vị Cách mạng Đảng

 

Phạm Quang Tŕnh

 

 

Ngô Đ́nh Diệm. Nguồn: Britannica

 

 

Trong bản nói chuyện được ghi âm ngày 17-03-1962, ông Ngô Đ́nh Nhu không hề nhắc đến Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng do ông sáng lập và là Tổng Bí Thư, mà chỉ nói đến Lư Thuyết Nhân Vị, phải chăng ông đă bỏ quên Đảng Cần Lao? Theo thiển ư, không hẳn như vậy. Để hiểu rơ, người viết xin lược thuật lại một số sự kiện xảy ra sau ngày 1-11-1963.

 

Sự thất bại nặng nề của nhóm tướng lănh sau cuộc đảo chánh 1-11-1963

 

Năm 1963 có thể nói là cao điểm của Đệ Nhất Cộng Ḥa. Lư thuyết Nhân vị đă được đưa vào Hiến Pháp 26-10-1956 và đang được thực hiện qua quốc sách Ấp Chiến Lược với chủ trương Nhân Vị – Cộng Đồng – Đồng Tiến. Tất cả các chương tŕnh của Chính phủ đều được thực thi trên cơ sở ấy. Các bài diễn văn hoặc thông điệp của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm ít nhiều đều đề cập đến chủ thuyết Nhân Vị – một chủ thuyết đấu tranh nhằm bảo vệ nhân phẩm và quyền tự do của con người. Nhưng cuộc đảo chánh 1-11-1963 đă xẩy ra th́ việc thực thi chủ thuyết Nhân Vị bị chấm dứt. Từ đây, đám phản tướng và lũ côn đồ đội lốt Tôn giáo đă cố t́nh vẽ lại h́nh ảnh Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng như một thứ công cụ ác ôn của chế độ và quên đi biết bao công tŕnh mà Đảng viên Cần Lao đă đóng góp xây dựng cho nền Cộng Ḥa Việt Nam. Bọn này ra sức truy lùng các Đảng viên Cần Lao để bắt giữ, tống tiền, đồng thời phá hủy công tŕnh chống Cộng do Quốc Sách Ấp Chiến Lược mang lại đang trên đà thắng lợi. Nhưng thật ô nhục cho chúng, khi cái gọi là cuộc “Cách Mạng 1-11-1963” chưa được đầy 3 tháng th́ t́nh h́nh Việt Nam trở nên tồi tệ chưa từng thấy nên CIA đă phải xóa bài làm lại qua cái gọi là cuộc Chỉnh Lư của Nguyễn Khánh ngày 30-01-1964 chấm dứt vai tṛ lănh đạo của nhóm này.

 

Thật vậy, khi nắm được chính quyền rồi, đám phản tướng từ Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính đến Trần Thiện Khiêm, Mai Hữu Xuân không biết làm ǵ cả. Hội Đồng Nhân Sĩ với trên sáu chục nhân vật, bao gồm cả mấy ông trong nhóm Caravelle trước đây ồn ào th́ nay có cơ hội vẫn chỉ họp bàn mà không đưa ra được giải pháp. Chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ bị dư luận gọi đích danh là “Chính phủ rùa” v́ chậm chạp và bất lực! Nói tóm lại, thành phần mới này chỉ có tài phá hoại mà không có khả năng xây dựng.  Những sự kiện sau đây đă cho thấy tài phá hoại ác ôn của họ:

 

– Giết hại cách dă man Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu cùng một số chiến sĩ (Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Đại Tá Lê Quang Tung, Lê Quang Triệu…).

 

– Truy lùng các nhân vật và những Đảng Viên Cần Lao liên hệ đến chế độ để bắt giữ và tống tiền. Điển h́nh nhất là trường hợp ông Huỳnh Văn Lang, nguyên Giám Đốc Viện Hối Đoái bị nghi ngờ là giữ tiền cho Đảng Cần Lao.

 

– Nhận tiền để thả tù Việt Cộng gồm những thành phần gián điệp mà Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung đă bắt giữ, trong đó có những tên nguy hiểm như Trần Quốc Hương tức Mười Hương và Đại tá Lê Câu. Nổi tiếng tham nhũng để thả tù Việt Cộng chính là Dương Văn Minh, Mai Hữu Xuân và Đỗ Mậu. Sau đó, Hà Thúc Kư khi làm Bộ Trưởng Nội Vụ thời Nguyễn Khánh đă thả hết tù đang bị giam tại Tổng Nha Cảnh Sát kể cả những kẻ bị t́nh nghi là Cộng Sản (Hà Thúc Kư: Sống C̣n Với Dân Tộc, trang 242).

 

– Dương Văn Minh Chủ Tịch Hội Đồng Quân Đội Cách Mạng tuyên bố công khai hủy bỏ Quốc Sách Ấp Chiến Lược. Nội trong ngày 2-11-1963 có tới 800 Ấp Chiến Lược bị phá huỷ. Sau lời tuyên bố của Dương Văn Minh th́ con số Ấp Chiến Lược bị phá hủy đă tăng lên trên 3000 trong tổng số 8000 ấp. Sự phá hủy với con số lớn lao đó đă làm cho hệ thống an ninh nông thôn trở nên nguy ngập và là kẽ hở cho Việt Cộng xâm nhập. Thật chưa có cái hại nào như cái hại này!

 

Lúc đó, hàng ngũ Cán bộ Quốc gia không ai c̣n đủ niềm tin và can đảm dấn thân chống Cộng tích cực v́ sợ bị chụp cho cái mũ “Cần Lao ác ôn”. Suốt hai năm từ 1963 đến 1965, đảo chính xảy ra liên miên như cơm bữa. Các nhân vật lănh đạo và đám phản tướng rớt như sung rụng. Cán bộ hạ tầng không biết nghe ai mà hành động. Kết quả chỉ làm lợi cho Việt Cộng. Phải đợi đến nhóm tướng trẻ Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ xuất hiện với hậu thuẫn mạnh mẽ của Hoa Kỳ thời t́nh h́nh mới được văn hồi. Trong lịch sử chưa có ông tướng nào tham, hèn, ngu như Dương Văn Minh:

    

     Đất nước yên vui, cam phận chó săn làm đảo chánh (1-11-1963)

     Non sông nghiêng ngửa, hoá thân ngựa chiến lại đầu hàng (30-04-1975)

 

Nhóm phản tướng Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Tôn Thất Đính,  Đỗ Mậu… đều bị mất chức. Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính sau đó ra ứng cử vô Thượng Nghị Viện năm 1967 chỉ được một nhiệm kỳ. Năm 1970, có cuộc rút thăm một nửa phải được bầu lại. Trần Văn Đôn bị loại, liền chạy theo Thích Trí Quang, ra Quảng Ngăi ứng cử Dân Biểu Pháp nhiệm 2 (1971-1975). Đắc cử vào Hạ Nghị Viên rồi, Trần Văn Đôn liền trở mặt chạy theo phe thân chính được bố thí cho chức Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Pḥng, quay lại đá cho Thích Trí Quang một vố đau điếng. Riêng Nguyễn Khánh khi lên cầm quyền đă không ngần ngại ra lệnh cho “Ṭa Án Cách Mạng” lên án tử h́nh ông Ngô Đ́nh Cẩn theo chỉ thị của Thích Trí Quang và Cabot Lodge.

 

Nhóm dân sự ra sao?

 

Trước hết phải kể đến nhóm Caravelle gồm 18 nhân vật đă gửi Tuyên Ngôn cho Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm ngày 26-04-1960. Nhóm có tên là Nhóm Tự Do Tiến Bộ nhưng v́ hội họp ở khách sạn Caravelle Sài G̣n nên được dư luận đặt cho cái tên là Nhóm Caravelle. Bản Tuyên Ngôn của nhóm dài ba trang đề cập đến t́nh h́nh chung về các mặt chính trị, quân sự, kinh tế xă hội của Miền Nam dưới sự lănh đạo của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Qua nội dung, ai cũng có thể nhận ra tuyên ngôn được viết rất là phiến diện, hàm hồ, không có dẫn chứng cụ thể. Chính ông Ngô Đ́nh Nhu đă mời cả 18 nhân vật vào Dinh Gia Long họp bàn để lấy ư kiến. Ông Nhu yêu cầu nhóm Caravelle viết cụ thể chương tŕnh và đề nghị cải tổ những ǵ, nhưng các ông về rồi chẳng làm ǵ cả. Kinh nghiệm cho biết các ông chỉ muốn kiếm ghế. Thực tế, sau ngày 1-11-1963, các ông Phan Khắc Sửu, Phan Huy Quát, Trần Văn Văn, Trần Văn Tuyên, Nguyễn Tiến Hỷ, Trần Văn Hương, Trần Văn Đỗ, Nguyễn Lưu Viên, vân vân đă có cơ hội tham chính mà chẳng làm nên tṛ trống ǵ. Ông Phan Khắc Sửu được đề cử làm Quốc Trưởng, ông Phan Huy Quát và ông Trần Văn Hương đều được mời ra làm Thủ Tướng, ông Trần Văn Đỗ làm Tổng Trưởng Ngoại Giao, hai ông Nguyễn Lưu Viên và Trần Văn Tuyên làm Phó Thủ Tướng, vân vân. Ông nào cũng chỉ ngồi được vài ba tháng là phải từ chức v́ bất lực, ngoại trừ BS. Nguyễn Lưu Viên được dư luận chính giới cho cái tên là “Viên tṛn”, thời nào cũng uốn ḿnh theo để kiếm ghế suốt từ Chính phủ này đến Chính phủ khác.

 

Động lực nào đă thúc đẩy nhóm Caravelle đưa Tuyên Ngôn? Thưa chính Ṭa Đại Sứ Mỹ đă móc nối, xúi giục nhóm Caravelle viết bản kiến nghị gọi là để xin cải tổ mà thực chất là chống đối, đ̣i chia quyền, chia ghế theo. Tài liệu dẫn chứng (bài viết của Lê B́nh (trang 137, 138, 139…) trong Đặc San 2012 của Hội Ái Hữu Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại với chủ đề “Khí phách nhà lănh đạo quốc gia” th́ hai điều rơ ràng nhất về sự liên lạc giữa Ṭa Đại Sứ Mỹ với nhóm Caravelle là: Một (01) Trần Văn Văn đă tiếp xúc với Ṭa Đại Sứ Mỹ ở Sài G̣n ngày 16-03- 1960. (02) Nội dung của Bản Tuyên Ngôn công bố hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Ṭa Đại Sứ Mỹ.

 

Những đ̣i hỏi này trong hoàn cảnh chiến tranh chống Cộng Sản vào thời đó khó mà chấp nhận được. V́ sao?

 

Duncanson, một nhà b́nh luận người Anh cũng đă phải viết: “Nếu bản kiến nghị này được đưa ra trong điều kiện chính trị ổn định của một Miền Nam không bị CS Hà Nội đe dọa tiêu diệt, th́ đó là một yêu sách đáng cứu xét nghiêm chỉnh. Điều đáng tiếc nhất là khi Cộng quân đă tấn công đến cấp trung đoàn và các vụ sát hại các viên chức chính phủ hầu như xảy ra hằng ngày, th́ đó là một yêu sách nếu không muốn bảo là ngớ ngẩn, th́ ít ra cũng bắt nguồn từ sự thiếu khôn ngoan”. (Bài viết trích lại của TS. Phạm Văn Lưu, Hiến Pháp 26.10.1956 và Thực Tại Chính Trị Miền Nam trong Đặc San 2006 của Hội Ái Hữu NVQG Hải Ngoại).

      

Cần nói rơ hơn về các nhân vật nổi bật này:

 

– Trước hết là ông Phan Khắc Sửu được đề cử làm Quốc Trưởng VNCH 26-10-1964 do Thượng Hội Đồng Quốc Gia bầu ra. Ở cương vị lănh đạo, đây là cơ hội ngàn năm một thuở, ông Phan Khắc Sửu nếu có thực tài đă làm nên đại sự. Thực tế, ông hoàn toàn bất lực v́ đă không ổn định được t́nh h́nh, nhất là sau khi có chuyện bất đồng với Thủ Tướng Phan Huy Quát kết quả là 2 ông đều phải từ chức.

 

– Ông Trần Văn Hương cũng được mời làm Thủ Tướng sau cuộc Chỉnh Lư 30-01-1964 khi Nguyễn Khánh dẹp bỏ Nội Các Nguyễn Ngọc Thơ 25-02-1964. Mới đầu, ai cũng nghĩ ông là “Ông già gân”; vậy mà đám côn đồ đội lốt tôn giáo biểu t́nh ồn ào chống đối, ông không đủ khả năng đối phó nên buộc phải từ chức.

 

– Luật sư Trần Văn Tuyên là người được tiếng là khôn ngoan đứng đắn, từng làm Phó Thủ Tướng trong Chính phủ Phan Huy Quát. Ông Phan Huy Quát làm Thủ Tướng chưa đầy 3 tháng th́ Nội Các sụp đổ nên ông Trần Văn Tuyên cũng đi theo. Năm 1971, ông Trần Văn Tuyên ra ứng cử và đắc cử Dân Biểu Hạ Nghị Viện, làm Trưởng Khối Dân Tộc Xă Hội mệnh danh là Khối Đối Lập, nhưng thực chất nhóm này chứa chấp cả những tên Dân Biểu thân Cộng như Hồ Ngọc Nhuận, Phan Xuân Huy, Kiều Mộng Thu, Ngô Công Đức mà ông không hay biết (!?).

 

Sau 30/04-1975, ông Trần Văn Tuyên bị Việt Cộng bắt đi cải tạo và chết thảm trong ngục tù ở ngoài Miền Bắc. Hồ Ngọc Nhuận trong hồi kư “ĐỜI”, chương VI “Tù Cũ, Tù Mới”, trang 6 có nói đến LS Trần Văn Tuyên: “Hôm gặp nhau khi đi tŕnh diện với Quân Quản ở trụ sở Hạ Viện, anh Tuyên c̣n lạc quan nói với tôi: “Chế độ mới không có luật sư, nhưng tôi hy vọng sẽ được làm bào chữa viên nhân dân” … Pháp đ́nh chế độ mới có “bào chữa viên nhân dân” thiệt, nhưng không có anh, cũng không có hàng ngũ luật sư, cũng không có “nhân dân”. Chỉ có cán bộ không hà.” Bởi đó, có người đưa ra nhận xét: “Không ai khôn ngoan mà lại ngây thơ như ông Trần Văn Tuyên!”

 

– BS. Nguyễn Tiến Hỷ, thuộc Việt Nam Quốc Dân Đảng, được TT Nguyễn Văn Thiệu mời làm Quốc Vụ Khanh đặc trách Nội Vận năm 1971. Người viết có lần đến thăm ông ở Văn Pḥng để tŕnh bày về việc xây dựng và củng cố hàng ngũ Cán Bộ Quốc Gia. Ông tiếp chuyện cởi mở, vui vẻ, nhưng khi đề cập đến công tác nội vận th́ ông quay ra đả kích dữ dội TT Nguyễn Văn Thiệu khiến người viết hết sức ngạc nhiên! Chỉ mấy tháng sau, ông từ chức.

 

– Sau cùng phải nói đến nhân vật được tiếng to mồm và ồn ào nhất là BS Phan Quang Đán. BS Đán từng tham chính thời Bảo Đại. Qua thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, Phan Quang Đán không được trọng dụng nên chủ trương viết báo và lập Đảng đối lập. V́ dính líu đến vụ phản loạn của phe nhóm Vương Văn Đông, Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Chánh Thi trong biến cố 11-11-1960, lên Đài Phát Thanh đả kích chính phủ, bị bắt nhốt ngoài Côn đảo. Sau 1-11-1963, Phan Quang Đán ứng cử và đắc cử Dân Biểu Quốc Hội Lập Hiến tháng 9-1966. Tiếp theo làm ứng cử viên Phó Tổng Thống trong Liên Danh Phan Khắc Sửu nhưng thất bại. Sau cùng nhờ Mỹ áp lực TT Nguyễn Văn Thiệu ban cho chức Quốc Vụ Khanh đặc trách  Khẩn Hoang Lập Ấp. Nhiều người cho rằng Phan Quang Đán là một trong những Bộ Trưởng dở nhất thời Việt Nam Cộng Ḥa.

 

Thật ra chẳng riêng ǵ Phan Quang Đán, mà hầu hết những nhân vật mệnh danh là chống lại chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đều thuộc loại hám danh mà làm việc dở. Họ muốn làm đại quan mà không có khả năng làm đại sự. Họ chỉ muốn chia ghế để có địa vị và quyền lợi. Nhưng với TT Ngô Đ́nh Diệm th́ khác. Ông không chấp nhận chuyện chia ghế. Ông nào có khả năng th́ chính phủ mời cộng tác. Điển h́nh như các nhân vật thuộc nhóm Caravelle, nhiều người đă được TT Ngô Đ́nh Diệm mời tham chính ngay từ năm 1954 như Phan Khắc Sửu, Trần Văn Đỗ, Trần Văn Hương nhưng họ có làm nên tṛ trống ǵ cả. Làm th́ dở, thấy nguy th́ bỏ chạy. Cho nên sau biến cố 1-11-1963, khi có cơ hội tham chánh, và kết quả cho thấy, tư cách và khả năng của họ chỉ là con số không.

 

 

Trường hợp Nhất Linh Nguyễn Tường Tam

 

Có một nhân vật đă gây nhiều thắc mắc là nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, trưởng nhóm Tự Lực Văn Đoàn, người từng đảm nhiệm vai tṛ Bộ Trưởng Ngoại Giao trong chính phủ Liên hiệp Hồ Chí Minh 1946, nhưng chỉ được ba tháng v́ bất đồng chính kiến th́ xin từ chức. Thời Quốc Gia Việt Nam (Quốc Trưởng Bảo Đại) và thời Đệ Nhất Cộng Ḥa (TT Ngô Đ́nh Diệm), ông Nguyễn Tường Tam hoạt động văn hóa, cho tái bản các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn và chủ trương tờ Văn Hóa Ngày Nay. Cũng dưới thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn và của Nhất Linh đă được Bộ Quốc Gia Giáo Dục đưa vào chương tŕnh Trung Học. Tưởng chưa có một vinh dự nào lớn lao đối với một nhà văn như Nhất Linh khi c̣n sinh thời và Tự Lực Văn Đoàn đă được chính quyền xử sự như thế. Điều đó chứng tỏ nền Đệ Nhất Cộng Ḥa và riêng cá nhân TT Ngô Đ́nh Diệm rất nể trọng Tự Lực Văn Đoàn và cá nhân nhà văn Nhất Linh. Thật sự th́ không ai có thể phủ nhận công tŕnh văn học của Tự Lực Văn Đoàn và nhà văn Nhất Linh. Cho nên, việc chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đưa các tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn vào chương tŕnh Trung Học là đúng đắn, rất đáng hoan nghênh. Nhưng không hiểu tại sao Nhất Linh lại bị tố cáo có dính líu vào cuộc Binh Biến ngày 11-11-1960 của bè nhóm Vương Văn Đông, Hoàng Cơ Thụy, Nguyễn Chánh Thi để đưa ông đến chỗ uống thuốc độc tự tử ngày 7-7-1963 qua cái gọi là bản di chúc chính trị nguyên văn như sau:

“Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất vào tay Cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy ḿnh, cũng như Ḥa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, để cảnh cáo những người chà đạp  mọi thứ tự do.” Nhất Linh Nguyễn Tường Tam  7-7-63.

 

V́ dính vào vụ 11-11 nên ông bị Toà Án Quân Sự Đặc Biệt gửi trát ṭa gọi ra lấy khẩu cung. Qua khẩu cung th́ ông chối không hoạt động chính trị và cũng không dính líu ǵ đến vụ phản loạn nói trên. Qua tài liệu -Trong Bóng Tối Lịch Sử- xuất bản năm 2008- của Cựu Luật sư Lê Nguyên Phu nguyên Đại Tá Ủy Viên Chính Phủ trong Toà Án Quân Sự Đặc Biệt từ trang 188-191, nhân vật Nhất Linh được ghi lại nguyên văn như sau:

    

“Nhóm Hoàng Cơ Thụy là nhóm dân sự duy nhất biết trước vụ Binh Biến. C̣n những người khác như Phan Quang Đán, Phan Khắc Sửu, Vũ Hồng Khanh, Phan Bá Cầm, Bùi Lượng, Đinh Xuân Quảng, Nguyễn Thành Phương, Nguyễn Tường Tam cùng đám thuộc hạ em út gồm Trương Bảo Sơn, Nguyễn Thành Vinh, Vĩnh Lợi, Trần Tương v.v… đều là những người lúc nghe tiếng súng nổ mới chạy đến hiện trường, hoan hô đả đảo cho rậm đám. Đây là những người không được mời ăn cỗ, nhưng nghe có đ́nh đám chạy đến để ăn có. Nhóm Caravelle không dự vào vụ Binh Biến này, không có mặt tại chỗ, và không hề bị truy tố ra Ṭa Án Quân Sự Đặc Biệt trong vụ này, thế mà sau, tên cầm cờ chạy hiệu Trần Tương viết sách khoa trương láo khoét đă lôi họ vào nội vụ để có chút thơm lây.

    

Trong số những thực khách không mời mà đến ăn có, tôi chỉ nhắc đến hai trường hợp của Phan Quang Đán và Nguyễn Tường Tam.

   

Trước tiên là trường hợp Phan Quang Đán, Nguyễn Chánh Thi cảm thấy lẻ loi trong nhóm Vương Văn Đông, nên khi thấy Phan Quang Đán xuất hiện trước Dinh Độc Lập, vội vàng kéo Phan Quang Đán về phe y, cho làm phát ngôn của Thi để cân bằng thế lực với nhóm Vương Văn Đông có Hoàng Cơ Thụy trợ thủ. Phan Quang Đán lên Đài Phát Thanh chửi rủa nhục mạ chính quyền một cách thô lỗ, nhưng lúc bị bắt ra ṭa th́ mềm nhũn như con chi chi, thái độ ươn hèn khiếp nhược.

    

C̣n trường hợp của Nguyễn Tường Tam lại khác hẳn. Nguyễn Tường Tam có tư cách hơn. Sở dĩ tôi nhắc đến Nguyễn Tường Tam là muốn nói rơ cho hậu thế biết cái chết của ông và nguyên nhân đă đưa ông đến cái chết ấy.

    

Nguyễn Tường Tam sau khi bị điều tra sơ khởi tại Nha Cảnh sát, Nha An Ninh Quân Đội và thẩm vấn sau cùng tại Ṭa Án Quân Sự Đặc Biệt, đă được Đại Tá Lê Văn Khoa ủy viên chính phủ phóng thích ngay, không bị giam giữ một ngày nào. Trong biên bản do chính Đại Tá Lê Văn Khoa thẩm vấn, Nguyễn Tường Tam khai thực sự không biết ǵ về nội vụ, không có tổ chức căng biểu ngữ, rải truyền đơn chống chính phủ trước Dinh Độc Lập. Nhưng sự việc này hoàn toàn do đám em út của ông (Trương Bảo Sơn, Nguyễn Thành Vinh, Vĩnh Lợi, Trần Tương v.v…) tự động làm ra ông ngăn không nổi. Ông thỉnh cầu Đại Tá Lê Văn Khoa đừng đem đối chất với nhóm thuộc hạ. Sự thỉnh cầu này được ghi rơ ở cuối biên bản thẩm vấn. Đại Tá Lê Văn Khoa chấp nhận lời thỉnh cầu, nên trong hồ sơ không có biên bản đối chất, mặc dầu các thuộc hạ của ông khai ngược lại là đă hành động theo lệnh của ông. Các thuộc hạ của Nguyễn Tường Tam đều bị Đại Tá Lê Văn Khoa tống giam, chỉ một ḿnh Nguyễn Tường Tam được tại ngoại hầu tra. Do đó các thuộc hạ của ông đều tỏ ra bất b́nh và oán hận, cho rằng chính ông đă đổ hết tội lên đầu của họ. Từ trong khám Chí Ḥa, Trương Bảo Sơn viết thư ra cho bà vợ  mới chắp nối là bà Nguyễn Thị Vinh chỉ trích Nguyễn Tường Tam đủ điều, nào là phản bội anh em, nào là thiếu tư cách lănh tụ v.v… Lá thư được giám đốc khám đường Chí Ḥa đệ tŕnh Ṭa Đặc Biệt và được lưu giữ lại trong hồ sơ. Lúc bấy giờ hồ sơ đă được Đại tá Lê Văn Khoa kết thúc và đă có án lệnh ra ṭa từ lâu, trước khi tôi đến thay thế Đại Tá Lê Văn Khoa. Tôi lưu giữ lá thư trong hồ sơ mà không cho chuyển đi chỉ v́ thiện ư. Tôi không muốn v́ lá thư này mà gia đ́nh các bị can bên ngoài phải trách cứ lẫn nhau, gây thêm sự xáo trộn trong cuộc sống. Nguyễn Tường Tam vẫn được sống tự do tại gia đ́nh.

 

Vụ án đă có án lệnh đưa ra ṭa, nên tôi quyết định không để kéo dài thêm nữa và cho đăng đường xét xử vào phiên ṭa ngày 5-7-1963. Theo thủ tục pháp lư, một can phạm bị truy tố về một tội đại h́nh, nếu được tự do tạm như trường hợp của Nguyễn Tường Tam, phải bị câu lưu lại 3 ngày trước phiên ṭa xử. Nhưng đối với Nguyễn Tường Tam, tôi không cho thi hành thủ tục này. Tôi viết thư mời Nguyễn Tường Tam (chứ không ra trát đ̣i) đến gặp tôi tại Ṭa Án Quân Sự Đặc Biệt. Nguyễn Tường Tam đến không sai hẹn, và được tôi tiếp đón nồng hậu. Chúng tôi đă đối diện tṛ chuyện suốt ba giờ đồng hồ, nghĩa là trọn suốt buổi sáng, tại pḥng khách riêng của tôi, không có người thứ ba tham dự, và đề tài đàm thoại, khởi đầu bằng chuyện văn chương, thế t́nh. Tôi đề cập trước tiên, từ những tác phẩm nổi danh của ông trong Tự Lực Văn Đoàn đến tờ Phong Hóa, Ngày Nay do ông chủ trương trước năm 1945 tại Hà Nội và đồng thời cho ông biết tôi rất hâm mộ tài hoa và sự nghiệp văn chương của ông. Mục đích của tôi là để ông yên tâm. Sau cùng tôi mới nói qua về lư do mời ông đến văn pḥng tôi. Tôi cho ông biết vụ Binh Biến 11-11-1960 sắp được đăng đường xét xử và yêu cầu ông ngày đó nhớ đi hầu ṭa. Đối với ông, tôi không cho tống dạt trát đ̣i hầu ṭa, cũng như không câu lưu thân thể (theo tiếng Pháp là prise de corps) trước ngày xử án. Tôi hứa sẽ tận t́nh giúp đỡ ông để sau phiên xử ông vẫn được thong thả và tự do trở về nhà. Thật là một sự dễ dăi chưa từng có trong phạm vi thủ tục pháp lư. Trước sự cởi mở của tôi, ông trầm  ngâm giây lát, tỏ ư cảm kích, và sau cùng hỏi tôi: “Ông ủy viên có thể giúp tôi thêm một chút nữa được không? Tôi xin ông ủy viên giúp tôi tránh khỏi phải đối chất với bọn đàn em thuộc hạ của tôi.”

    

 Tôi hiểu rơ ư muốn của ông, và lần này tôi cũng trầm ngâm như ông trước khi trả lời: “Điều ông yêu cầu thực sự ngoài quyền hạn của tôi, bởi v́ hồ sơ đă được đăng đường, trước ṭa chỉ có ông chánh thẩm là người duy nhất điều khiển phiên xử và có quyền quyết định tối hậu mọi thủ tục pháp lư. Tôi v́ ông sẽ không xin đối chất, nhưng nếu luật sư biện hộ cho thuộc hạ của ông yêu cầu đối chất, tôi sợ ông chánh thẩm khó ḷng từ chối. V́ vậy mà tôi không thể hứa chắc về điểm này. Tôi phải tôn trọng ông chánh thẩm trước ṭa”.

    

Câu nói của tôi là một câu nói thành thật chí t́nh.

      

Nhưng nghe xong Nguyễn Tường Tam trở nên ray rứt, băn khoăn vô hạn. Ông cúi đầu suy nghĩ. Và trong câu chuyện tiếp theo, ông luôn luôn trở lại vấn đề đối chất và nhiều lần nhắc nhở tôi cố gắng giúp đỡ ông. Đó là lư do v́ sao câu chuyện đàm thoại giữa chúng tôi đă kéo dài ba giờ đồng hồ, suốt một buổi sáng. Lúc tiễn ông ra cửa, tôi thấy ông đi thất thểu, nhưng tôi không nghĩ rằng v́ vấn đề đối chất này mà ông phải tự tử sau đó. Lúc được tin ông đă qua đời, suy nghĩ kỹ lại, tôi mới nhận rơ điều ông yêu cầu là một điều tối quan trọng đối với ông. Ông không muốn đối diện với bọn đàn em và đối chất với họ trước Ṭa, v́ đó là một điều sỉ nhục, mất thể diện trọng đại. Trước Ṭa, nếu ông tiếp tục giữ lập trường không liên quan vào nội vụ, trong khi bọn đàn em của ông lại nhất quyết cho ông là người cầm đầu, th́ cái danh vị lănh tụ của ông sẽ tiêu tan, và nhân phẩm của ông cũng bị tổn hại rất nhiều. Cho nên chỉ c̣n một lối thoát duy nhất là để tránh sự đối chất là tự tử. Lối thoát này đă giúp ông bảo tồn danh dự và tư cách lănh tụ, nâng cao nhân phẩm cá nhân và có thể đưa ông vào lịch sử.

    

Chết là hết! Chết là vạn sự hư không! Nếu cái chết của Nguyễn Tường Tam đến đây chấm dứt, th́ có thể nói đó là  một cái chết rất đẹp đẽ, đáng tôn vinh như một điểm son rực rỡ trong cuộc đời chính trị của ông!

    

Nhưng tiếc thay, điểm son rực rỡ ấy đă bị ông xóa nḥa, bôi đen bằng một mảnh giấy nhỏ được ông để lại khi lâm chung. Trên mảnh giấy ấy ông cho biết ông tự tử v́ không muốn bị xét xử trước ṭa án của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm và xin để lịch sử xét ông về sau. Những ḍng chữ này không biết có đánh lạc hướng được lư do tự tử của ông hay không, nhưng chắc chắn đă hạ thấp phẩm giá của ông rất nhiều. Cho đến giờ phút lâm chung ông vẫn c̣n chưa đạt, v́ chưa bỏ được tham vọng lợi danh của ḿnh, chưa giác ngộ  được hành vi tốt hay xấu của ḿnh đối với anh em đồng chí, mà vẫn c̣n huynh hoang tiếp tục dối trá người đời.  Ông nói không muốn để ṭa án chính quyền Ngô Đ́nh Diệm xét xử ông, nhưng thực sự khi ông ra khai cung tại Pḥng Dự Thẩm Ṭa Án Quân Sự Đặc Biệt th́ ông đă bị ṭa án của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm xét xử rồi, v́ trong cơ chế pháp lư, Dự thẩm được xem như là một cấp xử án riêng biệt (une jurisdiction à part), có quyền định tội danh của can phạm, cải tội danh, ra án lệnh miễn tố hay truy tố ra ṭa khi tội danh đă được xác định.

    

Vụ tự tử của Nguyễn Tường Tam về sau có nhiều người khai thác, dựa vào đó để làm nấc thang danh vọng, kể cả những người từng oán hận ông như Trương Bảo Sơn. Sau vụ đảo chánh 1-11-1963, họ được trả tự do, vội vàng tổ chức lễ truy điệu Nguyễn Tường Tam rất trong thể tại Vườn Tao Đàn, để rồi sau đó mỗi người được chính quyền quân phiệt tưởng thưởng một số tiền lớn có thể mua nhà cửa, phố xá, mở tiệm buôn, tiệm thuốc tây v.v… Có người c̣n được gia nhập chính quyền, học ăn học nói ở Thượng Hạ Nghị Viện. Tôi muốn hỏi những đàn em của Nguyễn Tường Tam họ có bao giờ nghĩ rằng Nguyễn Tường Tam chết cũng v́ những lời bài xích xa gần của họ.”

 

Qua những ḍng trên đây cho thấy Nhất Linh thật sự có tham dự vào âm mưu đảo chánh 11-11-1963 nhằm lật đổ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm. Chính con út ông là Nguyễn Tường Thiết trong hồi kư Nhất Linh Cha Tôi do Văn Mới xuất bản năm 2006 trang 29-30 đă xác nhận điều đó: “Thế rồi ông quyết định giă từ tất cả. Đà Lạt, Fim Nôm, ḍng Đa Mê và cả trăm giỏ lan mà ông đă chăm sóc từ hai năm qua, để về luôn Sài G̣n, chấm dứt cái thời kỳ mà ông Lê Hữu Mục đă viết trong đoạn kết cuốn sách của ông là “một Nhất Linh nằm trùm chăn ở trên Đà Lạt”. Đối với tôi, thật bụng tôi chỉ mong ông được nằm trùm chăn lâu hơn v́ đây chính là thời gian hạnh phúc nhất trong đời ông mà tôi được biết. Nhất Linh “xuống núi” lăn vào cuộc đời làm báo, tham gia đảo chính, thất bại, đi trốn, bị đưa ra ṭa, đưa đến cái tự vẫn của ông mấy năm sau, mở đầu một thời kỳ cuối cùng của đời ông với nhiều năo nề, nhiều chán chường hơn”.

 

Đă tham gia đảo chính nhưng tại sao Nhất Linh lại phủ nhận tất cả hành động của ḿnh trước Ṭa Án Quân Sự Đặc Biệt? Tại sao sau vụ đảo chánh, Nhất Linh lại chạy vào Ṭa Đại Sứ Trung Hoa Quốc Gia để trốn tránh? Đọc đoạn viết của LS Lê Nguyên Phu trên đây cũng như đọc mục “Niềm Vui Chết Yểu” từ trang 31-51 trong Nhất Linh Cha Tôi của Nguyễn Tường Thiết cho thấy tâm trạng lo âu sợ sệt của Nguyễn Tường Tam. Tại sao lại sợ và tại sao phải chọn cái chết? Mỗi người có thể suy luận theo nhận định riêng của ḿnh.

 

Ông Nguyễn Văn Lục trong cuốn “Một Thời Để Nhớ” do Diễn Đàn Giáo Dân xuất bản năm 2011 nơi các trang 187-188 cho rằng Nhất Linh chọn cái chết v́ bệnh tâm thần. Xin trích một đoạn sách của ông Nguyễn Văn Lục: “Trong số những nhân vật bị bắt, có nhân vật quan trọng như một thứ biểu tượng thống lănh và uy tín hàng đầu. Đó là ông Nhất Linh. Trước đây không lâu, tôi có viết một bài nhan đề “Trường hợp Nhất Linh, một cái chết định trước”. Trong đó tôi cho rằng Nhất Linh mắc bệnh tâm thần, bị ám ảnh thường trực ư muốn tự tử. Và cơ hội đă đến trong dịp bị gọi ra ṭa về vụ đảo chánh hụt 11-11-1960. Có rất nhiều ư kiến phản bác. Nay cơ hội cho tôi có dịp khẳng định lại một lần nữa để nhận ra suy diễn của tôi không phải là vô bằng cớ mà có căn cơ đứng đắn, có cơ sở lư luận và có chứng liệu thực tiễn.” Ông Nguyễn Văn Lục c̣n nêu ra những nhận xét của những người thân thiết với nhà văn Nhất Linh như Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm, Thế Uyên đều xác nhận Nhất Linh mắc bệnh tâm thần hay suy nhược thần kinh. Bài viết và tác phẩm của ông Nguyễn Văn Lục đă làm dư luận xôn xao trong đó, Nguyễn Tường Thiết là con út của Nhất Linh đă viết ba bài phản bác kịch liệt trên các Diễn Đàn Internet để bênh vực cho cha.

 

Nguyễn Tường Tam viết rằng đời ông để Lịch sử xét xử. Cái chết của ông đă ngót nửa thế kỷ. Chế độ Đệ Nhất Cộng Ḥa cũng đă bị lật đổ ngót nửa thế kỷ. Bao nhiêu tài liệu đă được giải mật, phơi bày, chẳng c̣n ǵ giấu kín. Những lời của LS Lê Nguyên Phu và của Nguyễn Tường Thiết viết ra về Nhất Linh đă làm sáng tỏ về con người của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam: “Nhất Linh xuống núi, lăn vào chính trị, tham gia đảo chính hụt, thất bại, sợ sệt, trốn tránh, bị điều tra và ở thế cùng, chọn cái chết”, chứng tỏ Nhất Linh không phải là người có bản lĩnh chính trị, không có viễn kiến chính trị. Nhất Linh thành công về văn học và thất bại ê chề về chính trị.

 

Người viết tự hỏi: nếu quả thực nhà văn Nhất Linh không dính ǵ vụ Binh Biến 11-11-1960 th́ tại sao lại phải trốn tránh, và tại sao lại nài nỉ xin Ủy viên chính phủ Lê Nguyên Phụ tránh cho chuyện đối chất với thuộc hạ đàn em? C̣n nếu Nhất Linh đă có gan tham gia Binh Biến th́ tại sao không có gan đứng trước Ṭa Án Quân Sự Đặc Biệt mạnh dạn phản bác mọi cáo buộc, công khai lên án sự chà đạp tự do của chính quyền Ngô Đ́nh Diệm? Nếu Nhất Linh có can đảm làm như thế th́ liệu chính quyền Ngô Đ́nh Diệm có dám kết án nặng nề hay phải nhượng bộ ông? Nếu Nhất Linh có viễn kiến chính trị, nh́n thấy sự thay đổi sẽ xẩy ra trong tương lai gần trong tinh h́nh xáo trộn tháng 7/1963, th́ có lẽ Nhất Linh đă không tự tử. Biết đâu rằng sự gan dạ và mạnh dạn ra Ṭa Án sẽ là một bản Cáo Trạng lớn lao hơn với chế độ và là một thành tích lẫy lừng của Nhất Linh để sau khi biến cố 1-11-1963 xảy ra sẽ đưa Nhất Linh lên hàng lănh đạo quốc gia, vượt xa những Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm? Thật tiếc cho ông đă bỏ lỡ mất cơ hội ngàn năm một thuở.

 

Theo thiển ư, muốn đấu tranh kết quả, ít nhất phải giữ mạng sống của ḿnh đă. Bị bắt ra Ṭa đâu có phải là điều sỉ nhục. Trong lịch sử đấu tranh, có hàng ngàn, hàng vạn, hàng triệu người bị đưa ra Ṭa có sao đâu. Chỉ có gian dối hay có điều ǵ khuất tất sợ sự thật mới trốn tránh. Nhất Linh đă không làm thế? Nhất Linh muốn đời ông để lịch sử xét xử th́ nay sự thật lịch sử đă được phơi bày rồi đó kể cả sự thật về Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Lịch sử cho thấy mọi biến cố chính trị liên hệ đến Việt Nam Cộng Ḥa đều có bàn tay của ngoại bang. Bàn tay ấy giống như một con bạch tuộc với trăm ngàn cái ṿi đă len lỏi, thọc sâu vào mọi cơ cấu từ thượng tầng đến hạ tầng quốc gia để đạo diễn mọi biến cố rất tinh vi mà người đương thời ít ai biết được. Cái chết của Nhất Linh không chắc đă đem lại ích lợi ǵ cho đất nước, nhưng rơ ràng là giúp thêm cho chiến dịch tuyên truyền lưu manh của ngoại bang đang muốn khai thác nhằm lật đổ chế độ Cộng Ḥa Việt Nam với TT Ngô Đ́nh Diệm, một người mà thù phải sợ, bạn phải nề.

 

 

Trường hợp Giáo sư Vũ Văn Mẫu: kẻ khôn làm đầy tớ thằng ngu hai lần!

 

Khi Mỹ âm mưu lật đổ TT Ngô Đ́nh Diệm  và nền Đệ Nhất Cộng Ḥa bằng việc mua chuộc một số tướng lănh đóng vai tṛ chủ chốt th́ mặt khác, Mỹ cũng liên hệ và mua chuộc những nhân vật dân sự bằng những hứa hẹn quyền lợi và chức tước. Những nhân vật đó gồm: Ông bà Đại sứ Trần Văn Chương ở Hoa Kỳ, Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống Nguyễn Đ́nh Thuần, Chánh Văn Pḥng Phủ Tổng Thống Vơ Văn Hải và đặc biệt là Bộ Trưởng Ngoại Giao Vũ Văn Mẫu. Người viết muốn nhấn mạnh đến nhân vật Vũ Văn Mẫu ở đây.

 

Giáo sư Vũ Văn Mẫu có bằng Thạc sĩ Tư Pháp, được chính phủ Ngô Đ́nh Diệm cho làm Khoa Trưởng Trường Đại Học Luật Khoa Sài G̣n, sau cất nhắc lên làm Bộ Trưởng Ngoại Giao từ 1955 đến 1963. Trên cương vị Bộ Trưởng Ngoại Giao, nhờ nội bộ ổn định và nhất là bằng vào uy tín của chính quyền  Đệ Nhất Cộng Ḥa và cá nhân TT Ngô Đ́nh Diệm, Giáo sư Vũ Văn Mẫu nghiễm nhiên trở thành một trong những khuôn mặt sáng giá của chế độ. Trong thời gian làm Bộ Trưởng Ngoại Giao, Giáo sư Vũ Văn Mẫu vẫn được tiếp tục giảng dạy tại Đại Học Luật Khoa các lớp ban Cử Nhân và ban Cao Học. Đặc biệt, các sách giáo khoa (Cours) do Giáo sư biên soạn như Dân Luật Khái Luận, Dân Luật Lược Khảo, vân vân đă được các sinh viên đón mua cách nồng nhiệt, và đó cũng là món huê lợi không phải là nhỏ. Chức vụ, quyền hành và lợi lộc tưởng chưa mấy nhân vật nào được ưu đăi hơn. Theo Giáo sư Vũ Quốc Thúc, TT Ngô Đ́nh Diệm tỏ ra rất nể trọng GS Vũ Văn Mẫu và GS Vũ Quốc Thúc. Cả hai ông đều được TT Ngô Đ́nh Diệm trân trọng kêu bằng “Ngài”. Vậy mà sau khi được Mỹ móc nối và hứa hẹn, GS. Vũ Văn Mẫu đă trở mặt, quay đúng 180 độ ngay sau biến cố Phật Giáo cũng do CIA Mỹ đạo diễn, cạo đầu, xin từ chức và xin đi hành hương Ấn Độ. Việc làm của GS Vũ Văn Mẫu dĩ nhiên như đổ thêm dầu vào lửa sau vụ “bị thiêu sống” của TT Thích Quảng Đức làm cho t́nh h́nh bang giao Việt – Mỹ đang căng thẳng, trở nên gay cấn hơn, tạo thêm lư do để Mỹ xúi giục bọn tướng lănh phản bội chuẩn bị ra tay. Tưởng rằng sau đảo chánh 1-11 thành công, GS. Vũ Văn Mẫu sẽ nắm vai tṛ quan trọng như chức vụ Thủ Tướng, nào ngờ được bố thí cho chức Đại Sứ tại Anh Quốc. Nhưng chưa đầy 4 tháng th́ cuộc Chỉnh Lư của Nguyễn Khánh xẩy ra khiến Giáo sư mất luôn chức Đại sứ để trở về Trường Luật dạy học kiếm ăn.

 

Sau một thời gian thậm thụt đi theo phe Phật Giáo Ấn Quang chẳng ăn cái giải ǵ v́ đám  sư này quyết liệt tẩy chay mọi hoạt động của Chính quyền VNCH th́ sự nghiệp chính trị của GS Vũ Văn Mẫu kể như kết thúc. Nhưng đột nhiên, đám sư săi nghĩ lại nếu cứ tiếp tục tẩy chay chính quyền th́ tự cô lập ḿnh và phe Phật Giáo Việt Nam Quốc Tự của TT Thích Tâm Châu được chính quyền công nhận sẽ thắng thế. Phật Giáo Ấn Quang liền tung ra Liên Danh Hoa Sen ứng cử vào Thượng Nghị Viện 1973 do GS. Vũ Văn Mẫu đứng Thụ Uỷ cùng một số nhân vật như Bác sĩ Nguyễn Duy Tài, Tôn Thất Niệm, Tôn Ái Liêng, Trần Quang Thuận, vân vân đồng thời ủng hộ Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng Thống. Nhưng khi thắng cử vào Thượng Nghị Viện rồi, Liên danh Hoa Sen cũng vẫn chỉ là thiểu số không nắm được một chức vị nào cả. Đă vậy, Nghị sĩ Nguyễn Duy Tài trong Liên danh Hoa Sen lại trở cờ chạy theo phe thân chính quyền, được chức Chủ Tịch Ủy ban Ngoại Giao Thượng Viện.  Suối gần 2 năm trời ở Thượng Viện, Liên danh Hoa sen và NS Vũ Văn Mẫu chẳng làm nên tṛ trống ǵ. Qua năm 1975, t́nh h́nh mỗi ngày thêm biến đổi, ông được phe Ấn Quang cử làm Chủ Tịch Lực Lượng Ḥa Giải Dân Tộc mà Văn pḥng đặt tại Khối Dân Tộc Xă Hội Hạ Nghị Viện. Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu theo chỉ đạo của Ấn Quang đang nhắm đóng vai tṛ đại diện “Thành phần thứ ba” trong Chính Phủ ba thành phần. Nhưng v́ thiển cận không nh́n xa trông rộng, không thấy được nước cờ Hoa Kỳ và đối phương đang đi nên cuối cùng trở thành công cụ hốt rác cho Mỹ. Ngày 28-04-1975, vừa mới nhậm chức, th́ cùng với Dương Văn Minh, ông nhân danh là Thủ Tướng Chính Phủ tuyên bố: “Yêu cầu Mỹ rút khỏi Việt Nam trong ṿng 24 giờ” không phải để có “Chính Phủ Ḥa Hợp Ḥa Giải” mà là để đầu hàng cách nhục nhă Cộng Sản ngày 30-04-1975.

 

 

DƯƠNG VĂN MINH & VŨ VĂN MẪU đầu hàng ngày 30-4-1975  

 

Nhiều nhân vật cho biết, vào những giờ phút cuối, khi Dương Văn Minh bị áp lực của Việt Cộng sắp sửa tuyên bố đầu hàng, “Thủ Tướng một ngày” Vũ Văn Mẫu đă tỏ ra hoảng sợ cũng muốn t́m đường chạy trốn nhưng quá muộn, đành phải cúi đầu theo Dương Văn Minh vào Dinh Độc Lập đón tiếp bọn ăn cướp!  Bị kẹt lại Việt Nam, Vũ Văn Mẫu cũng như Dương Văn Minh, nhờ “công lao hăn mă đầu hàng vô điều kiện” nên Cộng Sản tha cho khỏi phải đi “học tập cải tạo” trong các trại tù như bao Quân Dân Cán Chính VNCH khác, mà chỉ bị học tập tại chỗ.  Mấy năm sau, khi t́nh h́nh ổn định, Việt Cộng cho ông qua Pháp định cư.

 

Năm 1988, ông viết Hồi Kư “Sáu Tháng Pháp Nạn của Minh Không Vũ Văn Mẫu” để kể tội chế độ Ngô Đ́nh Diệm, một chế độ đă đối xử rất tử tế với ông.

 

Đọc bài giới thiệu Hồi Kư “Sáu Tháng Pháp Nạn” của GS. Vũ Văn Mẫu do Giao Điểm xuất bản năm 2003 trên Internet, người ta thấy ông chê bôi, chỉ trích chế độ Ngô Đ́nh Diệm và các nhân vật trong gia đ́nh Tổng Thống Diệm một cách gay gắt không tiếc lời. Chưa hết, ông tấn công Dụ Số 10 do Bảo Đại đưa ra nhưng lại đổ tội cho TT Ngô Đ́nh Diệm là thủ phạm v́ nó mà gây nên Pháp nạn!

 

Người viết tự hỏi: Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, một nhân vật chính trị lớn, một nhà ngoại giao có tầm vóc, một Luật gia nổi tiếng, một Kẻ Sĩ thời đại tại sao lại có hành động như vậy?  Đáng lư ra với tư cách là một Luật gia nổi tiếng, một nhân vật lớn của chế độ (Bộ Trưởng Ngoại giao), một tín đồ Phật Giáo thuận thành với “Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi”, một kẻ sĩ thời đại “Phú quư bất năng dâm, Bần tiện bất năng di, Uy vũ  bất năng khuất”, đă được chế độ ưu đăi trân trọng, th́ nếu có những ǵ sai trái xảy ra, phải có bổn phận lên tiếng can ngăn, cảnh giác, tŕnh bày điều hơn lẽ thiệt để Chính quyền ḿnh đang phục vụ sửa đổi và để cứu nguy chế độ, chớ sao lại bỏ ngang chơi tṛ “cạo đầu”, đổ thêm dầu vào lửa, đâm sau lưng Lănh Tụ? Là một nhân vật được Tổng Thống rất nể trọng, tại sao ông không có can đảm đặt thẳng vấn đề với Tổng Thống khi họp Hội Đồng Nội Các hay lúc gặp gỡ riêng liên hệ đến lănh vực ngoại giao? Vậy mà ông ngậm tăm, không làm ǵ cả!

 

Có phải v́ ông cũng là thứ người hèn nhát, chỉ biết gọi dạ bảo vâng? Nếu quả t́nh GS Vũ Văn Mẫu xứng đáng với những danh xưng đó, th́ những ai chịu suy nghĩ cũng khó mà t́m được lời giải đáp. V́ cho đến giờ phút này, vẫn chưa có ai chứng minh được rằng Dụ Số 10 đă gây thiệt hại những ǵ cho Phật Giáo, ngoại trừ luận điệu xuyên tạc chế độ Ngô Đ́nh Diệm là “gia đ́nh trị” và “kỳ thị tôn giáo”. Nói cho cùng, Dụ số 10 chỉ là cái cớ để mấy nhà sư tranh đấu lợi dụng nhằm gây bất măn cho mục tiêu lật đổ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. C̣n trên thực tế, v́ nhu cầu tổ chức của chính phủ Quốc Gia Việt Nam, vua Bảo Đại ban hành Dụ số 10 để cơ quan hành chánh căn cứ vào đó mà làm việc với các tổ chức đoàn thể. Trên nguyên tắc, Phật Giáo là một tổ chức th́ cũng phải ghi tên, đăng kư như các đoàn thể tổ chức khác. Nhưng cũng trên thực tế là Chính quyền của TT Ngô Đ́nh Diệm không hề áp dụng Dụ số 10 với Phật Giáo. Chẳng những thế, chính phủ Đệ Nhất Cộng Ḥa c̣n tỏ ra trân trọng giúp đỡ tận t́nh Phật Giáo xây Chùa, cho sư tăng xuất ngoại du học, vân vân và có thể nói đó là thời Phật Giáo phát triển mạnh nhất.

 

Luận điệu nói rằng chính phủ Ngô Đ́nh Diệm kỳ thị tôn giáo cũng sai. Tầm cỡ như TT Ngô Đ́nh Diệm hay ông Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu đâu có ngu xuẩn hay dại dột làm những điều tệ hại như thế. C̣n đối với Giáo Hội Công Giáo th́ v́ chưa được Ṭa Thánh Vatican coi là trưởng thành, nên vẫn c̣n nằm dưới sự quản trị của Hội Thừa Sai Paris tức là MEP (Mission Étrangère de Paris) chớ chẳng phải ưu đăi ǵ. Vậy mà mấy ông đă “vọng ngữ” tức là nói láo rằng Chính phủ Ngô Đ́nh Diệm kỳ thị tôn giáo, thật không thể tưởng tượng được mồm ép của mấy ông “sư hổ mang”! Các ông đả kích Chính quyền Ngô Đ́nh Diệm về Dụ số 10 để rồi lại gửi văn thư 13-01-1964 xin phép Bộ Nội Vụ của Chính quyền quân phiệt ban hành Nghị định cho phép thành lập Giáo Hội, công nhận Hiến Chương  của mấy ông th́ có khác ǵ “nhổ ra rồi lại nuốt vô”! Bởi thế, càng hô hào thống nhất lại càng chia rẽ! Thống nhất rồi mới tự chia ra hai phe: Việt Nam Quốc Tự và Ấn Quang! V́ có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nên ngày nay mới có Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (quốc doanh). Gieo nhân nào th́ gặt quả nấy. Đó cũng là luật nhân quả của nhà Phật!  Pháp nạn ở đâu mà ra? Pháp nạn nằm trong ḷng mấy ông đó! Nhưng Dụ Số 10 th́ vẫn c̣n giá trị pháp lư và nó vẫn chưa hề bị hủy bỏ, ít ra là cho đến ngày 30-04-1975. (Xin đọc Bạch Thư của Ḥa Thượng Thích Tâm Châu 1994).

 

Trở lại trường hợp GS Vũ Văn Mẫu, quả thật làm Kẻ Sĩ không phải dễ. Có học vị cao, có chức tước lớn cũng chưa bảo đảm hành động tốt và có đạo lư làm người. Khi đă tối mắt v́ quyền lợi và chức tước th́ Đạo Lư cũng sẽ bị giục vô thùng rác. Tất cả những hành động của GS Vũ Văn Mẫu kể từ khi cạo đầu đă lột trần bản chất con người ông. Càng về sau th́ sự thật con người của ông càng lộ ra những cái mà người có lương tri, đạo lư phải lắc đầu: một tên hoạt đầu chính trị!

 

Nhân danh là một trí thức, một nhà ngoại giao lớn, một chính trị gia có hạng, một luật gia nổi tiếng, vậy mà ông Vũ Văn Mẫu đă nghe lời dụ dỗ của ngoại bang, cạo đầu chống đối chế độ Đệ Nhất Cộng Ḥa, một chế độ hợp hiến, hợp pháp, hợp đạo lư để làm tay sai cho Dương Văn Minh, một tên tướng tham, hèn, ngu dâng nốt Miền Nam cho Cộng Sản.

 

Người ta nói: “Làm đầy tớ cho thằng khôn hơn làm thầy thằng ngu.” GS Vũ Văn Mẫu, thay v́ làm thầy thằng khôn, lại dại dột đi làm đầy tớ cho thằng ngu, không phải một lần (1963) mà tới hai lần (1975) cho tên tướng tham, hèn, ngu   Dương Văn Minh nên thân bại danh liệt là cái chắc.

 

Thời thế biến chuyển. Ḷng người thay đổi. Chỉ vị lợi lộc và thiếu suy nghĩ, những kẻ vơ biền như bọn tướng lănh đâm thuê chém mướn xuất hiện. Những trí thức nửa mùa hoạt đầu như Hoàng Cơ Thụy, Phan Quang Đán, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Xuân Oánh, và sau cùng như Vũ Văn Mẫu nổi lên a dua cũng không thiếu. Người ta nói: “Khôn ba năm dại một giờ”. Bọn chính khách hoạt đầu điếm đàng này th́ “khôn ba năm, dại một đời”. Cái dại chẳng những làm hại chính bản thân nó mà làm hại cả một dân tộc!

 

 

Thêm một dữ kiện nói về Vũ Văn Mẫu

 

Sau khi viết về Vũ Văn Mẫu, t́nh cờ người viết đọc thêm được tác phẩm “Vietnam, qu’ as tu fait de tes fils” tác giả Pierre Darcourt do Dương Hiếu Nghĩa dịch sang tiếng Việt do Tiếng Quê Hương Virginia xuất bản năm 2007 với tên “Việt Nam Quê Mẹ oan khiên” nơi Chương 10, trang 150, 151 và 152 nguyên văn như sau:

“Đây đúng là thời điểm để nhận xét nghiêm túc về Hiệp Định Paris. Chế độ cảnh sát và quân đội của ông Thiệu phải nhường chỗ cho các đại biểu có trách nhiệm và xứng đáng hơn, để họ bắt đầu cuộc nói chuyện thành thực và nghiêm chỉnh với Cộng sản trước khi đă quá trễ.

 

Người nói với tôi câu đó là Nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, tiến sĩ xuất thân từ Đại Học Luật Khoa Paris (như tấm biển treo trước văn pḥng Luật sư của ông), và Chủ Tịch Phong Trào Ḥa Giải Dân Tộc, một tập hợp của Phật Giáo quy tụ những người chống ông Thiệu dai dẳng nhất.

 

Nhỏ người, tṛn trịa, khoảng sáu mươi, xăng xái, gương mặt xương xẩu, cử chỉ linh hoạt và giọng nói thanh tao kỳ lạ, luật sư của các công ty xăng dầu lớn (Shell và Socony) ông Mẫu là người giàu có, nói nhiều, khôn khéo và cơ hội chủ nghĩa hơn là thành thực và quả cảm. Dân Sài G̣n không thích ông, một phần v́ ông gốc người Miền Bắc, một phần v́ họ thấy ông kiêu căng và trí trá. Dù sao ông cũng thông minh và lanh lợi. Ông từng là Bộ Trưởng Ngoại Giao của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, đă nhiệt t́nh và tận tụy phục vụ Tổng Thống Diệm với đường lối cương quyết chống Cộng, nhưng sau đó, khi có cuộc khủng hoảng Phật Giáo, ông tự từ chức và cạo đầu để chứng tỏ hết ḷng với sự tranh đấu của các nhà sư. Ba tháng sau đó Tổng Thống Diệm bị sát hại.

 

Tin chắc là Phật tử đang cần có một “lănh đạo thực sự” nên ông Mẫu đi sát với các nhà sư chủ chốt của Khối Ấn Quang, những người chống đối mọi h́nh thức của chế độ quân nhân, và nhờ họ yểm trợ, ông đắc cử Nghị Sĩ.

 

Ông va chạm với tướng Kỳ, sau đó là ông Thiệu.

 

Cuối năm 1973, lúc ông Thiệu định sửa đổi Hiến Pháp nhằm ra tranh cử Tổng Thống nhiệm kỳ thứ 3, Vũ Văn Mẫu lại cạo đầu một lần nữa để chống đối và tuyên bố chỉ để tóc lại “ngày nào mà chế độ độc tài cáo chung”. Từ đó ông có thêm một biệt danh là “thợ cạo hàn thử biểu.”

 

          – Ông Thiệu đă dối gạt hết mọi người, trừ tôi. Chỉ có một cách để chấm dứt cuộc chiến, là cho ông Thiệu ra đi và đưa tướng Minh lên thay ông ta.

Ông  Mẫu nói với tôi bằng giọng nói lạ lùng của một cậu bé vênh váo.

          – C̣n Hiến Pháp th́ sao?

Bằng cử chỉ kiên quyết, ông gạt phăng luận cứ này:

          – Ông Thiệu đă vi phạm Hiến Pháp để tiếp tục chiến tranh. Ai cấm cản chúng tôi vi phạm Hiến Pháp để đem lại ḥa b́nh? Chúng tôi sẽ t́m được đa số tương tự để làm chuyện đó.

          – Và người nào sẽ là Thủ Tướng?

          – Tôi!

Luật sư Vũ Văn Mẫu phá lên cười nắc nẻ có vẻ bực tức, sau đó làm nghiêm lại, nói tiếp với giọng tâm t́nh:

          – Ông biết không, tôi tốt với tướng Minh lắm. Ông đă nói với tôi là ông rất cần một người giỏi về luật để bàn căi với Cộng Sản… và ông đă nhắm vào tôi.

          – Ông thật sự tin có thể thương thảo trong khuôn khổ Hiệp Định Paris à?

          – Không có căn bản nào khác để thương thảo, và đây là nghề của tôi, nghề bàn căi, biện hộ, thuyết phục và cà dùng mưu nữa. Tôi biết bênh vực cho một hồ sơ, tin tôi đi. Khó bắt bí tôi lắm, tôi sẽ dùng một luận cứ mà không ai dám làm. Một khi tôi lên rồi, tôi sẽ đ̣i hỏi tất cả người Mỹ phải rời khỏi ngay đất nước này trong ṿng 24 giờ, và hăy tin tôi đi, họ sẽ đi ngay cho ông xem! Ông có vẻ hoài nghi hả? Ông sai rồi. Tôi cho ông một cái hẹn trước ba tuần lễ ở Dinh Độc Lập. Tôi sẽ là Thủ Tướng, tôi sẽ tiếp ông, và chừng đó ông sẽ thấy là tôi giữ lời hứa. 

 

Vô liêm sỉ? … hay đă nắm một tṛ chơi mà ông ta biết rơ những con bài nhưng không muốn trưng ra?

 

Tôi nghiêng về giả thuyết thứ hai. V́ Vũ Văn Mẫu là người chẳng bao giờ mạo hiểm không công.

 

Pierre Darcourt nhận xét khá chính xác về con người Vũ Văn Mẫu!

 

Nguyễn Tường Tam

 

Pierre Darcourt: “Vũ Văn Mẫu – thợ cạo hàn thử biểu.”

 

Sau khi chính quyền Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ ngày 1-11-1963 th́ Việt Nam Cộng Ḥa rơi vào t́nh trạng xáo trộn và khủng hoảng lănh đạo chưa từng thấy.

 

Sau cuộc đảo chánh 1-11-1963, t́nh h́nh Miền Nam trở nên xáo trộn chưa từng thấy. Người ta mới nhận ra được sự bất lực của nhóm phản tướng và đồng bọn cùng thực chất của họ, chỉ lo tranh quyền đoạt chức và không biết làm việc. Bởi đó, hệ thống an ninh bị bỏ ngỏ v́ Quốc sách Ấp Chiến Lược bị phá vỡ. Việt Công gia tăng xâm nhập phá hoại. T́nh h́nh Miền Nam từ nông thôn đến thành thị trở nên nguy ngập. Mỹ phải cấp tốc đổ nửa triệu quân vào cứu văn. Và như đă nói trên suốt hai năm trời sau đảo chính (1963-1965), Miền Nam đă trở thành vũng lầy đầy những xáo trộn và bất ổn. Bây giờ người ta mới biết nhân vật lănh đạo một quốc gia trong t́nh trang chậm tiến và chống Cộng quan trọng như thế nào? Cũng từng ấy nhân sự, cũng từng ấy cơ sở mà tại sao t́nh h́nh trước và sau ngày 1-11-1963 thay đổi một cách khác thường như vậy? Bây giờ th́ người ta cũng mới biết tài năng, đức độ của TT. Ngô Đ́nh Diệm và những cộng sự viên đắc lực trong việc điều hành guồng máy quốc gia là quan trọng.

 

 

Cầu cứu Đảng viên Cần Lao

 

Sau khi Tướng Nguyễn Khánh làm cuộc Chỉnh Lư 30-01-1964 lên làm Thủ Tướng th́ Liên Hiệp Nghị Sĩ Quốc Tế nhóm họp Đại Hội hằng năm gửi thư mời Đại diện Việt Nam Cộng Ḥa tham dự v́ Quốc Hội thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Ḥa đă là hội viên thường trực của tổ chức này. Nguyễn Khánh đă cử một nhân vật mới nào đó (người viết không nhớ tên) qua Ba Lan phó hội nhưng bị từ chối. Nguyễn Khánh phải cho người vào khám Chí Ḥa mời Cựu Dân Biểu Cần Lao Nguyễn Phương Thiệp ra hướng dẫn phái đoàn VNCH qua phó hội v́ DB Nguyễn Phương Thiệp đă từng là Trưởng Phái Đoàn Quốc Hội VNCH (trong phái đoàn thời đó có bà Ngô Đ́nh Nhu nhũ danh Trần Lệ Xuân) đă được bầu làm Chủ Tọa hai khóa họp thường niên. Tưởng cũng nên biết Liên Hiệp Nghị Sĩ Quốc Tế là tổ chức quy tụ các Đại Biểu Quốc Hội thuộc các Quốc gia trên toàn thế giới (cả Tự do lẫn Cộng sản), trong đó Việt Nam Cộng Ḥa được thâu nhận mà Cộng Sản Bắc Việt bị từ chối, lư do v́ Quốc Hội Việt Cộng suốt từ 1946 đến 1960 không hề được bầu lại. Đó là mặt đối ngoại.

 

Về đối nội, sau khi hai Tướng Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm thực hiện cuộc Chính Lư thời các Đảng Viên Cần Lao và Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia được thả dần. Đặc biệt sau khi tướng Nguyễn Khánh được Hội Đồng Tướng Lănh “cho đi” làm “Đại Sứ Lưu Động” ở Hoa Kỳ (25-02-1965).  Lư do rất đơn giản là Chính phủ mới cần người biết làm việc và lấy hậu thuẫn trong cuộc bầu cử Tổng Thống, Phó Tổng Thống và Quốc Hội VNCH năm 1967 sau khi Hiến pháp Đệ Nhị Cộng Ḥa đă được ban hành. Lúc đó Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ Tịch Ủy Ban Lănh Đạo Quốc Gia và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Tuy Tướng Thiệu ở cương vị lănh đạo cao hơn, nhưng thực quyền lại nằm trong tay Tướng Kỳ. V́ cả hai đều muốn ra làm Tổng Thống nên tranh chấp nhau kịch liệt. Ông Thiệu nắm được đa số thành viên trong Hội Đồng Quân Lực. C̣n ông Kỳ nắm guồng máy Chính Phủ. Để nắm chắc phần thắng, cả hai đều đi t́m hậu thuẫn từ các đoàn thể quần chúng. Đảng Cần Lao tuy đă bị giải tán nhưng rất nhiều người vẫn c̣n làm việc trong các cơ quan chính phủ. Cả hai ông Thiệu, Kỳ đều cho người vận động các Đảng viên Cần Lao v́ hai ông đều biết rằng số này có khả năng và uy tín.

 

Ông Thiệu đă chỉ thị cho Đại Tá Cục Trưởng Quân Cụ và vị này đă nhờ một Đại Úy đang làm việc với một Sĩ quan cựu Đảng Viên Cần Lao (Trung Tá Nguyễn Văn Minh) trong một đơn vị thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị để mời vị Sĩ quan này dùng cơm gia đ́nh tại tư thất, nhân thể chuyển lời của Tướng Thiệu muốn vị này vận động các Đảng viên CLNVCMĐ ủng hộ ông trong kỳ bầu cử Tổng Thống. Theo tiết lộ của vị này th́ trong một buổi lễ do Tổng Cục CTCT tổ chức, ông Thiệu đă đích thân đến bắt tay và nói nhỏ (v́ ông Thiệu có quen biết và từng nhờ vả khi trước). Nhưng vị này đă khéo léo trả lời: “Thưa Trung Tướng, chúng tôi như những người con gái đă lấy chồng và chồng lại vừa mới chết mồ mả chưa xanh cỏ. Nếu chúng tôi ra tay công khai ủng hộ Trung Tướng th́ e rằng dư luận phê phán và như vậy cũng không mang lại lợi ích ǵ cho Trung Tướng. Riêng cá nhân tôi, tôi hết ḷng ủng hộ Trung Tướng”. (Cựu Trung Tá Nguyễn Văn Minh  kể lại cho người viết).

 

Phần ông Nguyễn Cao Kỳ, đang trên cương vị Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương tức là Thủ Tướng, lại nhắm những nhân vật dân sự cùng một số cựu Đảng viên Cần Lao trong Quân đội bị cho giải ngũ. Những cựu Đảng viên này nói với ông Kỳ rằng Đảng Cần Lao từ ngày 1-11-1963 đă bị chính phủ giải tán, đặt ra ngoài ṿng pháp luật. Nay ông muốn chúng tôi giúp th́ ông phải trả tự do cho những Đảng viên đang c̣n bị chính quyền cầm tù và phải cấp giấy phép cho tái lập Đảng với danh xưng mới. Kết quả ông Kỳ đồng ư cấp giấy phép và Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng tái hoạt động với tên mới là Việt Nam Nhân Xă Cách Mạng Đảng.

 

 

Việt Nam Nhân Xă Cách Mạng Đảng: hậu thân của Cần Lao

 

Việt Nam Nhân Xă Cách Mạng Đảng (VNNXCMĐ) có trụ sở tại 86 Bà Huyện Thanh Quan, Sài G̣n. Ba nhân vật lănh đạo gồm các ông:

 

– Giáo sư Trương Công Cừu, nguyên Bộ Trưởng Đặc Trách Văn Hóa Xă Hội (thời Đệ I CH) kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao sau khi GS Vũ Văn Mẫu xin từ chức.

 

– Dược Sư Ngô Khắc Tỉnh, Cựu Dân Biểu thời Đệ I VNCH, sau làm Bộ Trưởng Thông Tin và Bộ Trưởng Giáo Dục thời chính phủ Trần Thiện Khiêm (1970-1975)

 

– Luật sư Lê Trọng Quát, Cựu Dân Biểu Đệ I VNCH.

 

VNNXCMĐ đă tổ chức được gần 40 Tỉnh, Thị Bộ trên toàn quốc, nhờ móc nối và sinh hoạt lại được với các thành viên Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia và Đảng viên Cần Lao.

 

Tại Quốc Hội:

Ở Hạ Nghị Viện VNCH pháp nhiệm I (1967-1971) đă quy tụ được 14 Dân Biểu. Năm 1971, ông Ngô Trọng Hiếu ra ứng cử Dân biểu Hạ Nghị Viện pháp nhiệm 2 (1971-1975) đơn vị Biên Ḥa (Hố Nai) đă đắc cử với số phiếu thật lớn v́ nhờ uy tín khi làm Bộ Trưởng Công Dân Vụ thời Đệ Nhất Cộng Ḥa với TT Ngô Đ́nh Diệm.

 

Ở Thượng Nghị Viện th́ Liên danh Mặt Trời của Cựu TT. Huỳnh Văn Cao và Liên danh Bạch Tượng của ông Trần Văn Lắm đều có người là cựu Đảng viên Cần Lao Nhân Vị, nhưng người viết không nhớ rơ Nghị sĩ nào đă tham gia VNNXCMĐ.

 

Cựu Thiếu Tá Nguyễn Đức Xích, nguyên Tỉnh Trưởng Gia Định, là Tổng Thư Kư VNNXCMĐ ứng cử và đắc cử vào Viện Giám Sát. Sau 1975, GSV Nguyễn Đức Xích bị Việt Cộng bắt vô trại tù Vườn Đào (Tiền Giang, Mỹ Tho), và bị bắn chết sau một cuộc tranh luận tay đôi và công khai với Việt Cộng.

 

Tại sao lại chọn tên là Việt Nam Nhân Xă Cách Mạng Đảng?

 

Số là sau biến cố 1-11-1963, một vài nhân vật thời Đệ Nhất Cộng Ḥa nhận thấy khoảng trống chính trị lớn lao ở Miền Nam và sự thiếu sót một chủ thuyết chống Cộng, cho nên đă họp bàn và đi đến quyết định tái phục hoạt Đảng Cần Lao tại nhà ông Trần Quang Ngọc. Nhưng thay v́ dùng danh xưng Cần Lao Nhân Vị Các Mạng Đảng như trước, họ đă quyết định đổi thành Việt Nam Nhân Xă Cách Mạng Đảng. Mới đầu, VNNXCMĐ đă gây được sự chú ư của dư luận. Nhưng sau một thời gian, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thành lập Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xă Hội, mời hai ông Ngô Khắc Tỉnh và Lê Trọng Quát đảm trách Bộ Thông Tin th́ sinh hoạt của VNNXCMĐ bắt đầu đi xuống. Cũng mới đầu, bộ ba “Trương Công Cừu, Ngô Khắc Tỉnh và Lê Trọng Quát” làm việc có vẻ khắng khít, th́ nay bỗng nhiên chia tay v́ đ̣n ly gián của ông Thiệu. Thật ra, chẳng riêng ǵ Việt Nam Nhân Xă Cách Mạng Đảng mà 5 Đảng kia trong Mặt Trận (Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Cách Mạng, Lực Lượng Đại Đoàn Kết, Việt Nam Dân Xă Đảng và Liên Minh Dân Tộc Cách Mạng Xă Hội) cũng vậy, nghĩa là đều ở trong t́nh trạng khủng hoảng lănh đạo. Các lănh tụ Đảng đều là những nhân vật có tiếng tăm, nhưng khả năng lănh đạo và tổ chức lại yếu kém. Những chính Đảng này đă không đề ra được một chương tŕnh hành động cụ thể đáp ứng t́nh h́nh. Mặt khác, tổ chức lỏng lẻo, kết nạp đảng viên bừa băi, vụ số đông, sinh hoạt rời rạc nên không gây được ảnh hưởng ǵ. Thực lực lúc đó là Quân Đội, được mệnh danh là Đảng Kaki.

 

Ngay từ đâu, Việt Nam Nhân Xă Cách Mạng Đảng đă mắc vào tệ nạn phe phái, đầu óc địa phương. Nhân Xă là hậu thân của Cần Lao nhưng lại do nhóm Miền Trung lănh đạo với bộ ba Trương Công Cừu, Ngô Khắc Tỉnh và Lê Trọng Quát, nên dư luận nội bộ mệnh danh là “nhóm Phủ Cam”. Nhóm này kỳ thị Đảng Viên Cần Lao khác nên gây ra sự phân hóa là chuyện đương nhiên phải xảy ra.

 

 

Chánh Đảng Cộng Ḥa Đại Chúng

     

V́ không được mời tham gia vào Việt Nam Nhân Xă Cách Mạng Đảng nên hai ông Trần Chánh Thành, nguyện Bộ Trưởng Thông Tin thời Đệ Nhất Cộng Ḥa và ông Cao Xuân Vỹ, nguyên Tổng Giám Đốc Thanh Niên đă cùng một số đồng chí đứng ra thành lập Chánh Đảng Cộng Ḥa Đại Chúng (CĐCHĐC), trụ sở đặt tại Lầu 2 Thương Xá Tax, Đại Lộ Lê Lợi Sài G̣n, gần trụ sở Hạ Nghị Viện. Dư luận cho rằng CĐCHĐC được một nhóm có phương tiện tài chánh yểm trợ như bà Dược sĩ Nguyễn Thị Hai, chủ Hăng Thuốc Tây Trang Hai, nhưng nói chung hoạt động của CĐCHĐC cũng không có ǵ đặc biệt. Ông Trần Chánh Thành ở trong Liên Danh Bạch Tượng do ông Trần Văn Lắm đứng thụ ủy đắc cử Nghị sĩ Thượng Viện, sau được TT Nguyễn Văn Thiệu mời ra làm Bộ Trưởng Ngoại Giao trong nội các Trần Thiện Khiêm. Ông Cao Xuân Vỹ năm 1971 ra ứng cử Dân Biểu Hạ Nghị Viện đơn vị B́nh Tuy nhưng thất bại. Bà Nguyễn Thị Hai đắc cử Dân biểu Pháp nhiệm 2 và được bầu làm Đệ Nhị Phó Chủ Tịch Hạ Nghị Viên trong liên danh Nguyễn Bá Cẩn.

 

 

Báo Nhân Xă và Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo của Ô. Hoàng Xuân Việt

 

Ông Hoàng Xuân Việt là một học giả, một nhà văn chuyên về biên khảo với trên 60 tác phẩm thuộc loại Học Làm Người. Ông là Đảng viên Cần Lao giàu kiến thức và nhiệt huyết, làm việc trong Sở Nghiên Cứu với BS. Trần Kim Tuyến. Chủ trương lập Đảng của ông có lẽ sớm hơn so với các lănh tụ Việt Nam Nhân Xă Cách Mạng Đảng và Chánh Đảng Cộng Ḥa Đại Chúng. Khoảng tháng 8 năm 1965, nghĩa là chưa đầy 2 năm sau cuộc đảo chánh 1-11-63, ông Hoàng Xuân Việt đă cho ra tờ Tuần Báo Nhân Xă địa chỉ 33 đường Hai Bà Trưng, Sài G̣n làm cơ quan tuyên truyền đồng thời đứng ra lập Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo. Người viết có lần đến thăm ông Hoàng Xuân Việt và ông Nguyễn Văn Triều (Chủ tịch Hội Đua Ngựa (?) ở địa chỉ 33 đường Hai bà Trưng, Sài G̣n  th́ được ông Hoàng Xuân Việt cho biết đă chính thức thành lập Đảng. Người viết hỏi tên Đảng là ǵ? Ông Hoàng Xuân Việt trả lời bằng tiếng Pháp: “Démocrate chrétien” tức là Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo. Người viết hỏi lại cái tên đó (Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo) liệu có thích hợp với t́nh h́nh Việt Nam hay không? Ông Hoàng Xuân Việt bảo rằng bên Đức cũng có Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo th́ có sao đâu?

 

Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo của nhóm ông Hoàng Xuân Việt và Nguyễn Văn Triều không có tiếng tăm ǵ v́ ít sinh hoạt, nhưng tờ tuần báo Nhân Xă là cơ quan ngôn luận của Đảng đă nói lên tinh thần của Cần Lao Nhân Vị.

 

 

Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xă Hội của TT Nguyễn Văn Thiệu

 

Sau khi đắc cử Tổng Thống nhiệm kỳ 1 (1967-1971) của Đệ Nhị Cộng Hoà, ông Nguyễn Văn Thiệu bắt đầu củng cố quyền lực để chuẩn bị cho nhiệm kỳ sau. Phía Quân Đội coi như ông đă nắm vững và loại được phe phái của Nguyễn Cao Kỳ. V́ áp lực của Quân Đội và nhất là của Mỹ, ông Nguyễn Cao Kỳ đă phải chấp nhận làm Ứng cử viên Phó Tổng Thống cho ông Thiệu trong Liên danh với một số hứa hẹn nào đó của ông Nguyễn Văn Thiệu như chấp nhận Thủ Tướng phải là người của ông Kỳ đưa ra. Tạm thời, ông Thiệu đă nhượng bộ, chấp nhận cho LS. Nguyễn Văn Lộc là người của ông Kỳ làm Thủ Tướng. Sau đó, ông Thiệu t́m cách loại dần ảnh hưởng của nhóm ông Kỳ.

 

Ngoài ra, nhằm thực hiện quy chế lưỡng đảng để lấy ḷng Mỹ và tạo sự đoàn kết thống nhất, TT Nguyễn Văn Thiệu đă đứng ra thành lập Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xă Hội do ông lănh đạo như là phe nắm chính quyền. Mặt khác, ông Thiệu kêu gọi các Đảng phái khác nếu không muốn hợp tác với Chính Phủ có thể đứng ra lập Liên Minh đối lập.

 

Kết quả phía chính quyền với Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xă Hội do TT Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ Tịch Chủ Tịch Đoàn quy tụ 6 Đảng sau đây:

 

1.     Việt Nam Quốc Dân Đảng (Vũ Hồng Khanh)

2.     Việt Nam Nhân Xă Cách Mạng Đảng (Trương Công Cừu)

3.     Việt Nam Dân Xă Đảng (Phan Bá Cầm)

4.     Đại Việt Cách Mạng (Hà Thúc Kư)

5.     Lực Lượng Đại Đoàn Kết (Nguyễn Gia Hiến)

6.     Liên Minh Dân Tộc Cách Mạng Xă Hội (Nguyễn Văn Hướng)

 

Phía đối lập cũng rục rịch vận động lập Liên minh. Người viết có đến trụ sở Chánh Đảng Cộng Ḥa Đại Chúng thăm quư ông Trần Chánh Thành và Cao Xuân Vỹ, t́nh cờ gặp Giáo sư Vũ Quốc Thông đại diện cho Lực Lượng Dân Chủ Phật Giáo và một vài vị thuộc đảng phái khác nhưng không nhớ tên. Quư vị đă họp bàn về việc h́nh thành Liên minh Đối lập nhưng chưa đi đến kết quả nào.

 

Khi cho ra đời Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xă Hội, TT Nguyễn Văn Thiệu đă gây được sự chú ư của dư luận. Hoa Kỳ hoan nghênh nhiệt liệt. C̣n Cộng Sản Bắc Việt th́ liền tung ra chiến dịch đả kích thậm tệ trên các Đài phát thanh của chúng mấy tuần liền. Điều đó chứng tỏ CSBV rất sợ một thế Liên Minh chống Cộng chặt chẽ của Khối Người Việt Quốc Gia ở Miền Nam. Mặt Trận này sẽ là mũi xung kích đánh văng Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam một công cụ bù nh́n của Hà Nội. V́ dầu sao các Đảng phái chính trị ở Miền Nam vẫn là những tổ chức có quá tŕnh đấu tranh quyết liệt mà đồng bào Nam Bắc đều biết đến. Tiếc rằng, ông Nguyễn Văn Thiệu không biết khai thác chiêu bài lớn lao này. V́ ông Thiệu lập Mặt Trận chỉ nhằm hậu thuẫn cho cá nhân ông mà không nghĩ đến sự đoàn kết quốc gia trong một mặt trận chống Cộng của toàn dân. Thực chất, các tổ chức chính trị này khi tham gia Mặt Trận lại chỉ mong kiếm ghế. Nhưng ông Thiệu chỉ mời một số nhân vật thân tín tham gia Nội Các như Dược sư Ngô Khắc Tỉnh là người bà con của ông làm Bộ Trưởng Thông Tin, và Luật Sư Lê Trọng Quát làm Thứ Trưởng Thông Tin. Ngoài ra những vị khác chỉ được mời đến họp để lấy ư kiến mà ông Thiệu không đề ra chương tŕnh hành động chung cho Mặt Trận. Kết quả chỉ sau mấy tháng th́ Mặt Trận tan ră, ai về nhà nấy. Ông Ngô Khắc Tỉnh lúc đó lại được ông Thiệu thuyên chuyển qua làm Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục nên LS Lê Trọng Quát mất chức Thứ Trưởng Thông Tin phải về vườn liền đứng ra thành lập Lực Lượng Nhân Dân Kiến Quốc do ông làm Chủ Tịch. Đảng Nhân Xă sau đó đưa ông Trương Vĩnh Lễ ra làm Chủ Tịch một thời gian. Năm 1971, Ông Trương Vĩnh Lễ lập liên danh ứng cử vào Thượng Viện nhưng thất bại, liền bỏ cuộc. Việt Nam Nhân Xă Cách Mạng Đảng lại biến thể thành Đảng Tự Do do LS Nguyễn Văn Huyền làm Chủ Tịch cho đến khi Miền Nam rơi vào tay Cộng sản ngày 30-04-1975 là chấm dứt.

 

 

Đảng Công Nông với nhân vật Trần Quốc Bửu

 

Ông Trần Quốc Bửu là một trong những người sát cánh với ông Ngô Đ́nh Nhu trong việc thành lập Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng. Thật ra, mới đầu ông Ngô Đ́nh Nhu và các Sáng lập viên lấy tên Đảng là Đảng Công Nông, sau v́ tránh ngộ nhận với Đảng Lao Động của Việt Cộng nên quư ông đă đổi thành Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng. Riêng ông Trần Quốc Bửu chỉ sinh hoạt tích cực trong giai đoạn đầu khi Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm về chấp chính. Sau khi t́nh h́nh Miền Nam ổn định, ông Ngô Đ́nh Nhu đă đích thân tổ chức Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam (TLĐLCVN) và trao cho ông Trần Quốc Bửu vai tṛ lănh đạo công nhân toàn quốc. TLĐLCVN là một tổ chức nghiệp đoàn có bề thế và uy tín lớn lao nhờ có Tổng Liên Đoàn Công Kỹ Nghệ Hoa Kỳ yểm trợ. Cá nhân ông Trần Quốc Bửu c̣n được bầu vào chức vụ Phó Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công Thế Giới có trụ sở tại Geneva, Thụy Sĩ. Sau ngày 1-11-1963, nhóm đảo chính cho người bắt bỏ tù ông Trần Quốc Bửu, nhưng Mỹ đă can thiệp buộc phải thả ông ra ngay. Từ đó, ông Trần Quốc Bửu tiếp tục lănh đạo TLĐLCVN như trước. V́ thấy các đoàn thể chính trị sinh hoạt chẳng ra ǵ nên ông đứng ra tổ chức Đảng Công Nông cũng do ông làm Chủ Tịch và DB Nguyễn Bá Cẩn làm Tổng Thư Kư. Như vậy, có thể nói Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng hệ phái Trần Quốc Bửu đă công khai xuất hiện theo chiều hướng mới nhằm đáp ứng t́nh h́nh đấu tranh chính trị tại Miền Nam trong viễn tượng các bên tham chiến sẽ kư kết với nhau một Hiệp Định đang họp bàn tại Paris, Pháp Quốc. V́ có sẵn nhân sự, cán bộ và cơ sở trong TLĐLCVN nên việc thành lập Đảng Cộng Nông không khó khăn đối với ông Trần Quốc Bửu.

 

 

Nhận định về hậu thân của Cần Lao Nhân vị Cách Mạng Đảng

 

Trong phần I về Lời trối trăng của ông Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu (7-07- 2011), người viết đă ghi lại một số sự kiện liên quan đến Đảng Cần Lao và có nhận định: “Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng đă đóng góp nhiều công sức cho việc thành lập nền Cộng Ḥa Việt Nam cũng như công cuộc diệt trừ Cộng sản, từ lư thuyết đến hành động. Tất nhiên CLNVCMĐ cũng có khuyết điểm như bất cứ tổ chức chính trị nào khác. Điều đáng tiếc là ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu, Tổng Bí Thư Đảng v́ quá đa đoan trong quốc sự có lẽ đă không c̣n th́ giờ quan tâm nhiều đến Đảng…. Cho nên, thực tế cho thấy tổ chức và sinh hoạt của Đảng chỉ khá mấy năm đầu, c̣n về sau th́ quá rời rạc, nhất là sau khi ông Ngô Đ́nh Nhu ra lệnh giải tán Liên Kỳ Bộ Nam-Bắc th́ kể như không c̣n hoạt động…”

 

Đúng như vậy, những tổ chức hậu thân của Đảng Cần Lao như VNNXCMĐ,  CĐCHĐC, LLNDKQ, ĐDCTCG, với các nhân vật Trương Công Cừu, Ngô Khắc Tỉnh, Lê Trọng Quát, Trần Chánh Thành, Cao Xuân Vỹ, Hoàng Xuân Việt, Trương Vĩnh Lễ, vân vân… không đủ tầm vóc, thiếu khả năng tổ chức, không có uy tín như một lănh tụ cách mạng. Sau khi Ông Ngô Đ́nh Nhu bị thảm sát, Đảng Cần Lao như rắn mất đầu. Thân rắn c̣n lại dù có cố gắng ngo ngoe cũng chẳng làm nên cơm cháo ǵ. Riêng ông Trần Quốc Bửu thành công ít nhiều về mặt Nghiệp Đoàn, nhưng về mặt Đảng vụ cũng yếu kém.

 

Người viết có dịp tiếp xúc với một số nhân vật được gọi là cốt cán của CLNVCMĐ, nhưng không thu thập được tài liệu đặc biệt nào của Đảng. Tài liệu quan trọng như các văn kiện của Đảng cũng không có. Ngoài một vài lớp huấn luyện Đảng viên lúc ban đầu ở Hà Nội và Đà Lạt, chưa thấy có văn kiện hay sinh hoạt nào khác như Đại Hội Đảng và Quyết Nghị của Đảng, vân vân. Tất cả là do không có sinh hoạt. C̣n những bài viết hay tài liệu được tung ra sau ngày 1-11-1963 nhằm bôi nhọ CLNVCMĐ hoàn toàn là bịa đặt, ngụy tạo như cuốn Đảng Cần Lao của Chu Bằng Lĩnh. Các tài liệu đánh phá đều do bọn kư giả bất lương viết theo đơn đặt hàng của bọn phá hoại. Cho nên người viết có cảm tưởng Đảng Cần Lao chỉ là con ngáo ộp mà nhiều người dùng để hù dọa và cũng để gây bất măn.

 

Ông Dương Văn Hiếu (DVH), Trưởng Đoàn CTĐBMT có nhận xét khá chính xác về CLNVCMĐ trong buổi phỏng vấn của ông Lâm Lễ Trinh (1-10-2006) Thức Tỉnh Tập 2, trang 425-438.

 

DVH: Về mặt lư thuyết, Cần Lao dựa vào chủ nghĩa Nhân vị được ông cố vấn Ngô Đ́nh Nhu nghiên cứu kỷ. Đảng Cần Lao, tiếc thay, thiếu một chính sách tuyển lựa, huấn luyện và xử dụng cán bộ hữu hiệu. Ngoài ra, c̣n vấn đề kỷ luật. Đa số đảng viên được chọn trong thành phần công chức có quyền và địa vị. Đảng không đi sâu vào đại chúng ở thành thị, đặc biệt ở nông thôn.  Các khóa tu nghiệp về chủ thuyết Nhân vị do Đức cha Ngô Đ́nh Thục tổ chức tại Vĩnh Long không đào sâu và giải quyết vấn đề. Tôi có dịp thuyết tŕnh về đề tài này trong một phiên học tập về Ấp Chiến lược ở Suối Lồ Ồ năm 1962. Sau đó, tôi có thỉnh cầu ông Nhu, với tư cách Tổng Bí thư Cần Lao, ban huấn lệnh nhưng không thấy ông nói ǵ. Câu chuyện bỏ qua!


Ông Cẩn ít nặng về lư thuyết hơn ông Nhu. Ông Cẩn có vẻ chú trọng hơn về vấn đề cán bộ, thực tế hơn. Trong nội bộ Cần Lao cũng có nhiều nhóm: nhóm Bắc, nhóm Trung (của ông Cẩn), nhóm Trần Quốc Bửu (Tổng Liên Đoàn Lao Công), nhóm Tinh Thần (Nguyễn Tăng Nguyên), nhóm Nam kỳ Bộ (Huỳnh Văn Lang), nhóm Hà Đức Minh-Trần Văn Trai.. Không thống nhứt. Ít khi thấy Tổng thống nhắc đến đảng Cần Lao. Tổng thống để ư đến Phong trào Cách Mạng Quốc gia. Cần Lao không có Ban Chấp hành Trung ương. Chỉ có Văn pḥng Tổng Bí Thư (ông Nhu) gồm có 5 Pḥng trực thuộc.

     

 Tôi không nghĩ đem Cân Lao vào Quân đội hoàn toàn có lợi. Các tướng lănh đóng vai tṛ cốt cán trong cuộc chính biến 1-11-1963 phần đông là đảng viên Cần Lao được Tổng thống tin dùng và bị Hoa kỳ mua chuộc.

 

Đảng Dân Chủ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Trong các chính khách lúc bấy giờ ở Miền Nam, có lẽ ông Thiệu chẳng gờm ai ngoài ông Trần Quốc Bửu, người có uy tín, có khả năng tổ chức và lănh đạo, lại được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của Hoa Kỳ. Nhưng ông Trần Quốc Bửu là người khôn ngoan, biết tính toán. Ông không vội ǵ ra tay cạnh tranh với ông Thiệu. Ngược lại ông Thiệu, sau khi lập Mặt Trận Quốc Gia Dân Chủ Xă Hội chẳng đi tới đâu, lại quyết định thành lập Đảng Dân Chủ nhằm tạo hậu thuẫn cho cá nhân ông. Ban Lănh đạo Đảng Dân Chủ của ông Nguyễn Văn Thiệu gồm có 9 nhân vật:

 

– Nguyễn Văn Thiệu , Tổng Thống VNCH, Chủ Tịch Đảng

– Trần Thiện Khiêm, Thủ Tướng Chính Phủ

– Trần Trung Dung, Nghị Sĩ  ở Thượng Nghị Viện

– Trần Minh Tùng, Tổng Trưởng Y Tế, Tổng Thư Kư

– Nguyễn Bá Cẩn, Chủ Tịch Hạ Nghị Viên

– Trần Văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Nghị Viện

– Đinh Xuân Minh, Đệ Nhất Phó Chủ Tịch Hạ Nghị Viện

– Nguyễn Văn Ngân, Phụ Tá Đặc Biệt Liên lạc Các Đoàn Thể

– Nguyễn Đ́nh Xướng, Tổng Quản Trị HC/PTT/VNCH

 

Khi lập Đảng Dân Chủ, ông Thiệu giao hết việc vận động và tổ chức cho Phụ Tá Nguyễn Văn Ngân. Nguyễn Văn Ngân nguyên là tay chân thuộc hạ của Phụ Tá Đặc Biệt Nguyễn Cao Thăng. Khi ông Nguyễn Cao Thăng bị bệnh ung thư phải ra ngoại quốc chữa bệnh th́ Nguyễn Văn Ngân được ông Thiệu cho làm nhiệm vụ liên lạc Quốc Hội như ông Thăng đă làm. Sau khi ông Nguyễn Cao Thăng qua đời th́ ông Thiệu cử Nguyễn Văn Ngân làm Phụ Tá Đặc Biệt thay ông Nguyễn Cao Thăng. Nhờ vào vị thế này và v́ nắm “hầu bao” chi tiền cho các Dân Biểu, Nghị Sĩ thân chính quyền, ông Nguyễn Văn Ngân đă t́m cách lùa các viên chức cán bộ xă ấp, công chức và các sĩ quan đảm nhiệm các chức vụ hành chính như Tỉnh trưởng, Quận Trưởng vào Đảng Dân Chủ. Phe nhóm ông Ngân tổ chức chia ra hệ thống Đỏ và hệ thống Xanh. Đỏ là Quân nhân như Tỉnh Trường, Quận Trường. Xanh là dân sự Viên chức Xă ấp. Có thể nói đây là một Đảng chính trị ô hợp nhất từ xưa đến nay. Ngay bộ phận lănh đạo nói trên đă cho thấy một sự gượng ép, đồng sàng dị mộng, mà không có sự đồng tâm nhất trí. Dân Biểu Nguyễn Bá Cẩn lúc đó đang là Chủ Tịch Hạ Nghị Viện, và là Tổng Thư Kư Đảng Công Nông của ông Trần Quốc Bửu, đă được ông Thiệu kéo sang Đảng Dân Chủ cùng với một số Dân Biểu thân chính khác, thế là Đảng Công Nông của ông Trần Quốc Bửu bị “hỏng gị”. Nhưng sự việc đó cũng chẳng ăn thua ǵ lắm đối với khả năng và uy tín của ông Trần Quốc Bửu, khi một số đồng chí v́ quyền lợi mà bỏ Đảng Công Nông ra đi theo Đảng Dân Chủ của ông Thiệu.

 

 

Cựu Đảng Viên Cần Lao lại được trọng dụng

 

Cả hai ông Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ đều dùng người của Cần Lao. Có điều mỗi ông có lối dùng khác nhau. Ông Kỳ tính bộc trực, không thâm hiểm như ông Thiệu. Trong khi ông Nguyễn Cao Kỳ cho Việt Nam Nhân Xă Cách Mạng Đảng ra đời và dùng nhiều cựu Đảng viên Cần Lao th́ ông Nguyễn Văn Thiệu lại rất dè dặt và tính kỹ. Ông lo bảo vệ chiếc ghế Tổng Thống nên chỉ dùng giới hạn và ăn chắc như trường hợp DS. Nguyễn Cao Thăng, Cựu Dân Biểu Quốc Hội thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, được ông Thiệu mời làm Phụ Tá Đặc Biệt để “nắm” Quốc Hội. Ngoài ra, nhân vật nào có tiếng và có khả năng là ông Thiệu cho an ninh bám sát, theo dơi ngày đêm. Cụ thể nhất là trường hợp BS Trần Kim Tuyến nhà ở đường Công Lư luôn luôn bị an ninh lảng vảng bên ngoài theo dơi. Ông Tuyến đi đâu là an ninh cặp kè theo sau. Về đến nhà, an ninh lại ngồi canh chừng ngoài cổng!

 

Câu hỏi cần đặt ra là tại sao TT Nguyễn Văn Thiệu lại cho người bám sát, theo dơi BS. Trần Kim Tuyến? Thưa v́ BS Tuyển là Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị trông coi về t́nh báo (nôm na gọi là mật vụ), quen biết và liên hệ với nhiều nhân vật trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Có thể nói Sở Nghiên Cứu là một phần của hệ thống thần kinh của chế độ. Sở Nghiên Cứu không phải là sáng kiến của TT Ngô Đ́nh Diệm mà là của Mỹ. Chính Mỹ đề nghị TT Ngô Đ́nh Diệm lập cơ quan mật vụ tức Sở Nghiên Cứu Chính Trị Xă Hội tương tự như CIA của Mỹ và chính CIA huấn luyện Bác Sĩ Trần Kim Tuyến trở thanh trùm mật vụ và từng tài trợ ít nhiều cho Sở này.

 

Cái đáng buồn là khi Mỹ quyết tâm lật đổ Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm th́ họ tung ra nhiều đ̣n phép rất là độc hại không phải chỉ vào thời điểm đó mà di hại cho đến ngày nay. Trước hết là gây ly gián giữa những nhân vật cao cấp và thân tín của TT Ngô Đ́nh Diệm với Tổng Thống bằng những xúi giục, hứa hẹn chức quyền. Thứ hai là họ gặp riêng một số nhân vật và phe nhóm có khả năng, xúi giục lập nhóm đảo chánh mà thực chất là để “cầm chân”.

 

Qua hồi kư của nhà thơ Nguyên Sa (trang 336) chuyện xẩy ra tại nhà hàng La Cigale qua một bữa cơm chiều do ông Đặng Đức Khôi tổ chức có sự hiện của BS Trần Kim Tuyến, ông Cao Xuân Vỹ và hai người ngoại quốc (CIA?) được bí mật thu băng lại có trong tay TT Ngô Đ́nh Diệm. Đặng Đức Khôi nói là t́nh h́nh thay đổi, phải cho ông bà Nhu đi th́ mới yên).

 

BS Trần Kim Tuyến bị thất sủng sau vụ xin Tổng Thống tha cho ông Nguyễn Xuân Tiếu và ông Nguyễn Văn Lực tháng 1-1962 (bị Công An bắt giam). Hai tháng sau, phi công Nguyễn Văn Cử là con ông Nguyễn Văn Lực ném bom Dinh Độc Lập. Có lần Tổng Thống hỏi BS Trần Kim Tuyến: “Vụ này nghe như ông biết trước phải không?” khiến ” Đương sự lạnh cả người). Ông Nguyễn Văn Lực lănh tụ VNQDĐ lại bí mật chứa chấp Nguyễn Văn Linh tại nhà (thời Cộng Ḥa) sau này Nguyễn Văn Linh lên làm Tổng Bí Thư Đảng CSVN!

 

Người thứ hai là ông Dương Văn Hiếu, Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung. Sau một thời gian bị cầm tù được thả ra, ông được chính quyền “mời” làm việc trở lại tại Phủ Đặc Ủy Trung Ương T́nh Báo. Ông than phiền chưa khi nào làm việc mà “chán phèo” như thời gian này. Mục đích của ông Thiệu là để “cầm chân” ông Hiếu!

 

 

Tưởng Niệm Cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm

 

Ngay sau khi TT Ngô Đ́nh Diệm và Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu bị thảm sát, thời đă có nhiều nơi âm thầm làm lễ cầu nguyện cho anh linh hai vị. Rồi từ đó, hằng năm, cứ đến ngày 2-11, rất nhiều nơi đă làm Lễ tưởng niệm và cầu nguyện cho Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Mới đầu th́ ít ỏi v́ sợ mang tiếng Cần Lao sẽ bị trả thù. Nhưng dần dần, khi bọn phản tướng bị đá văng ra khỏi chính trường th́ việc tổ chức Lễ Tưởng Niệm TT Ngô Đ́nh Diệm đă ở mức quy mô, ở nhiều nơi. Lúc bấy giờ dư luận mới thấy âm mưu lật đổ chính quyền của TT Ngô Đ́nh Diệm là do CIA chủ động. Ngày 1-11-1963, Lou Conein đă ngồi ngay trong pḥng làm việc của Trần Thiện Khiêm (là agent của CIA và là người nguy hiểm nhất), gác hai chân lên bàn để chỉ đạo cuộc đảo chánh. Nhóm tướng lănh thực hiện đảo chánh (Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Trần Thiện Khiêm, Mai Hữu Xuân, vân vân) chỉ là bọn tay sai đâm thuê chém mướn bằng một cái giá rẻ mạt 40 ngàn Dollars (3 triệu đồng tiền VNCH) do Lou Conein trực tiếp trao cho Trần Văn Đôn để chia nhau sau đảo chánh. Đó là giá máu được trao cho những tên Giu-đa tân thời!

 

    (Trần Văn Đôn ghi rơ chi tiết trong Việt Nam Nhân Chứng 563 và kế tiếp)

 

Trong hai năm sau Đảo chính, t́nh h́nh chính trị miền Nam thêm rối ren chưa từng thấy. T́nh h́nh cứ xáo trộn măi cho đến khi nhóm tướng trẻ (Thiệu, Kỳ, Có) loại được Nguyễn Khánh cũng như nhóm dân sự ra đi để Quân Đội trở lại nắm chính quyền. Lúc đó Tướng Nguyễn Hữu Có làm Phó Chủ Tịch UBHPTƯ kiêm Bộ Trưởng Quốc Pḥng nhưng Văn pḥng làm việc lại đặt ở Bộ Tổng Tham Mưu. V́ sợ t́nh h́nh c̣n biến loạn nên Nguyễn Hữu Có đă chỉ thị cho đàn em phải dời hai phần mộ của TT Ngô Đ́nh Diệm và Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu ra Nghĩa Trang Mạc Đĩnh Chi, đặt gần ngay mộ của Cố Đại Tướng Lê Văn Tỵ (qua đời năm 1964). Lư do Tướng Có tin rằng v́ TT Ngô Đ́nh Diệm và Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu bị thảm sát và thi thể hai ông lại đem chôn ở trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu nên bị “hai ông phá”.

 

Lễ giỗ cho TT Diệm lần đầu tiên được tổ chức công khai ngay tại Sài G̣n năm 1966 là do Cố Đại tá Nguyễn Hữu Duệ, cựu Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn Liên Binh Pḥng Vệ Tổng Thống Phủ  và Cựu Trung Tá Nguyễn Văn Minh, nguyên Chánh Văn Pḥng Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung của ông Ngô Đ́nh Cần, lúc đó cũng làm việc với ông tại Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị. Khi được biết Bộ Tổng Tham Mưu đă cho đưa thi hài Tổng Thống Diệm và Cố vấn Nhu ra Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, nên hai ông đă thông báo địa điểm phần mộ Tổng Thống Diệm và Cố vấn Nhu ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi cho một số hội đoàn của ít nhất 7, 8 xứ đạo lân cận Sài g̣n, đồng thời xin lễ cầu hồn cho hai Vị tại nhà thờ Xóm Chiếu. Ngày 2/11 năm 1966 đă có một đoàn hàng chục xe Lam chở bà con đem bông, nhang, nến đến thắp, đặt bông, đọc kinh cầu nguyện cho hai Vị tại Nghĩa Trang Mạc Đĩnh Chi. Trong khi đó, tại nhà thờ Xóm chiếu do Linh mục Phạm Hoàng Thanh nhận thực hiện. Cha Thanh đă đặt một bàn mồ lớn giữa nhà thờ với đèn nến, bông hoa rất trang trọng. Trên 2 lối vào nhà thờ, cha căng 2 biểu ngữ lớn, nền tím chữ vàng “Lễ Cầu Hồn cho cố Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm”. Có 2, 3 thông tín viên ngoại quốc đến chụp h́nh, quay phim.

 

Những năm kế tiếp, việc tổ chức Lễ Giỗ TT Ngô Đ́nh Diệm và Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu được tổ chức liên tục hằng năm tại Nhà Thờ Ḍng Chúa Cứu Thế số 38 đường Kỳ Đồng, sau đó là Nhà Thờ Đức Bà tức Vương Cung Thánh Đường tại Công Trường Ḥa B́nh, Sài G̣n ngay trước Bộ Nội Vụ và Tổng Nha Bưu Điện.

 

Năm 1971, Lễ Tưởng Niệm và Cầu Nguyện cho Cố TT Ngô Đ́nh Diệm tại Vương Cung Thánh Đường tức Nhà Thờ Đức Bà Sài G̣n có thể được coi như là ngày long trọng và lớn lao nhất. Hàng ngàn đại diện Dân, Quân, Cán, Chính và đồng bào đă tề tựu đông đủ vào sáng ngày 2-11-1971. Ban tổ chức đă phân công cho chúng tôi, Cựu Trung Tá Trần Thanh Chiêu và người viết phụ trách vận động đồng bào vùng Thủ Đức, Hố Nai, Biên Ḥa. Phái đoàn Thủ Đức, Hố Nai, Biên Ḥa được hướng dẫn đến Công Trường Ḥa B́nh, nhưng thay v́ đến thẳng mặt tiền Nhà Thờ Đức Bà, đă đáp xuống đầu đường Duy Tân rồi sắp hàng thật dài diễn hành chung quanh nhà thờ mà đi đầu là ban kèn Tây Cecilia thuộc Giáo xứ Chân Phúc Khang Thủ Đức với bức chân dung Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm được rước đi trước. Khi đoàn diễn hành tiến bước th́ ban kèn đồng đă liên tục cử hành bài Suy Tôn Ngô Tổng Thống vang lên khắp đường phố. Dân chúng đứng chung quanh đă túa ra xem hô to khẩu hiệu “Ngô Tổng Thống Muôn Năm!”. Các phóng viên ngoại quốc chạy đôn đáo chụp h́nh, quay phim làm bản tin gửi đi khắp nơi.

 

Sau Thánh Lễ cầu nguyện, thay v́ dùng xe di chuyển như những năm trước, Ban Tổ Chức đă quyết định tất cả sẽ cùng diễn hành (đi bộ) từ đại lộ Thống Nhất đến Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi để viếng mộ TT Ngô Đ́nh Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu. Thời gian di chuyển tuy có kéo dài thêm v́ số người tham dự quá đông diễn hành trên quăng đường khá dài từ Nhà Thờ Đức Bà đến nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, nhưng tất cả đều diễn ra rất trật tự và tốt đẹp.

 

 

Anh em nhớ đến tôi th́ làm…

 

Sau khi Chính Quyền của TT Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ và sau khi chứng kiến những thất bại và bất lực của các Chính Phủ sau ngày 1-11-1963, người ta mới thấy việc làm của Mỹ và bọn phản tướng là một sai lầm không sao sửa chữa được. Thật đúng như lời nhận định của Cụ Phạm Xuân Ninh tức nhà thơ Hà Thượng Nhân, nguyên Trung Tá Giám Đốc Đài Phát Thanh Quân Đội VNCH:

  

“Tôi nghĩ sự thật vẫn là sự thật. Các ông tướng lấy tiền của Mỹ có thể giết được thể xác anh em họ Ngô, nhưng họ không thể giết được thanh danh, tinh thần và uy tín của họ Ngô. Khi các ông tướng xuống tay th́ chính cũng là lúc họ tự sát. Họ chết khi c̣n đang sống.

    

Muốn nói ǵ th́ nói, miền Nam từ 1948 đến 1975, chỉ duy nhất có chế độ Ngô Đ́nh Diệm là xứng đáng. Chỉ dưới chế độ ông, quốc gia mới có kỷ cương, có thể thống.

    

 Không thể đem so sánh chế độ ấy với bất cứ chế độ nào từ Nguyễn Văn Xuân đến Nguyễn Văn Thiệu. Giết anh em họ Ngô, các ông tướng đă vô t́nh giết cái chính nghĩa quốc gia mà họ vẫn hô hào phục vụ,

   

Dù sao người chết đă chết rồi. Chỉ c̣n một điều đáng ân hận anh em Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm c̣n một chính sách, một kế hoạch cần phải thực hiện.

    

Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm cùng các ông Ngô Đ́nh Nhu, Ngô Đ́nh Cẩn mới lo củng cố được chính quyền. Họ chưa có th́ giờ thực hiện được những điều mà tác giả Nguyễn Văn Minh đề cập đến trong cuốn sách này.”

(Trích Lời Đề Tựa cuốn sách “Ḍng Họ Ngô Đ́nh, Giấc Mơ Chưa Đạt” của cựu Trung Tá Nguyễn Văn Minh, nguyên Chánh Văn Pḥng Cố Vấn Chỉ Đạo Miền Trung, nguyên Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Hạ Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị QLVNCH).

 

Tưởng niệm TT Ngô Đ́nh Diệm và ông Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu thật sự không phải chỉ để tiếc nuối chế độ Cộng Ḥa đă đem lại an b́nh, hạnh phúc cho người dân trong suốt 9 năm trời mà phải đi vào hành động cụ thể. Chín năm xây dựng không phải là dễ dàng, bởi v́ từ khi về VN chấp chánh, chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đă trải qua muôn vàn khó khăn, từ việc ổn định t́nh h́nh, dẹp tan các Giáo phái, thống nhất lực lượng Quốc gia, định cư gần một triệu đồng bào di cư từ Bắc vào Nam, vân vân. Sau đó đến việc xây dựng và đặt nền móng căn bản cho chế độ Cộng Ḥa, bầu cử Quốc Hội, cải tổ Hành Chính, tổ chức Quân Đội ở tầm mức quy mô, xây dựng và phát triển các ngành, cùng các lĩnh vực kinh tế, tài chính, xă hội, văn hóa, giáo dục… Rồi khi Cộng Sản Bắc Việt cùng với quan thầy Cộng sản Quốc Tế gia tăng xâm nhập phá hoại th́ chính phủ Ngô Đ́nh Diệm đă đề ra Quốc Sách Ấp Chiến Lược để đối phó với giặc Cộng. Nh́n lại chặng đường ngắn ngủi 9 năm với bao công việc như thế, phải nói là một kỳ công có một không hai ở Đông Nam Á. Các chính phủ sau ngày 1-11-1963 chỉ là những kẻ thừa kế các di sản đó. Cái khó là đặt nền móng xây dựng chế độ Cộng Ḥa và TT Ngô Đ́nh Diệm đă hoàn tất một cách tuyệt hảo. Nếu như các chính phủ sau 1-11-1963 biết bảo vệ và phát triển những thành quả của nền Đệ Nhất Cộng Ḥa th́ lợi ích biết bao. Tiếc rằng họ bất lực nên Miền Nam trở thành miếng mồi ngon cho Cộng sản.

 

Trở lại Lời Trối Trăng của ông Cố Vấn Ngô Đ́nh Nhu, th́ hai điều đầu tiên là (1) “Lư thuyết Nhân Vị và (2) đưa lư thuyết Nhân Vị vào trong Hiến Pháp bằng chủ trương Nhân Vị Cộng Đồng, Đồng Tiến Xă Hội” thời dưới thời Đệ Nhất Cộng Ḥa đă làm rồi và trên đà triển khai lư thuyết này qua Quốc sách Ấp Chiến Lược. Sau ngày 1-11-1963, lư thuyết Nhân vị bị băi bỏ và Đảng Cần Lao bị ngưng hoạt động. Nhưng trên thực tế th́ nó vẫn được duy tŕ dưới một h́nh thức khác nếu mọi người hiểu cho rằng chủ thuyết Nhân Vị nhằm đấu tranh bảo vệ quyền tự do và phẩm giá của con người. Nói rộng ra th́ lư thuyết nhân vị hoàn toàn hướng về con người, là nhân bản, là nhân quyền. Nội dung Tuyên ngôn Nhân Quyền của Cách Mạng Pháp (1789), Tuyên Ngôn Độc lập Hoa Kỳ (1776) và Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc 1948 cũng đă bao hàm chủ thuyết Nhân vị. Hăy đọc và so sánh hai bản Hiến Pháp 1956 và Hiến Pháp 1967 có khác nhau nhiều đâu. Từ bố cục đến nội dung hầu như Hiến Pháp 1967 đă rập khuôn và sửa đổi lại một số điều khoản. Phần nói về quyền lợi và bổn phận công dân th́ hầu như là không thay đổi. Đây chính là nội dung chủ thuyết Nhân Vị đó thôi. Nghĩ lại cũng tức cười. Mấy ông to mồm chống đối “chế độ độc tài” Ngô Đ́nh Diệm, vậy mà khi đắc cử làm Dân Biểu Quốc Hội Lập Hiến 1966 th́ đă sao chép lại Hiến Pháp 1956 rồi đem sửa đổi một số điều, có khác chi nhổ ra rồi lại nuốt vô! Nếu chịu khó đọc các bản Hiến Pháp của Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Cộng, Việt Cộng và Hiến pháp VNCH 1956 rồi đem so sánh và tự hỏi: Hiến Pháp VNCH 1967 giống bản Hiến Pháp nào nhất? Chắc chắn là giống Hiến Pháp 1956 thời TT Ngô Đ́nh Diệm hơn bất cứ bản Hiến Pháp nào khác trên thế giới.

 

Xin trích Lời Mở Đầu của hai bản Hiến Pháp 1956 và Hiến Pháp 1967 để quư độc giả so sánh:

 

Tin tưởng rằng ḷng ái quốc, chí quật cường, truyền thống đấu tranh của dân tộc bảo đảm tương lai huy hoàng của Tổ Quốc (Lời Mở Đầu Hiến Pháp 1967)

   

Tin tưởng ở tương lai huy hoàng bất diệt của Quốc gia và Dân tộc Việt Nam mà lịch sử tranh đấu oai hùng của tổ tiên và ư chí quật cường của toàn dân đảm bảo; (Lời Mở Đầu Hiến Pháp 1956) 

 

Rơ ràng là các nhà lập hiến 1967 đă sao chép và sửa lại Lời Mở Đầu của Hiến Pháp 1956.

 

Nhớ lại, Quốc Hội Lập Hiến 1966-1967 gồm toàn những người mới, một số là những nhân vật từng chống đối TT Ngô Đ́nh Diệm và nền Đệ Nhất Cộng Ḥa, chê Hiến Pháp 1956 là không dân chủ. Cũng Quốc Hội này, có nhiều cái đầu to như Phan Khắc Sửu, Phan Quang Đán, Trần Văn Văn, vân vân, vậy mà chẳng làm nên chuyện.

 

Hiến Pháp VNCH 1967 quy định Quốc Hội gồm có hai viện: Thượng Nghị Viện và Hạ Nghị Viện. Các Dân Biểu trong Quốc Hội Lập Hiến được bầu ngày 11-9-1966 (trong đó có các ông Phan Khắc Sửu, Trần Văn Văn, Phan Quang Đán…) nghĩ rằng Quốc Hội lưỡng viện sẽ dân chủ hơn Quốc Hội Nhất Viện! Nhưng các ông đă tính sai và lầm to nếu biết rằng Hiến Pháp 1967 đă dành cho Hạ Nghị Viện nhiều quyền hơn Thượng Nghị Viện. Hăy coi lại điều 43 khoản 5, 6, và 7  Hiến Pháp 1967 về thủ tục làm luật ở Quốc Hội th́ đủ rơ. Hành Pháp chỉ cần nắm được Hạ Viện là có thể chi phối Quốc Hội dễ dàng. Thực tế, TT. Nguyễn Văn Thiệu qua Phụ Tá Nguyễn Cao Thăng đă “nắm” được Hạ Nghị Viện. Sau đó, khi ông Nguyễn Văn Thiệu tái đắc cử Tổng Thống nhiệm kỳ 2 (1971-1975), ông đă sai đàn em sửa Nội Quy áp dụng thể thức bầu Liên danh Văn Pḥng Quốc Hội (cả Thượng Viện và Hạ Viện) trong chủ trương “lấy thịt đè người” thay v́ áp dụng thể thức đơn danh như thời Quốc Hội pháp nhiệm 1 (1967-1971). Chính v́ chủ trương độc tài của phe nhóm ông Thiệu mà Nghị Sĩ Nguyễn Văn Huyền đă từ chức để phản đối và ra khỏi Quốc Hội.

 

Chế độ Cộng sản là nguyên nhân của đói nghèo, lạc hậu và bán nước

 

Sau khi tấn chiếm miền Nam, ngụy quyền CS Hà Nội đă biến Việt Nam thành một trong những nước đói nghèo và lạc hậu nhất thế giới. Nhân quyền bị tước bỏ, tài sản nhân dân bị cướp đoạt, Tôn giáo bị đàn áp. Hơn nửa triệu quân, cán, chính VNCH bị sung vào các trại học tập cải tạo. Nói tóm lại, cả nước là một nhà tù vĩ đại. Cho nên hàng triệu người đă bỏ nước ra đi t́m tự do bất kể những hiểm nguy đến tính mạng, trong đó nửa triệu người đă biến thành mồi cho tôm cá ở dưới ḷng biển. Tệ hơn nữa, tập đoàn CS Hà Nội c̣n dâng đất, dâng biển cho Trung Cộng nhằm trả món nợ xâm lăng VNCH. Trong tài liệu Chính Đề Việt Nam, ông Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu từng viết:

 

“Các nhà lănh đạo miền Bắc, khi tự đặt ḿnh vào sự chi phối của Trung Cộng, đă đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại c̣n đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.

    

Sở dĩ ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành h́nh, là v́ hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, th́ sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.

    

Trong hoàn cảnh hiện tại, sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của Trung Cộng, vừa là một bảo đảm một lối thoát cho các  nhà lănh đạo Cộng Sản Bắc Việt, khi họ ư thức nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nào họ vẫn tiếp tục thực hiện ư định xâm chiếm miền Nam th́ họ vẫn c̣n chịu sự chi phối của chính sách xâm lăng của Trung Cộng, thay v́ chính sách sống chung ḥa b́nh của Nga Sô.

    

V́ vậy cho nên, sự mất c̣n của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một quyết định sự mất c̣n trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc lập, và sự phát triển cho miền Nam để duy tŕ lối thoát cho miền Bắc và cứu dân tộc khỏi ách thống trị một lần nữa.” (CĐVN tr. 302)

 

Lời tiên đoán của ông Ngô Đ́nh Nhu từ nửa thế kỷ trước, nay đă ứng nghiệm. Đất nước hiện đang rơi vào ṿng nô lệ ngoại bang và tập đoàn CSVN khó ḷng thoát khỏi bàn tay không chế và tham vọng bá quyền của Bắc Kinh. Chính Hồ Chí Minh và tập đoàn CSVN là thủ phạm đă rước chủ nghĩa Mác Lê đầy ác ôn đó vào để con cháu chúng ta ngày nay đang phải lănh nhận một hậu quả vô cùng khốc hại. Bởi tập đoàn Cộng Sản ác ôn đă không c̣n nhân tính nên dân chúng khắp hai miền cũng không c̣n được sống trong bầu khí tự do với phẩm giá của một kiếp người. Đảng Cộng sản tự hào là đấy tớ phục vụ nhân dân đă biến thành ông chủ với quyền năng vô hạn. Nhân dân bị chúng lừa bịp xưng tụng là ông chủ đă bị biến thành những tên đầy tớ phục vụ cho các ông chủ tư bản Đỏ! Thật đúng như Engels và Lênin đă khẳng định: “Nhà nước là công cụ của giai cấp này để đàn áp giai cấp khác. Nhà nước được lập nên không phải v́ tự do. Nói cách khác, có nhà nước th́ không có tự do. Mà có tự do th́ không có nhà nước.” Cứ xem từ Đông Âu, Liên Sô, qua Cuba đến Việt Nam, dưới chế độ Cộng sản, có nơi nào dân chúng được tự do? Có nơi nào dân chúng được làm chủ? Bởi v́ nơi nào Cộng sản ngự trị th́ cuộc sống con người sẽ không c̣n là người đích thực nữa.

 

Nhưng Văn hóa miền Nam vẫn sống mạnh

 

Sau ngày 30-04-1975, Miền Nam đă bị nhuộm đỏ. Chế độ Cộng Ḥa trên thực tế không c̣n nữa và Việt Nam hoàn toàn đặt dưới sự thống trị của Cộng sản. Nhưng cũng trên thực tế, tuy thắng trên mặt trận quân sự và chính trị nhưng CSBV đă thua trên mặt trận Văn Hóa. Cái gọi là văn hóa đồi trụy của Miền Nam mà Cộng sản Bắc Việt rêu rao đ̣i tiêu diệt tận gốc rễ lại là vũ khí sắc bén gặm nhấm và âm thầm đồng hóa cái văn hóa xă hội chủ nghĩa phi nhân của Miền Bắc. Nếp sống văn hóa Miền Nam tràn ra Miền Bắc cũng như văn hóa nông nghiệp đồng hóa văn hóa du mục. Bao công tŕnh văn hóa giáo dục của Miền Nam chẳng những không bị tiêu diệt mà c̣n sống mạnh. Sài G̣n vẫn hơn Hà Nội và Hà Nội mong bắt chước để đuổi kịp Sài G̣n. Giới thanh niên nam nữ và cả những ông bà đại cán của Hà Nội cũng mong bắt kịp lối sống văn hóa văn minh của Miền Nam. Sách báo Hà Nội xưa dùng những ngôn từ ăn nói du côn mất dạy đă phải tự thay đổi để theo nếp sống văn hóa đạo đức có lễ giáo của Miền Nam. Chỉ lấy một thí dụ đơn sơ là mẫu áo dài bà Ngô Đ́nh Như th́ đủ rơ. Trước đây, đă bao người chửi rủa bà Ngô Đ́nh Nhu thế nọ thế kia, nhưng cái áo dài bà Ngô Đ́nh Nhu lại là kiểu mẫu áo đẹp, cấp tiến, rất được trân trọng. Phải nói khắp nơi, phụ nữ hai miền Nam Bắc và cả ở hải ngoại đều ưa thích mẫu áo dài đó. Quả đúng về phương diện mỹ thuật, chiếc áo dài bà Ngô Đ́nh Nhu là thời trang đẹp và hấp dẫn, không ai có thể phủ nhận. Đă vậy, nhờ nó mà các nhà vẽ kiểu thời trang đă cải tiến thêm giúp cho phụ nữ Việt Nam đẹp thêm khi bận chiếc áo dài có thể nói là đẹp nhất trên thế giới trong các loại áo dài. Rồi đến nhạc vàng (t́nh cảm) của Miền Nam bỗng dưng sống lại với cái tên “nhạc Bolero” và được dân chúng khắp hai miền đua nhau hát thay cho thứ nhạc “sản xuất khô khan” của Miền Bắc xă hội chủ nghĩa!

 

Câu hỏi được đặt ra là cái ǵ đă làm cho Văn hóa Miền Nam (VNCH) sống mạnh và lướt thắng văn hóa xă hội chủ nghĩa miền Bắc? Thưa chính là những công tŕnh văn hóa, giáo dục, xă hội ở miền Nam được xây dựng trên t́nh người, trên nền tảng tự do, dân chủ và nhân quyền đáp ứng được ḷng dân mà biểu tượng bằng lá Cờ Vàng ba sọc đỏ. Tất cả những yếu tố đó đều nằm sẵn trong hai chữ Nhân Bản, Nhân Vị mà ra. Người ta không cần phải nói ra nhưng những công tŕnh xây dựng và sinh hoạt đă thấm nhiễm vào đời sống người dân Miền Nam. Dân chủ ở Miền Nam đă đi trước Miền Bắc ít nhất hai thập niên. Cho nên sau ngày 30-04-1975 mà nhất là sau năm 1991, khi chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ ở Đông Âu và Liên Số th́ người ta không lạ ǵ sức đồng hóa của Văn hóa Miền Nam c̣n gia tăng gấp bội. Dân chủ, nhân quyền, và quyền tự do của con người đă được người dân công khai bày tỏ trên báo chí và các diễn đàn Internet khiến Cộng Sản Hà Nội chóng mặt, phải dùng bạo lực để đàn áp. Rơ ràng chủ trương Tự do, Dân chủ và Nhân quyền luôn đáp ứng yêu cầu của thời đại, là xu thế của thời đại không có ǵ cưỡng lại được, không phải chỉ ở Âu châu hay Mỹ Châu mà khắp cả thế giới. Chính v́ thế mà sau 70 năm trời bị đặt dưới sự thống trị của chế độ Cộng sản phi nhân, người dân từ Ba Lan, Đông Đức qua đến Liên Xô đă đồng loạt đứng lên đánh đổ chế độ độc tài ác ôn nhằm xây dựng chế độ tự do, dân chủ, tôn trọng quyền tự do và phẩm giá của con người. Chủ nghĩa Cộng sản là thứ chủ nghĩa phi nhân độc hại, phải bị loại trừ ra khỏi xă hội loài người. C̣n bị nó thống trị th́ xă hội loài người c̣n đói khổ, chết chóc. C̣n bị nó thống trị th́ người dân c̣n là nô lệ, bị bóc lột. Xin hăy coi lại những lời nhận định chân thành của các nhân vật đầy uy tín trên thế giới:

 

1.     TT Nga Dmitry Medvedev tuyên bố tại Washington: Stalin was a killer (Stalin là tên sát nhân, ngày 15.04.2010).

2.     Russia President Vladimir Putin, TT Nga: “He who believes the communists has no brain. He who follows the communists has no heart”. Ai tin cộng sản là không có cái dầu. Ai theo lời của Cộng sản là không có trái tim.

3.     Russian President Boris Yeltsin (Tổng Thống Nga): You can build a throne with bayonets, but you can’t sit on it for long. Communists are incurable, they must be eradicated. Anh có thể xây ngai vàng bằng lưỡi lê, nhưng anh không thể ngồi lâu trên đó. Cộng sản không thể nào sửa chữa, mà cần phải đào thải chúng nó đi.

4.     Soviet Secretary Mikhail Gorbachev (Tổng Bí Thư Xô Viết): I have devoted half of my life for communism. Today, I am sad to say that The Communist Party only spread propaganda and deceives. Tôi đă bỏ một nửa cuộc đời cho lư tưởng Cộng sản. Hôm nay, tôi đau buồn mà thú nhận rằng: Cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá. Vân vân và vân vân.

 

Tóm lại, muốn thoát chế độ cộng sản th́ đừng sợ những ǵ Cộng sản làm, mà hăy làm những ǵ Cộng sản sợ!

    

Tinh thần Cần Lao Nhân Vị c̣n thích hợp không?

 

Cần Lao Nhân Vị là cần mẫn dùng sức lao động để làm việc phục vụ con người. V́ con người hay Nhân vị là đối tượng là cứu cánh để phục vụ phải được phát triển toàn diện. Hiểu theo nghĩa đúng đắn ấy thời Tinh thần Cần lao vẫn luôn có giá trị cần phải được bảo tồn và phát huy. T́nh thần ấy khác hẳn với cá nhân trong chủ nghĩa Mác Lê, coi con người là cá nhân, là công cụ cho tập thể. Nay Mác Lê đă bị quăng vào sọt rác thời ư niệm Nhân vị, Nhân quyền, Nhân bản phải được làm sáng tỏ ra.

 

Trong lời trối trăng, ông Cố vấn Ngô Đ́nh Nhu không nói đến Đảng Cần Lao mà chỉ nói đến Lư Thuyết Nhân Vị và đưa lư thuyết Nhân Vị vào Hiến Pháp. Nhưng Việt Nam Cộng Ḥa không c̣n, Hiến Pháp VNCH cũng bị ngưng thi hành th́ công cuộc đấu tranh giành lại chính quyền đề đưa Lư Thuyết Nhân Vị vào Hiến Pháp thay thế chủ thuyết Cộng sản lỗi thời là điều khẩn thiết phải làm. Muốn được như thế th́ nhân dân VN cách riêng những đoàn thể quốc gia và nhất là giới trẻ cần phải hoạt động tích cực dưới một h́nh thức nào đó đáp ứng được nhu cầu của t́nh h́nh nhằm giải thể chế độ Cộng sản và thực hiện cuộc Cách Mạng Nhân Vị lần thứ hai cho Việt Nam. Một nhân vật lănh đạo từng nói: “Thời đại mới, nhu cầu mới, phương pháp mới”. Tất nhiên phải có nhân sự mới. Nhưng muốn làm Cách Mạng thời phải có tổ chức Cách Mạng. Nhưng làm thế nào để có tổ chức cách mạng? Ông Ngô Đ́nh Nhu chỉ cho ta một phương thức: “Không dám nói là anh hùng tạo thời thế nhưng chúng ta tin chắc rằng những việc làm hữu cơ và quyết tâm đều có thể tạo nên cơ quan.” Đó là bửu bối, là ch́a khóa của tổ chức.

 

 

(Xem tiếp phần 3)

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính