Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm
1897-1963
Ls. Phạm Kim Vinh
Người ta c̣n nhớ rằng điều kiện tiên quyết do ông Ngô Đ́nh Diệm đặt ra
cho Bảo Đại là ông Diệm phải được “toàn quyền về dân sự và quân sự” th́
ông Diệm mới chịu trở về lănh đạo nước Việt Nam. Những ngày chót của cuộc
chiến tranh Đông Dương I. Bảo Đại phải chịu nhận điều kiện ấy. Do đó, khi
nhận định về thành tích đối nội và đối ngoại của Chính Quyền Ngô Đ́nh
Diệm, người ta nên nhận định từ cái bối cảnh “toàn quyền dân sự và quân
sự” đó.
Mặt khác, kể cả những quan sát viên quốc tế có cảm t́nh sâu đậm nhất với
ông Diệm cũng không che đậy sự băn khoăn và lo ngại là ông Diệm không thể
đứng vững được tới một năm. Trong hoàn cảnh này, thành tích đối nội của
ông Diệm là ch́a khóa để mở cửa cho lănh vực đối ngoại: Cộng Đồng Quốc Tế
sẽ nh́n vào khả năng đối nội của ông Diệm để chấp nhận Chính Phủ và xứ sở
của ông ta vào Cộng Đồng Quốc Tế.
Theo sát sự chấp chánh của ông Diệm ngay từ đầu, một Giáo Sư Chính Trị
Học của Mỹ thuộc Viện Đại Học Michigan là Wesley L. Fishel có nhận xét
rằng ông Diệm nhận cái quyền tưởng như rất rộng răi đó để thực hiện một
mục tiêu coi như “không thể làm được”:
“Làm sao giữ vững được con thuyền Quốc Gia lúc ấy đang nghiêng ngửa thảm
hại trước những thắng lợi quân sự to lớn và liên tiếp của Việt Minh. “.
Là người biết khá rơ về nội t́nh của Việt Nam năm 1954 Fishel kết luận
rằng cái toàn quyền dân sự và quân sự rộng lớn ấy thực ra “chỉ có trên
giấy tờ” v́ ông Diệm không kiểm soát được các lực lượng chính yếu của phía
Quốc Gia lúc ấy, Cảnh Sát, Công Chức, Quân Đội, Giáo Phái. Đó là chưa kể
tới sự phá hoại không cần ngụy trang của thực dân Pháp, sự phá hoại càng
tai hại hơn nữa của Cộng sản... Là người ngoại quốc, Fishel nêu được nhận
xét ấy cũng đáng khen lắm rồi. Trên thực tế, ông Diệm đă lănh đạo trong
hoàn cảnh cực kỳ khó khăn mà ngoài ông ra, không một nhân vật quốc gia nào
lúc ấy dám có khí phách nhận lănh Lá Cờ Quốc Gia.
Là người làm chính trị tầm vóc quốc tế, cái nh́n của ông Diệm đối với
việc giải cứu quê hương Việt Nam năm 1954 là cái nh́n ở tầm mức Quốc Gia.
Chỉ có cái nh́n sâu sắc và bao quát như thế mới có thể giữ vững được uy
quyền Quốc Gia để từ đó, đạt tới các mục tiêu khác của sự đối nội và đối
ngoại. Tin tưởng rằng người dân Việt nào cũng yêu nước một cách sáng suốt
và nhất là tỉnh táo trước nguy cơ của cộng sản, ông đă kêu gọi ḷng yêu
nước và sự hiểu biết của dân chúng Việt Nam để giúp ông hoàn thành sứ mạng
cứu nước. Nhưng lúc ấy, bức tranh của xă hội Việt Nam, nhất là xă hội miền
Nam Việt Nam thật là nản ḷng.
Sự nản ḷng đầu tiên đến từ chính người đă trao toàn quyền cho ông Diệm,
đó là “Quốc Trưởng” Bảo Đại. Được mẫu quốc Pháp đào tạo để trở thành một
con người chỉ biết hưởng thụ vật chất, Bảo Đại đă “bán đứt” vùng Sài
G̣n-Chợ Lớn cho tên tướng cướp Bảy Viễn để lấy một số tiền lớn sống xa hoa
tại Pháp. V́ sự mua bán này và tin rằng Bảo Đại có khả năng gạt ông Diệm
ra khỏi chính trường Việt Nam bất cứ lúc nào, tên Bảy Viễn đă hành động y
hệt một ông vua của Sài G̣n-Chợ Lớn. Đồng đảng của tên Bảy Viễn lại nắm
luôn cả Ngành Cảnh Sát Công An Nam Việt Nam lúc ông Diệm chấp chánh nữa.
Quân Đội Quốc Gia thời ấy chưa được thử thách nhiều và lại đặt dưới sự
khống chế của Bộ Tư Lệnh Pháp tại Đông Dương (muốn di chuyển một đơn vị
quân sự Việt Nam dầu nhỏ đến đâu cũng phải được sự cho phép của Bộ Tư Lệnh
Pháp). Như thế chưa đủ, nên người Pháp c̣n đặt tên Nguyễn Văn Hinh vào vai
tṛ Tham Mưu Trưởng đầu tiên của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Hinh là “dân
Tây” mang cấp bậc Trung Tá Không Quân của Pháp nên hết ḷng khuyển mă với
quan thầy thực dân Pháp. Với tư cách ấy, xuất xứ ấy mà lại điều khiển Quân
Đội Quốc Gia Việt Nam, tên Hinh rất xứng đáng với danh xưng “việt gian”.
Cũng may là trong thời kỳ phôi thai này, có một số Đơn Vị Quân Đội Quốc
Gia đă may mắn có Đơn Vị Trưởng sáng suốt để “ly khai” khỏi sự khống chế
của thực dân/Hinh để trực tiếp ủng hộ ông Diệm trong việc đối nội.
Nếu lúc ấy, các Giáo Phái tại miền Nam Việt Nam có được cái nh́n tầm mức
Quốc Gia như ông Diệm, nếu họ thấu triệt được nguy cơ cộng sản như ông
Diệm, th́ các Giáo Phái ấy đă phải tự nguyện t́m đến hợp tác với Chính
Quyền Diệm rồi. Tiếc rằng thực dân Pháp đă làm băng hoại tinh thần yêu
nước của các Giáo Phái ấy và mang quyền lợi riêng tư làm mồi câu, khiến
cho các Giáo Phái ấy không nh́n thấy được con đường phải theo nữa. Vơ
trang cho các Giáo Phái ở miền Nam là một thủ đoạn của người Pháp. Hậu quả
của thủ đoạn ấy là khai sanh tinh thần “lănh chúa” nơi những người Lănh
Đạo Giáo Phái. Tinh thần ấy đă uốn nắn lối suy tưởng của người Lănh Đạo
Giáo Phái, làm cho họ chỉ c̣n nh́n thấy quyền lợi nhỏ hẹp trong giới hạn
Tôn Giáo của họ. Giáo Sư Fishel ghi rằng “các Giáo Phái vơ trang ấy đă đ̣i
giá rất cao để hợp tác với ông Diệm” (Marvin E. Gettleman, “Vietnam...”
Trang 198).
Người viết sách này rất hănh diện được tôn vinh ở đây sự sáng suốt về
chính trị và ḷng yêu nước sâu xa của Tướng Tŕnh Minh Thế, người đă làm
đẹp mặt cho Giáo Phái Cao Đài. Tướng Thế đă đến với ông Ngô Đ́nh Diệm rất
sớm và cũng là một trong những người có công lớn thúc đẩy ông Diệm có thái
độ dứt khoát với Bảo Đại. Tướng Thế là một Quân Nhân đa hiệu đa năng, có
khả năng hiếm có là vừa có dũng lại vừa có mưu lược. Ông ta đă đi trước
người đương thời đến cả chục năm về sáng kiến và phát minh, thí dụ chế ra
cách làm bom nổ chậm, lập đài phát thanh, lập đường dây điện thoại đặc
biệt. Phải khâm phục Tướng Thế về cái nh́n chiến lược của ông ta ngay
trước khi thỏa hiệp Genéve 1954 ra đời. Lúc ấy, Tướng Thế đă chủ trương
rằng, nếu Hà Nội không chịu chấm dứt cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam th́
cần chiếm ngay hai Tỉnh quan ải của Bắc Việt, tiếp giáp với vĩ tuyến 17,
để buộc Hà Nội phải chấm dứt mọi h́nh thức khuynh đảo và xâm chiếm miền
Nam Việt Nam.
Đạo quân công chức quốc gia lúc ông Diệm về nước là đạo quân phục vụ
nhiều năm dưới sự lănh đạo của thực dân Pháp. Đó là một đạo quân ngơ ngác,
an phận và nói rơ hơn nữa, là khiếp nhược. Đạo quân ấy chắc chắn không
giúp ǵ được cho ông Diệm trong những tuần lễ đầu tiên ông ta cầm quyền.
Đó là chưa kể đến sự phá hoại vừa công khai, vừa kín đáo của thực dân
Pháp, chưa kể đến thái độ “chờ xem” của ngay chính nước bạn Mỹ và lại càng
chưa nói đến sự phá hoại c̣n ghê gớm hơn nữa của cộng sản...Có lẽ điều an
ủi duy nhất cho ông Diệm trong lúc ấy là thái độ thụ động của quần chúng
miền Nam Việt Nam. Dường như họ trông chờ xem ông ta có thể làm ǵ được để
xoay chuyển t́nh thế quá đen tối lúc ấy và thế giới bên ngoài không ngạc
nhiên nữa, khi có rất nhiều quan sát viên chờ đợi Chính Quyền Diệm sụp đổ
ngay sau năm cầm quyền đầu tiên.
Thế mà ông Ngô Đ́nh Diệm đă đứng vững được năm đầu tiên và c̣n đứng vững
hơn nữa ít ra là ở năm năm kế tiếp.
Khí phách và đởm lược lănh đạo của ông Diệm đă bị mang thử thách dữ dội
nhất vào ngày 19.3.1955, khi những người Lănh Đạo Cao Đài, Ḥa Hảo và B́nh
Xuyên liên kết với nhau thành một mặt trận rồi gởi tối hậu thư cho ông
Diệm. Đồng thời, phía thực dân Pháp tại Sài G̣n c̣n làm bộ nhân đức là
khuyên ông Diệm “đừng nên chiến tranh tại Đường Phố Sài G̣n/Chợ Lớn để dẹp
các Giáo Phái”. Ông Diệm đă hành động đúng vai tṛ của một người Lănh Đạo
Quốc Gia là không thể duy tŕ t́nh trạng quái gở và hỗn loạn là nhiều Quốc
Gia trong một Quốc Gia. Chỉ cần ông nhu nhược và đầu hàng cái tham vọng
lănh chúa và thiển cận của các Giáo Phái vơ trang thời ấy là miền Nam Việt
Nam đă rơi vào t́nh trạng vô chính phủ, để rồi làm mồi cho Cộng sản ngay
sau đó rồi (Vietnam Crisis, trang 86).
Quốc Gia đầu tiên chấm điểm thành tích của Chính Quyền Diệm là nước Mỹ và
họ chấm điểm một cách rất thiết thực. Trước hào quang sáng chói của ông
Diệm sau cuộc di cư 1954-1955, với sự ủng hộ cụ thể và nồng nhiệt của
nhiều Quốc Gia dành cho ông ta, phía cộng sản rất lo sợ. Chúng vội vàng
t́m đề tài tuyên truyền để mong triệt hạ uy tín đang lên cao ấy của ông
Diệm. Đề tài được chúng nhai lại nhiều lần và vẫn có kẻ ngu xuẩn trên thế
giới tin theo, là sự gán cho ông Diệm cái tội “làm tay sai cho đế quốc Mỹ”
Tài liệu ngổn ngang trong sách báo ngoại ngữ đều chứng minh điều ngược
hẳn lại, nghĩa là cho tới ngày chết, ông Diệm không những đă không rơi vào
cái lỗi sợ sệt nước bạn Mỹ, mà c̣n làm cho nước bạn Mỹ nhiều lần căm hờn
v́ tinh thần bất khuất và v́ ư thức bảo vệ danh dự cũng như Chủ Quyền Quốc
Gia lúc nào cũng cực kỳ mạnh mẽ trong con người cũng như trong tác phong
của ông Diệm.
Rơ rệt nhất có lẽ là thời điểm mà
nước Mỹ đă lựa để khởi đầu sự viện trợ cho Chính Quyền Diệm. Măi tới tháng
10.1954, sau hai tháng có mặt tại Nam Việt Nam để t́m hiểu hy vọng tồn tại
của Chính Quyền Diệm, Nghị Sĩ Mỹ Mike Mansfield (người có ảnh hưởng rất
sâu xa đối với việc h́nh thành chính sách đối ngoại của nước Mỹ) mới phúc
tŕnh về Quốc Hội Mỹ rằng ông Diệm rất xứng đáng được Mỹ viện trợ về kinh
tế và quân sự. Mansfield kết luận trong phúc tŕnh rằng “...Ông Diệm nổi
tiếng khắp Việt Nam là người có Tinh Thần Quốc Gia rất cao, là người không
thể bị mua chuộc. Ông ta cương quyết diệt trừ phá hoại và diệt âm mưu,
mạnh mẽ chống tham nhũng và bất công xă hội. Từ sự thất bại của tự do
trước đó, ông ta đă đưa vào một sinh khí mới.” (Stephen Pan & Daniel
Lyons, “Vietnam Crisis” Twin Circle Publishing Co. , New York 1966, trang
86).
Đầu tháng 1 năm 1956, tuần báo ôn ḥa và trung lập của nước Anh là tờ
The Economist viết: “Từ một t́nh thế dường như tuyệt vọng trước đó 18
tháng, Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm đă mang lại được một trật tự và một sự yên
ổn có thể làm cho Miến Điện, Nam Dương và ngay cả Mă Lai nữa, thèm muốn.
Nhưng công việc c̣n phải làm sẽ rất nhiều và gian nan. “(Vietnam Crisis,
trang 80)
Tháng 6 năm 1956, tại diễn đàn Hội Những Người Mỹ Bạn Của Việt Nam, Nghị
Sĩ John F. Kennedy khuyến cáo nước Mỹ “hăy mau lẹ cung cấp viện trợ quân
sự và kinh tế nhiều hơn nữa cho Tổng Thống Diệm, v́ Chính Phủ của ông ta
đă thực hiện những bước sinh tử đầu tiên để tiến tới dân chủ thực sự. Ở
nơi mà trước đây, thực dân và cộng sản giành ngôi bá chủ, đă có được một
Nước Cộng Ḥa Tự Do và Độc Lập, được trên 40 Quốc Gia của Thế Giới Tự Do
thừa nhận.” (Hans Morgenthau, “America Stake in Vietnam” New York 1956,
trang 69)
Tên kư giả thực dân và xấc láo của Mỹ là David Halberstam sau này hung
hăng chống lại sự trợ giúp của Mỹ cho Nam Việt Nam mà hồi ấy cũng phải
trầm trồ ca tụng là “...Diệm đă hành động rất đúng và rất can đảm trong
những năm đầu tiên của Chính Phủ của ông ta.” (William Colby, “Honorable
Men, My Life In The CIA” Simon & Schuster, New York 1978, trang 158).
Trên đây chỉ là sự trích dẫn một vài lời trong nhiều lời ca tụng nồng
nhiệt đầy kính trọng mà nhiều Quốc Gia đă dành cho Chính Quyền Diệm những
năm đầu của Chính Quyền ấy. Lời lẽ trong những lời ca tụng ấy đă tạm đủ để
cho người Việt Quốc Gia hiểu rằng không thể tự nhiên mà được Cộng Đồng
Quốc Tế ban cho những lời ca tụng ấy và không phải bất cứ người Việt Quốc
Gia nào cũng có cơ hội được hưởng những lời ca tụng ấy.
Bốn mươi lăm của Chính Phủ Hội Viên của Tổ Chức Liên Hiệp Quốc đă thừa
nhận Chính Phủ Diệm và lập quan hệ ngoại giao chính thức với Chính Phủ ấy.
Chính Phủ Diệm cũng c̣n được hưởng quy chế quan sát viên thường trực tại
Liên Hiệp Quốc.
Nhiều Cường Quốc và nhiều Quốc Gia
Tự Do đă mời ông Ngô Đ́nh Diệm tới thăm chính thức tại Nước họ để được
nghe ông Diệm nói về triển vọng xây dựng một miền Nam Việt Nam Tự Do và
Dân Chủ. Cử chỉ mời ông Diệm tới thăm chính thức cũng là một h́nh thức để
các Quốc Gia thân hữu ấy chứng tỏ cho Thế Giới biết rằng không phải họ chỉ
có gởi tới ông Diệm những lời ca tụng xuông mà thôi.
Có theo dơi những buổi thuyết tŕnh, chiếu lại h́nh ảnh những khi ông
Diệm đọc diễn văn trước các Cơ Quan Hiến Định cao nhất của các Quốc Gia
thân hữu ấy, có quan sát sự kính nể mà các Nhà Lănh Đạo Quốc Gia ấy dành
cho ông Diệm và có nh́n thấy thái độ tự trọng, tự tin và rất trang nghiêm
đầy tinh thần Kẻ Sĩ Đông Phương của ông Diệm trong cương vị đại diện chính
thức cho Dân Tộc Việt Nam, người ta lại càng thêm tin rằng quả thật ḷng
yêu nước nhiệt thành và Tinh Thần Quốc Gia cao độ của ông Diệm đă mang lại
cho ông sự kính nể và ngưỡng mộ của Thế Giới bên ngoài.
Sau khi ông Diệm bị giết hại rồi, từ đó về sau, cho tới ngày miền Nam
Việt Nam sụp đổ vào cuối tháng 4 năm 1975, Chính Quyền Quốc Gia của Nam
Việt Nam không bao giờ có được một người lănh đạo có hào quang tối thiểu
để được Cộng Đồng Quốc Tế kính trọng nữa.
Chính Quyền Ngô Đ́nh Diệm là Chính Quyền duy nhất của người Việt Quốc Gia
tạo được Chính Danh, Chính Thống và Chính Nghĩa cho công cuộc chống cộng
của người Việt Nam.
CHIẾN DỊCH TỐ CỘNG
Một trong những thành tích được nhắc nhở nhiều của Chính Quyền Ngô Đ́nh
Diệm là Chiến Dịch Tố Cộng. Để tránh dùng những chữ lớn, ta hăy lượng định
kết quả Chiến Dịch ấy bằng một tiêu chuẩn thiết thực, đó là cuộc trắc
nghiệm để xem người dân miền Nam Việt Nam ủng hộ Chính quyền Diệm tới mức
nào và nếu có sự ủng hộ đó th́ sự vạch mặt chỉ tên những tên cộng sản nằm
vùng sẽ là cái thước để đo sự ủng hộ ấy. Cho tới năm 1959, kết quả thâu
được cho Chiến Dịch ấy thật là tốt đẹp, người dân miền Nam đă sốt sắng chỉ
chỗ ẩn núp, cho tên tuổi những tên cộng sản nằm vùng để Chính Quyền Quốc
Gia theo dơi hoặc bắt giữ.
Cũng nên nhắc lại là từ năm 1954 cho tới 1956, tập đoàn lănh đạo Hà Nội
ung dung ngồi chờ Chính Phủ Diệm sụp đổ. Sau năm 1956, Chính Phủ Diệm
không những đă không chết mà lại vững mạnh hơn rất nhiều và nhất là Chiến
Dịch Tố Cộng bắt đầu tàn phá hàng ngũ nằm vùng của cộng sản th́ Hà Nội
thật sự lo ngại.
Năm 1956, Hà Nội phái Lê Duẩn vào miền Nam để làm sống lại cơ cấu nằm
vùng của cộng sản tại miền Nam. Người ta biết rằng Duẩn đă ở lại miền Nam
từ 1956-1958.
Trong khoảng thời gian hai năm này, cộng sản ở miền Nam Việt Nam đă khóc
lóc để van xin Hà Nội cứu giúp, v́ chiến dịch Tố Cộng của Chính Phủ Diệm
gây tai hại quá sức chịu đựng của bọn cộng sản nằm vùng ở miền Nam rồi.
Hà Nội họp đại hội đảng khoáng đại vào đầu năm 1959 để nghiên cứu cách
cứu bọn đàn em ở miền Nam. Từ phiên họp khoáng đại này, Hà Nội đi tới
quyết định là dùng vơ lực để chiếm miền Nam Việt Nam.
Tuy trước đó, Hà Nội vẫn đều đều xâm nhập người và vũ khí từ miền Bắc vào
miền Nam, nhưng mức xâm nhập ấy chỉ để nuôi sống bọn đàn em ở miền Nam,
chứ không đủ để mong lật đổ Chính Quyền Quốc Gia của ông Diệm. Đơn vị xâm
nhập quy mô đầu tiên mang bí số là 559, gồm trên 20.000 người (binh lính,
cán bộ và lao công). Bắt đầu xâm nhập vào miền Nam từ tháng 5 năm 1959. Số
559 là bí số bắt nguồn từ thời điểm “tháng 5 năm 1959”). Tên Vơ Bầm là sĩ
quan cao cấp đầu tiên của quân đội Hà Nội được chỉ định điều khiển đoàn
xâm nhập 559. Ngày 25.2.1983, Tuần Báo The Economist của nước Anh ghi lại
cuộc phỏng vấn Vơ Bầm do Đài Truyền H́nh Pháp, chương tŕnh phim tài liệu
thực hiện, với Phái viên Jérôme Kanapa phỏng vấn. Vơ Bầm đă thú nhận rằng
sự xâm nhập quy mô đă bắt đầu ngay từ năm 1959, nghĩa là hai năm trước khi
Tổng Thống Kennedy bắt đầu đẩy mạnh sự viện trợ quân sự cho miền Nam Việt
Nam.
Vậy th́ cho tới năm 1959, ít ra, quảng đại quần chúng của miền Nam Việt
Nam chưa bị các sự tuyên truyền phá hoại từ nhiều phía đầu độc sự suy
tưởng của họ và họ đă để Chính Quyền Diệm có cơ hội hành động.
Những hậu quả đầu tiên của sự xâm nhập quy mô từ miền bắc đă để lại chết
chóc gia tăng rất sớm. Thống kê về những sự ám sát Viên Chức Xă Ấp tại
miền Nam Việt Nam từ 1957 tới 1959 cho thấy rơ mức độ tàn phá gia tăng của
sự xâm nhập ấy. Thí dụ trong trọn năm 1958, có tất cả 193 vụ ám sát Viên
Chức Xă Ấp ở miền Nam Việt Nam, trong khi chỉ riêng bốn tháng cuối của năm
1959, đă có tới 119 vụ ám sát tương tự (William Colby, “Honorable
Men...trang 158).
Chính Phủ Úc là một trong vài Quốc Gia sáng suốt và khôn ngoan nên đă sớm
hiểu các khó khăn của ông Diệm, và nhất là hiểu tại sao từ 1959 trở về
sau, Chính Quyền ấy càng ngày càng phải cứng rắn hơn trước khi đối phó với
cộng sản. Chính Phủ Úc nhân dịp này đă gửi cho Thế Giới một lời khuyên
thiết thực, đầy khôn ngoan để Thế Giới ấy biết cách đánh giá hiệu năng của
Chính Quyền Ngô Đ́nh Diệm. Nhắc nhở Thế Giới là hăy đánh giá Chính Phủ
Diệm theo tiêu chuẩn Á Đông và theo thực tế của t́nh h́nh, hơn là theo
cách đánh giá của Tây phương, Ngoại Trưởng Úc R. G. Casey viết: “Hai sự
việc cần được mọi người ghi nhớ khi muốn chỉ trích Chính Quyền Nam Việt
Nam. Thứ nhất, Việt Nam đang ở tuyến đầu Chiến Tranh Lạnh. Chính Phủ của
Xứ ấy không thể để lộ một sơ hở nào khả dĩ cho đối phương khai thác. Một
sơ hở nào lộ ra cũng sẽ cực kỳ nguy hiểm, không những cho Việt Nam mà c̣n
cho tự do cả Đông Nam Á nữa. Thứ hai, sự thực hiện dân chủ ở Cấp Bộ Quốc
Gia là một quan niệm hoàn toàn mới mẽ tại Việt Nam và cần phải có thời giờ
để phát triển các định chế, các truyền thông, các tập tục hầu thực hiện
các quyền dân chủ theo đường lối xây dựng và hữu trách.” (Richard
Lindhelm, “Vietnam The First Five Years” Ann Arbor, Michigan 1959, trang
344).
Ngày 27.1.1960, tại Trảng Sụp, gần biên giới Việt Miên trong Tỉnh Tây
Ninh, cộng quân đă đánh úp và gây thiệt hại rất nặng nề cho Hậu Trạm một
Trung Đoàn Bộ Binh Việt Nam Cộng Ḥa. Trận đánh úp này coi như chính thức
mở màn cuộc chiến tranh Đông Dương II và cho thấy mức độ xâm nhập của cộng
sản vào miền Nam đă tới thời kỳ đe dọa sự tồn tại của miền Nam tự do.
Tháng 5.1960, Hà Nội họp tập đoàn lănh đạo, rồi công khai tuyên bố tại
phiên họp ấy rằng “...đă đến lúc kiên tŕ chiến đấu dũng cảm để diệt Chính
Phủ Diệm.” (William Colby, “Honorable Men... trang159).
Thêm một dấu vết rơ rệt nữa để chứng tỏ sự hữu hiệu của Chiến Dịch Tố
Cộng. Đó là lời của hai tác giả Pháp thân cộng, Jean Lacouture và Bernard
Fall. Hai tên này chạy tội cho Hà Nội bằng cách nói rằng v́ bị Chính Quyền
Diệm săn đuổi, lùng diệt dữ quá nên cộng sản “đành phải đánh trả để khỏi
bị tiêu diệt”. Mặc dù đây là lời chạy tội cho phía cộng sản, nhưng lời
chạy tội ấy lại có một tác dụng dội ngược không ngờ là đă trực tiếp nh́n
nhận rằng quả thật Chiến Dịch Tố Cộng của Chính Quyền Diệm đă đánh trúng
huyệt của cộng sản.
Tháng 9 năm 1960, Hà Nội họp đại hội đảng lần thứ 3 để thông qua nghị
quyết tiến đánh chiếm miền Nam Việt Nam và để lừa gạt dư luận thế giới.
Công cụ ấy được mệnh danh là Mặt trận giải phóng miền Nam.
Trước khi Hà Nội khai sinh công cụ nói trên, có hai biến cố tại Nam Việt
Nam diễn ra theo chiều hướng bất lợi cho cuộc chiến đấu tự vệ của Nam Việt
Nam. Thứ nhất là “tối hậu thư” của “nhóm Caravelle” gửi ông Diệm và thứ
hai là cuộc đảo chính bất thành của một số sĩ quan cấp Tá đêm 11.11.1960.
Nhóm Caravelle (dân chúng c̣n dùng danh từ mỉa mai “nhóm trí thức
Caravelle” để tặng nhóm này nữa) gồm gần hai chục nhà “trí thức” Việt Nam
họp nhau tại Nhà Hàng Caravelle, là Nhà Hàng sang trọng nhất Sài G̣n thời
ấy để bàn “quốc sự”. Sau bữa tiệc linh đ́nh, với rượu ngon, gái đẹp, các
vị trí thức ấy đă gửi tối hậu thư đ̣i Ông Diệm phải cải tổ Chính Phủ và
thay đổi đường lối lănh đạo.
Trong điều kiện sinh hoạt chính trị b́nh thường, hiểu là không bị cộng
sản đe dọa, th́ yêu cầu ấy thật hợp lư. Tiếc rằng các nhà trí thức kia đă
không đếm xỉa đến lời cảnh cáo thật ư nghĩa của Ngoại Trưởng Úc R. G.
Casey. Nói nôm na là họ đ̣i ông Diệm chia ghế lănh đạo với họ.
Nhưng nguy hơn nữa là nhóm trí thức ấy không nh́n thấy nguy cơ của cộng
sản càng ngày càng lan rộng, càng đè nặng lên miền Nam Việt Nam. Theo sự
suy luận của nhóm trí thức ấy th́ chỉ cần ông Diệm chia cho họ một số ghế
trong Chính Phủ th́ nguy cơ cộng sản sẽ tự nhiên tan biến như một phép lạ.
Người ta có thể chỉ trích ông Diệm về nhiều điều, nhưng không thể phê b́nh
ông về cái nh́n sắc bén cũng như thiết thực về nguy cơ của cộng sản. Hăy
cứ tưởng tượng sự lănh đạo miền Nam được trao vào tay gần hai chục nhà đại
trí thức ngây thơ thuộc nhóm Caravelle th́ sự sống c̣n của miền Nam Việt
Nam trong tự do sẽ đếm được bao nhiêu ngày sau đó?
Cuộc đảo chính đêm 11.11.1960 diễn ra một cách rất tài tử, hay dùng chữ
chính xác hơn nữa, một cách ngu xuẩn. Chưa tới hai chục sĩ quan cấp Tá,
lớn nhất là cấp bậc Trung Tá, nhờ móc nối được với một vài Đơn Vị Dù đồn
trú gần Sài G̣n, đă mưu lật đổ Chính Phủ Diệm. Có hai nét nổi bật về thân
thế đa số sĩ quan chủ mưu cuộc đảo chánh ấy. Thứ nhất phần lớn đều xuất
thân từ quân đội thực dân Pháp. Ư niệm yêu nước, độc lập và chống cộng của
họ đă bị người Pháp uốn nắn nên đă trở thành rất lờ mờ. Thứ hai, đa số là
Huấn Luyện Viên tại Trường Đại Học Quân Sự (Trường này trước năm 1955 là
Viện Nghiên Cứu Quân Sự của Pháp tại Việt Nam. Khi Pháp rút hết th́ Trường
ấy trao lại cho Chính Phủ Việt Nam Cộng Ḥa, được đổi tên là Trường Đại
Học Quân Sự, rồi đến giai đoạn chót, trước khi Nam Việt Nam sụp đổ, được
cải danh thành Trường Chỉ Huy và Tham Mưu). Tất cả đám chủ mưu này không
ai có thành tích tranh đấu về chính trị và chưa bao giờ tham chính. Người
duy nhất giữ được tư cách và khí phách là Trung Tá Nguyễn Triệu Hồng và
ông ta là người chết đầu tiên khi cầm đầu một đám đàn em xung phong chiếm
Tổng Nha Cảnh Sát.
Đa số kẻ chủ mưu cuộc đảo chánh này đă theo đường bộ trốn thoát sang Cao
Mên. Trong số này, có Đại úy thi sĩ Phan Lạc Tuyên, tác giả nhiều bài thơ
t́nh cảm dân tộc rất được ưa chuộng, đă bị cộng sản tại Cao Mên móc nối,
hứa hẹn trời biển sao đó mà ông ta đă bỏ hàng ngũ Quốc Gia để gia nhập vào
quân đội cộng sản. Chúng đă phong cho ông ta tới chức Trung đoàn trưởng
(có được thật sự chỉ huy một Trung đoàn hay không là điều không cần bàn ở
đây) và nghe nói việt cộng mang tên tuổi ông ta dùng vào việc tuyên truyền
sách động quần chúng trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968.
Sau cuộc đảo chính bất thành ấy, khi nghe thuộc hạ báo cáo về xuất xứ
thành phần “Phản loạn” phần lớn là sĩ quan Huấn Luyện Viên của Trường Đại
Học Quân Sự, ông Diệm đă gọi Trường ấy là “Trường phản loạn” và ít ngày
sau đó ông ra lệnh đuổi Trường ấy lên Thành Phố Cao Nguyên Đà Lạt.
Vài nét vắn tắt về Trường Quân Sự này sẽ không vô ích, v́ nó giúp người
đọc hiểu thêm chút nữa về lư do khiến cho một số Quân Nhân miền Nam Việt
Nam thù hận ông Diệm. Khi gọi Trường ấy là “Trường phản loạn”, có thể ông
Diệm không ngờ rằng chính cái chính sách dùng người của ông ta đă cung cấp
chất liệu để dần dần, tạo thành tinh thần phản loạn tại Trường ấy. Ông
Diệm đi tiên phong chính sách dùng người “theo tín nhiệm hơn là theo khả
năng” Nhiều Sĩ Quan Tỉnh Trưởng hoặc Quận Trưởng được thăng cấp rất mau,
được ban thưởng hậu hĩ, nhưng cũng có thể bị cất chức rất mau. Một số đông
quư vị sĩ quan từng được ân sủng như thế đă được tuyên chuyển về làm Huấn
Luyện Viên Trường Đại Học Quân Sự. V́ lúc ấy, miền Nam chưa có Trường Cao
Đẳng Quốc Pḥng nên Trường Đại Học Quân Sự là Trường Cao Cấp nhất của Nam
Việt Nam. Là Quân Trường cao cấp nhất, nhưng Trường ấy lại chứa nhiều kẻ
bất măn nhất trong Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Chưa có Đơn Vị Quân Đội nào
lại chứa nhiều kẻ thất sủng đến như vậy, đa số Huấn Luyện Viên tới lớp dạy
học thường vẫn c̣n phô trương cái thuở vàng son quá khứ của họ khi vên váo
kể cho các Sĩ Quan Khóa Sinh nghe thời kỳ họ c̣n cai trị ở Tỉnh này, ở
Quận kia v.v... Ngoài sự căm thù ông Diệm đă cất chức họ, nhiều Sĩ Quan
của Trường Đại Học Quân Sự lại có một lư do khác nữa, chẳng cao quư ǵ, để
thù hận ông Diệm thêm. Trong những lúc rănh rỗi, họp nhau tại Câu Lạc Bộ
của Trường, hoặc tụ họp nhau để ăn nhậu say sưa tại một hàng quán sang
trọng nào đó, đám Sĩ Quan này thường chửi rủa ông Diệm v́ ông đă “ngăn cản
không cho họ được sống xa hoa, trụy lạc bừa băi’.
Vụ nhóm “trí thức” Caravelle được nhà báo Tây phương ác cảm với Chính
Quyền Diệm thổi phồng thành một lư do để đám nhà báo ấy kết án Chính Quyền
Diệm là “thiếu căn bản dân chủ”. Vụ đảo chính bất thành 11.11.1960 được
bọn nhà báo ấy suy diễn là “Quân Đội Nam Việt Nam không tín nhiệm ông Diệm
và không muốn ủng hộ ông ta nữa.” Dĩ nhiên, hai điều này đă được Hà Nội
tận t́nh khai thác. Nhưng chúng vẫn chưa thấy là đủ để dùng đ̣n độc hạ thủ
ông Diệm. Chất liệu độc thủ ấy đă được một số người thuộc thành phần “trí
thức” miền Nam dâng cho Hà Nội để từ đó, đẻ ra cái quái thai chính trị gọi
là “Mặt trận giải phóng miền Nam”.
Cái quái thai chính trị này là lá bài then chốt của Hà Nội để che mắt thế
giới hầu đẩy mạnh cuộc xâm lược vơ trang chiếm miền Nam sau này. Từ 1960
là thời điểm Hà Nội khai sinh tổ chức gọi là “Mặt Trận Giải Phóng Miền
Nam” cho chúng. Ngày chúng chiếm được Nam Việt Nam vào cuối tháng 4.1975,
cái đám trí thức miền Nam nói trên đây, vừa ngu dại, kiêu căng lại vừa
thiển cận đă đắc lực giúp Hà Nội trên mặt trận quốc tế vận cũng như trên
mặt trận dụ dỗ người nông dân miền Nam Việt Nam.
Năm 1961 có hai biến chuyển lớn. Một là sự tái đắc cử của ông Diệm vào
tháng 4 năm ấy và hai là việc Nghị Sĩ trẻ tuổi John F. Kenedy nhận chức
Tổng Thống Mỹ. Ngay sau khi biết ông Diệm tái đắc cử, cộng sản biết rơ
rằng trong những năm tới, chúng c̣n khốn đốn hơn nữa v́ chủ trương triệt
để chống cộng của ông Diệm. Do đó, cộng sản quốc tế la làng rằng ông Diệm
“...là kẻ thù của nhân dân Á Châu và là chướng ngại chính cho sự bành
trướng của chủ nghĩa cộng sản tại Á Châu.” (Vietnam Crisis trang 110).
ẤP CHIẾN LƯỢC
Dầu cho kế hoạch lập Ấp Chiến Lược của Chính Quyền Ngô Đ́nh Diệm được ca
tụng hay bị chê bai th́ kế hoạch ấy cũng là một trong những điều được chú
ư nhiều.
Kế hoạch gom dân lại để tách họ khỏi sự khủng bố của cộng sản và cũng để
cộng sản không bám được vào dân mà kiếm lương thực, không phải là sáng
kiến mới mẻ ǵ của miền Nam Việt Nam. Phi Luật Tân và Mă Lai đă dùng công
thức ấy để chống cộng sản và hai xứ ấy đă thành công, nhất là Mă Lai. Công
thức này làm cho người dân gần với nhau hơn và làm cho người dân gần gũi
với chính quyền hơn. Khi c̣n ở lẻ tẻ, rải rác, cách xa nhau, họ dễ làm mồi
cho cộng quân giết hại. Nếu vào trong một Ấp rồi th́ người dân sẽ cảm thấy
tự tin hơn v́ biết rằng cộng quân sẽ phải đánh lớn nếu muốn giết hại dân
và nếu muốn cướp thực phẩm của dân. Kế hoạch gom dân như thế đă thành công
tại Phi Luật Tân và tại Mă Lai nhờ người dân ở hai xứ ấy đă sớm hiểu được
hai điều sinh tử trong cuộc chiến chống cộng sản. Một là người dân hai xứ
ấy, tuy không cần phải có tŕnh độ học thức cao, nhưng đă sớm hiểu rằng họ
bắt buộc phải hy sinh một phần tự do cá nhân của họ để đổi lấy sự bảo vệ
của Chính Quyền Quốc Gia. Điều thứ hai c̣n quan trọng hơn nữa, là họ hiểu
rằng trong cuộc chiến tranh tệ hại như chiến tranh chống cộng, nếu người
dân không chịu hợp tác với Chính Quyền rồi th́ trước sau, người dân cũng
sẽ trở thành nô lệ cho cộng sản. Khi ấy th́ không một sức mạnh quân sự nào
của Chính Quyền Quốc Gia hoặc của một Cường Quốc bạn nào khác có thể giải
thoát được họ nữa.
Tại Nam Việt Nam, từ 1962 cho tới tháng 5 năm 1963, Chính Quyền Diệm đẩy
mạnh việc lập các Ấp Chiến Lược và gọi kế hoạch ấy là “Quốc sách”. Kết quả
sơ khởi rất tốt đẹp. Chỉ nói riêng về Tỉnh Long An, Chính Quyền Tỉnh ấy đă
gom được dân vào 220 Ấp Chiến Lược và trong thời gian gần một năm, Chính
Quyền Long An đă dồn được các phần tử việt cộng vào 35 Ấp c̣n lại. Sự cô
lập các phần tử việt cộng tại các Tỉnh khác cũng được ghi nhận là khả
quan. Nói một cách khác, kế hoạch lập Ấp Chiến Lược đe dọa sự sống c̣n của
cộng sản ở miền Nam Việt Nam.
Kể từ lúc ông Diệm tái đắc cử, Hà Nội đă đặt ưu tiên cao nhất là việc
phải hạ bệ ông Diệm cho bằng được. Hà Nội c̣n phải vùng vẫy để thoát khỏi
gọng ḱm tai hại của kế hoạch Ấp Chiến Lược. Một cái bẫy thật lớn được Hà
Nội tung ra để mưu loại ông Diệm. Không phải v́ t́nh cờ mà kế hoạch phá
các Ấp Chiến Lược do Hà Nội phát động lại đồng thời với cuộc khủng hoảng
Phật Giáo tại miền Nam Việt Nam.
Nếu chỉ hoàn toàn dựa vào chém giết và khủng bố th́ có thể Hà Nội rốt
cuộc sẽ làm cho nông dân v́ khiếp sợ quá mà quay lại chống trả bọn chúng.
Phải có một chiêu bài khác để vừa dụ nông dân miền Nam, vừa lừa bịp được
thế giới bên ngoài. Nên khen Hà Nội có tài dụ dỗ giỏi để đưa được một đám
trí thức miền Nam vào cái bẫy sập, hay là nên ngậm ngùi rằng miền Nam lại
có thể sản xuất được một số trí thức ngu xuẩn đến mức độ làm tay sai cho
một bọn phản quốc có hạng mà lại cứ tưởng rằng ḿnh khôn ngoan lắm và yêu
nước lắm? Có lẽ nên nghĩ tới sự ngậm ngùi cho đám trí thức ấy th́ đúng
hơn, v́ khen cộng sản lừa bịp giỏi là làm một việc vô ích.
Từ lúc kế hoạch lập Ấp Chiến Lược bắt đầu được thi hành cho đến khi bùng
nổ cuộc khủng hoảng về Phật Giáo tại Nam Việt Nam, thời gian trôi qua chưa
tới một năm. Đó là một khoảng thời gian chưa đủ để lượng định về kết quả
của một kế hoạch có tầm mức chiến lược như vậy. Dầu sao, người ta cũng đă
thấy những nhược điểm lớn nhất của kế hoạch hiện ra
Nhược điểm đầu tiên là kế hoạch ấy được thảo bởi hai nhân vật rất ít hiểu
biết về t́nh h́nh chiến tranh khuynh đảo của cộng sản quốc tế. Staley là
một người Mỹ chưa từng có một chút kinh nghiệm nào về chiến tranh dấy
loạn. Vũ Quốc Thúc là một Nhà Trí Thức Việt Nam chưa bao giờ được coi là
người có kiến thức tối thiểu về chiến tranh du kích. Người ta hiểu rằng
hai người vừa kể ít ra cũng đă có “tham khảo” một số người, có thể là đă
tham khảo luôn cả Cố Vấn Phản Du Kích của Chính Phủ Mă Lai là ông Robert
Thonpson, nhưng bấy nhiêu chưa đủ. Một điều nguy hại cho kế hoạch ấy ngay
từ khởi điểm là Staley/Thúc có vẻ như đă tin rằng kế hoạch gom dân để tách
họ ra khỏi quân phiến loạn đă thành công tại Mă Lai và tại Phi Luật Tân
th́ cũng sẽ thành công tại Nam Việt Nam.
Như đă ghi ở đoạn trên, kế hoạch gom dân tại hai nước bạn thành công v́
người dân ở hai xứ ấy khôn ngoan hơn người dân miền Nam Việt Nam. V́ khôn
ngoan nên họ chấp nhận hy sinh một phần các quyền tự do hàng ngày của họ,
biết rằng sự hy sinh ấy không vô ích, v́ nếu để cho cộng sản cướp được
chính quyền th́ họ sẽ chẳng c̣n được hưởng chút tự do nào nữa.
V́ không có được sự khôn ngoan b́nh dân ấy ngay từ đầu nên người nông dân
miền Nam Việt Nam không tha thiết với việc ra khỏi ruộng vườn nhỏ bé của
họ để vào sống trong Tổ Chức Ấp Vơ Trang Tự Vệ.
Thêm vào cái tâm lư tiêu cực vừa kể, ít ra cũng c̣n ba điều khác nữa làm
cho người nông dân miền Nam Việt Nam càng thêm tiêu cực với kế hoạch lập
Ấp Chiến Lược. Thứ nhất là kinh nghiệm của họ với nền hành chánh thời Pháp
thuộc. Họ đă bị đày đọa quá nhiều v́ thực dân và v́ đám người Việt làm tay
sai cho thực dân như đám Đốc Phủ Sứ, đám Huyện, đám Cai Tổng v.v... Người
ta có thể hiểu tâm trạng thất vọng năo nề của những nông dân ấy khi phải
sống dưới một chính quyền chỉ biết bóc lột dân và không hề có chút kính
trọng tối thiểu đến đời sống của người dân.
Nỗi thất vọng chồng chất ấy được giải tỏa khi nông dân tin rằng những
người cộng sản sẽ mang lại cho họ no ấm, tự do và sự kính trọng. Sự tin
tưởng lăng mạn ấy đưa họ đến một kết luận vội vàng là giữa chính quyền của
thực dân và chính quyền cộng sản, không có một thứ nào ở giữa. Người nông
dân ấy không nghĩ được rằng có thể có một chính quyền không cộng sản và
không tồi tệ như chính quyền thực dân ngày trước.
Điều thứ ba là sự ngu dại của đám “trí thức” miền Nam thuộc thành phần
gọi là Nhóm Liên Trường. Nếu trí thức miền Bắc Việt Nam nổi bật v́ sự
khiếp nhược th́ trí thức miền Nam Việt Nam nổi bật v́ sự tự cao và tự tin
trong ngu dại. Không biết đám trí thức miền Nam này học được ở đâu mà tự
nuôi cái ảo tưởng rằng có thể thuyết phục được cộng sản Hà Nội để cho miền
Nam được sống yên ổn với một quy chế tự trị. Từ cái ư niệm sơ khởi vừa dại
dột lại vừa tai hại ấy, đám trí thức nói trên đă rất đắc lực tiếp tay với
Hà Nội trong kế hoạch làm sụp đổ Chính Quyền Ngô Đ́nh Diệm.
Hà Nội thảo ra kế hoạch ba mặt giáp công để hạ Chính Quyền của ông Diệm.
Mặt thứ nhất là khai sinh công cụ chính trị và tuyên truyền gọi là Mặt
trận giải phóng miền Nam. Mặt thứ hai là sách động dân quê miền Nam để họ
chống lại kế hoạch gom dân vào Ấp Chiến Lược. Mặt thứ ba là dùng Tôn Giáo
để cô lập Chính Quyền Diệm với Cộng Đồng Quốc Tế, nhất là cô lập miền Nam
với nước Mỹ.
Người ta đă biết rằng cầm đầu đám “trí thức” miền Nam thời ấy là tên
Trương như Tảng. V́ có mặt của hắn và của một số trí thức khác của miền
Nam cũng ngu dại như hắn nằm trong cái gọi là “Mặt trận giải phóng miền
Nam Việt Nam”, nên một phần lớn thế giới bên ngoài đă tin rằng cái tổ chức
ấy không lệ thuộc cộng sản Hà Nội. Sự tin tưởng ấy đă kéo theo vô số nạn
nhân trong đám trí thức Tây phương (Âu Châu, Mỹ Châu, Canada). Những thiệt
hại về sinh mạng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa không nguy hại cho sự sống
c̣n của Việt Nam Cộng Ḥa bằng những lời ca của Joan Baez, những lời tuyên
bố của nữ tài tử Jane Fonda và chồng của y thị là Tom Hayden, những bài
báo và những lời tuyên bố của Jean Paul Sartre, Oliver Todd, Jean
Lacouture, Jean Lartéguy, Pierre Darcourt...Tóm lại, Trương như Tảng và
đồng bọn đă lập được công lớn giúp Hà Nội ru ngủ và lừa bịp được thế giới
bên ngoài trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.
Ở mặt trận thứ hai, một đám “trí thức” khác của miền Nam (cũng trong cái
gọi là Nhóm Liên Trường) đắc lực giúp Hà Nội bằng chiến thuật nằm vùng.
Khí giới của bọn này là báo chí và luôn cả sự tự do mà chế độ Cộng Ḥa của
Nam Việt Nam để cho chúng được hưởng rộng răi. Chủ lực của đám trí thức
này là những tên thuộc thành phần “ngựa non háu đá” và “điếc không sợ
súng” như Lư quư Chung, Nguyễn hữu Chung, Hồ ngọc Nhuận v.v...
Những tên vừa kể mở hai chiến dịch. Thứ nhất là chiến dịch gây thù hận
giữa nông dân miền Nam và Chính Quyền Diệm. Thứ hai là chiến dịch chia rẽ
Nam và Bắc (đây là hậu thân của thủ đoạn chia rẽ Nam Bắc do thực dân Pháp
đẻ ra ngày trước).
Người ta đă được đọc những bài báo do đám “trí thức” dại dột này viết về
Ấp Chiến Lược. Trong những bài ấy, chúng gợi trong ḷng người nông dân
miền Nam t́nh yêu Thôn Ấp và gợi ư tưởng căm thù những ai muốn tách họ ra
khỏi Thôn xóm của họ. Là thành phần thiếu hiểu biết, ít suy nghĩ người
nông dân miền Nam Việt Nam đă dễ dàng rơi vào cái bẫy của đám trí thức tay
sai cho cộng sản Hà Nội kia.
Khi c̣n cai trị Việt Nam, thực dân Pháp đă từng tung ra chiến dịch gây
căm thù giữa người miền Bắc và người miền Nam. Thời ấy, đă có những kẻ ngu
xuẩn ở miền Nam hăng hái thi hành kế hoạch chia rẽ hiểm độc và bần tiện
của thực dân. Thêm vào đó, lúc nào cũng có ở miền Nam Việt Nam một khuynh
hướng coi miền Nam không phải là một phần lănh thổ của nước Việt Nam. Phần
lớn những kẻ có khuynh hướng này đều là nô lệ cho thực dân và được quan
thầy Pháp ban thưởng cho cái ân huệ ô nhục là được “Vào dân Tây”.
Bọn trí thức “ngựa non háu đá” tuy có được cắp sách đến trường nhưng
không chịu mở mắt để học về Lịch Sử của Dân Tộc Việt. Chúng trân tráo lớn
tiếng nhục mạ những “người Bắc di cư” trên mặt báo và tại những nơi Công
Cộng. Trong sự dại dột ấu trĩ, bọn chúng tưởng gây hận thù và chia rẽ như
vậy th́ sau này chắc chắn sẽ được cộng sản Hà Nội để cho yên với chủ
trương “miền Nam của người Nam”
Ngoài ra, c̣n hai điều khác nữa, một thuộc về quân sự và một thuộc về tâm
lư, làm cho kế hoạch lập Ấp Chiến Lược không thành công được. Về quân sự,
khi Ấp Chiến Lược đầu tiên được tổ chức xong th́ cộng quân ở miền Nam đă
có khả năng mở cuộc tấn công đến cấp trung đoàn và cao hơn nữa. Về chiến
lược và chiến thuật, cộng quân có thể tập trung đông đảo quân số để đạt ưu
thế tạm thời rồi tấn công ồ ạt vào một vị trí cố thủ của quân chính phủ.
Trước quan niệm chiến lược vận động chiến của cộng quân, quan niệm cố thủ
bằng đồn bót và pháo lũy là quan niệm tất bại. Áp dụng quan niệm ấy cho Ấp
Chiến Lược làm sao có thể đánh bại được cộng quân? Những người điều khiển
lập Ấp Chiến Lược có một cái nh́n rất lạc quan và rất chủ quan về khả năng
của một Ấp Chiến Lược. Theo họ th́ một khi Ấp đă được cấp phát một số vũ
khí th́ dân trong Ấp có đủ khả năng đẩy lui mọi cuộc tấn công quân sự của
cộng quân. Không cần phải dùng nhiều lời cũng có thể chứng minh rằng cái
nh́n ấy quá sai lầm và bệnh hoạn. Các đồn bót của quân đội Pháp trong trận
chiến tranh Đông Dương 1946-1954 và các đồn bót của Quân Đội Việt Nam Cộng
Ḥa sau năm 1954 đều không giữ được nếu cộng quân quyết định trả giá cao
để diệt đồn. Trong khi đó, ngoài số vũ khí sơ sài và chỉ gồm vũ khí nhẹ,
dân trong Ấp lại không huấn luyện về quân sự. Nhưng nguy hại hơn nữa là
dân trong Ấp không có tinh thần tha thiết sống chết với Ấp. Một khi họ đă
không tha thiết cố thủ th́ kế hoạch Ấp Chiến Lược chắc chắn sẽ thất bại.
Đă thế, dân trong Ấp c̣n được bọn “trí thức” tay sai của Hà Nội ngày đêm
nhồi vào đầu họ cái ư nghĩ căm thù Chính Quyền Quốc Gia, v́ đă “cưỡng bắt
họ từ bỏ ruộng vườn để vào Ấp sống như trong một trại tập trung”. Một Ấp
Chiến Lược nào đó bị cộng quân đánh tan sẽ là một lư do để nông dân miền
Nam trốn khỏi Ấp để trở về nhà cũ.
Điều thứ hai là tinh thần Cán Bộ Dân Sự và Quân Sự của miền Nam trong
việc thi hành kế hoạch lập Ấp Chiến Lược. Người viết sách này ghi nhận
được nhiều điều bi hài trong thời kỳ có các Khóa Huấn Luyện về Ấp Chiến
Lược tại Trung Tâm Suối Lồ Ô (gần Biên Ḥa).
Những người được cử đi học, đều mang sẵn trong đầu tâm trạng bị động và
chủ bại. Một điều đáng buồn cần ghi ở đây là trong suốt thời T.T. Ngô Đ́nh
Diệm cũng như sau đó, hàng ngũ người Quốc Gia rất ít có Cán Bộ nhiệt t́nh
và tận tụy cho Chính Nghĩa Quốc Gia. Do đó, kế hoạch và chính sách có hay
đến đâu cũng không hy vọng thành công. Cán Bộ Ấp Chiến Lược đi học với một
tâm trạng bất măn th́ làm sao c̣n hăng hái sống chết với dân trong Ấp?
TRỤC XUẤT KƯ GIẢ BÁO CHÍ
Người viết sách này luôn luôn kính phục sự hiên ngang của ông Ngô Đ́nh
Diệm trong tác phong làm người Lănh Đạo Quốc Gia của ông. Sự hiên ngang ấy
được chứng tỏ nhiều lần và càng được chứng tỏ trong vụ Phật Giáo miền
Trung năm 1963. Bọn nhà báo truyền h́nh Mỹ thù ghét ông v́ ông đă dậy cho
chúng một bài học về sự lễ độ đối với người Cầm Đầu của một Quốc Gia. Bọn
ấy tuy thù ghét ông, nhưng chắc chắn là chúng không thể coi thường ông,
như chúng đă quen coi thường người lănh đạo của nhiều Nước nhược tiểu lệ
thuộc vào viện trợ của nước Mỹ.
Người ta không ngạc nhiên khi thấy nhiều tờ báo lớn của Mỹ, nhất là tờ
New York Times và Hăng thông tấn Accociated Press hằn học hàng ngày chỉ
trích thậm tệ và cay cú bôi bẩn Chế Độ Ngô Đ́nh Diệm. Bọn ấy chỉ trích quá
lố đến nỗi một tác giả lương thiện của nước Mỹ là Richard Tregakis phải
lên tiếng than rằng “Kennedy chịu ảnh hưởng của tờ New York Times qua
David Halberstam nhiều hơn ảnh hưởng của bất cứ một giới chức nào trong
chính quyền Mỹ. “(Vietnam Crisis, trang 125)
Trước thái độ thù nghịch phi lư ấy
của bọn báo chí Mỹ, ông Diệm không c̣n cách nào khác hơn là bảo vệ danh dự
của người Lănh Đạo Việt Nam Cộng Ḥa. Đó là điều tối thiểu mà ông ta phải
làm, nếu không muốn bị chính người dân Việt coi thường. Nhiều tên kư giả
thù nghịch với Nam Việt Nam bị trục xuất. Bị trục xuất rồi, bọn ấy lại
càng thù nghịch hơn, càng phá hoại nhiều hơn nữa.
Thái độ thù nghịch ấy phơi ra ánh
sáng căn bệnh tệ hại trầm trọng mà bọn làm báo và viết báo ở bất cứ chân
trời nào cũng mắc phải. Nếu có khác nhau th́ chỉ là ở mức độ cao và thấp.
Căn bệnh ấy là sự hống hách và sa đọa của bọn kư giả, nhất là những tên kư
giả có đôi chút danh tiếng. Trong khi tự phong cho ḿnh cái vai tṛ “điều
tra” th́ những tên kư giả ấy thường chờ đợi những người Lănh Đạo Quốc Gia,
những người làm chính trị tỏ vẻ sợ hăi và phải o bế chúng. Không thiếu ǵ
chánh khách v́ quá sợ bị chúng xuyên tạc và bôi bẩn nên đă phải lo lót
chúng bằng ân huệ và bằng sự sợ sệt, nhiều khi khúm núm trước mặt bọn
chúng nữa. Bọn nhà báo dám xấc láo như vậy chỉ v́ từ lâu nay, chúng quen
chửi bới và vu cáo những người khác, nhưng đến khi chính bọn chúng phạm
tội th́ không bao giờ chúng có sự lương thiện tối thiểu để tự thú nhận.
Rất ít khi thấy có trường hợp một tờ báo lớn của Tây Phương phanh phui tội
lỗi của bọn kư giả ở một tờ báo khác làm bậy, làm nhục thanh danh của
người cầm bút.
Ngày 18.2.1963, khi phái viên của
Tuần Báo Mỹ US News & World Report tại Sài G̣n hỏi ông Diệm tại sao ông
trục xuất nhiều kư giả ngoại quốc như vậy, ông Diệm b́nh thảm trả lời: “Họ
đă ngang nhiên nhục mạ và bôi bẩn chúng tôi, trong khi chúng tôi đang theo
đuổi một cuộc chiến quyết liệt cho sự sống c̣n và cho sự bảo vệ một vùng
biên giới sinh tử của Thế Giới Tự Do.”
Sự hằn học của báo chí Mỹ đối với
Chính Quyền Diệm càng ngày càng tệ hại, nhất là từ khi bùng nổ cuộc khủng
hoảng về Tôn Giáo do bọn Trí Quang gây ra, đến nỗi Linh Mục De Jaegher
phải nói thẳng vào mặt tên Malcolm Browne là kẻ được coi là “hung thần”
của Hăng Accociated Press tại Sài G̣n: “Quư vị đang bóp méo sự thật trong
vụ Phật Giáo. Nếu cứ tiếp tục, quư vị có thể hạ được ông Diệm. Quư vị có
sức mạnh để làm được việc ấy. Nhưng nếu làm điều ấy rồi th́ nhiều thanh
niên Mỹ sẽ phải tới Việt Nam để thay thế và những thanh niên ấy sẽ chết
tại Việt Nam.” (Vietnam Crisis trang 104).
Lời cảnh cáo của Linh Mục De
Jaegher cũng là lời tiên tri được nghiệm rất đúng sau khi ông Diện bị hạ
sát.
Phải chờ măi tới sau năm 1975, thế giới bên ngoài mới t́m được giải đáp
cho thái độ thù nghịch đến phi lư của bọn báo chí Mỹ. Đó là sự tiết lộ
động trời của ông Denis Warner, một Nhà Báo lăo thành quốc tịch Úc và là
người đă theo sát chính trị của Đông Nam Á từ năm 1945. Bí ẩn về sự thù
nghịch kia được làm sáng tỏ, khi ông Warner cho biết rằng trong cuộc chiến
tranh Việt Nam, cộng sản quốc tế đă dùng một ngân khoảng không giới hạn để
tài trợ mặt trận tuyên truyền. Ngân khoảng ấy được mở tại một trương mục
mang số 5210-10-045-34 thuộc Ngân Hàng Skandinaviska Banken ở Thủ Đô
Stokholm của Thủy Điển. Trương mục này xuất tiền cho những kẻ chửi thuê,
khen mướn theo chỉ thị của cộng sản quốc tế, với mục đích tối hậu là làm
cho nước Mỹ bỏ cuộc tại Việt Nam (Denis Warner, “Not With Guns Alone: How
Hanoi Won The War” Hutchinson Group of Australia 1977, trang 183).
Một tháng sau khi ông Diệm bị hạ
sát, tên David Halberstam của báo New York Times và tên Malcolm Browne của
Hăng thông tấn Associated Press nhận lănh giải thưởng báo chí Pulitzer v́
đă có công “xuất sắc tường tŕnh về cuộc khủng hoảng Phật Giáo tại Nam
Việt Nam.”. Trước cảnh lănh giải thưởng vô liêm sỉ ấy, Tướng hồi hưu của
Quân Lực Mỹ là Thomas A. Lane viết trong cuốn sách về sự nghiệp của Tổng
Thống Kennedy rằng: “giải thưởng ấy nên được trao tặng tại Điện Cẩm Linh
của đế quốc Xô viết và trước sự dàn chào của hồng quân Nga.”
CHÍNH PHỦ MỸ VÀ CÁI CHẾT CỦA TỔNG THỐNG NGÔ Đ̀NH DIỆM
Ông Diệm chết nhưng chết v́ sự
phản bội của Đồng Minh Mỹ. Sự phản bội ấy chỉ được hoàn thành sau khi
người Mỹ thuê mướn được một đám Tướng lănh của Nam Việt Nam cúi mặt làm
cái việc hèn hạ nhất là “giết mướn” người lănh đạo hợp pháp duy nhất của
miền Nam tự do.
Sau khi ông Diệm chết, chính quyền Kennedy nhiều lần cố gắng thanh minh
với Thế Giới rằng nước Mỹ không dính líu ǵ tới vụ giết ông Diệm, nhưng
những lời thanh minh ấy không thuyết phục được Thế Giới bên ngoài. Thế
Giới ấy gần như nhất trí với nhau trong ư nghĩ là quả thật nước Mỹ đă đối
xử thiếu văn minh với một đồng minh nhỏ bé của ḿnh trong lúc Đồng Minh ấy
phải đương đầu với những khó khăn ghê gớm trong nội bộ. Chung cuộc, Quốc
Hội của nước Mỹ đă định lượng thế nào về cách đối xử tiểu nhân ấy?
Thoạt đầu, cái Quốc Hội ấy ngập ngừng, chưa biết phải lên tiếng ra sao.
Nhưng rồi trước sự soi mói của thế giới, Quốc Hội ấy đành phải lên tiếng.
Hai Nghị Sĩ có tiếng nói mạnh của Quốc Hội Mỹ là William Fulbright và
Everett Dirksen nói rằng “Quyết định hạ sát ông Diệm là một sự sai lầm.”
Ngày 3 tháng 1 năm 1965, Nghị Sĩ
Mike Mansfield tuyên bố với hai Tác giả Stephen Pan và Daniel Lyons:
“Chúng tôi đă đền tội v́ đă loại trừ ông Diệm. “. Rồi đến ngày 26.1.1966,
cũng Nghị Sĩ ấy lại nói với hai Tác giả kể trên rằng “...Lỗi lầm tồi tệ
nhất của chúng tôi là đă hạ sát ông Diệm.” (Vietnam Crisis, trang 133).
Tài liệu của Ngũ Giác Đài phổ biến
về sau này c̣n ghi rơ hơn nữa về trách nhiệm không thể chối căi được của
nước Mỹ trong sự bức tử người Lănh Đạo Việt Nam Cộng Ḥa. Tài liệu ấy
viết:
“Về cuộc đảo chính quân sự chống
lại Ngô Đ́nh Diệm, nước Mỹ phải nhận hoàn toàn trách nhiệm của ḿnh trong
đó. Từ đầu tháng 8 năm 1963, chúng ta đă lần lượt, khi th́ cho phép, khi
th́ cản lại, khi th́ khuyến khích đám Tướng lănh Nam Việt Nam và đề nghị
sẽ hoàn toàn ủng hộ một chính phủ thay thế. Đến tháng 10, chúng ta cắt
viện trợ để làm áp lực trực tiếp vào Diệm, do đó chúng ta bật đèn xanh cho
đám Tướng lănh. Chúng ta lén lút duy tŕ liên lạc với đám Tướng lănh ấy,
tán thành việc lập kế hoạch và sự thi hành cuộc đảo chính ấy, duyệt xét
các kế hoạch của họ và đề nghị một chính phủ mới. Vậy triều đại chín năm
của Ngô Đ́nh Diệm chấm dứt bằng một sự kết thúc đẫm máu. Sự đồng lơa của
chúng ta trong việc lật đổ ông ta làm tăng trách nhiệm của chúng ta vào
một nước Việt Nam không có lănh đạo nữa.” (The Pentagon Papers, Senator
Gravel Edition 1975, Volume II, trang 207).
Sau khi tuyên thệ thay thế ông
Kennedy bị ám sát ba tuần sau cái chết của ông Diệm, Tân Tổng Thống Mỹ
Lyndon B. Johnson tâm sự với báo chí Mỹ về cái chết của ông Diệm: “Việc
giết ông Diệm là một trong các thảm kịch lớn nhất của thời đại chúng ta.”
(Vietnam Crisis trang 133).
William Colby, trùm CIA của Mỹ th́ nói thẳng ra cái trách nhiệm của nước
Mỹ về cái chết của ông Diệm:
“Đây là một cuộc đảo chính của Tướng lănh Nam Việt Nam đúng thế, nhưng
tôi nghĩ rằng những điều căn bản của cuộc đảo chính ấy đă được định đoạt
tại Bạch Cung của chúng ta.” (Michael Mc. Lear, “The Ten Thousand Day War”
St. Martin Press, New York 1981, trang 66).
Trong tác phẩm vừa được viện dẫn,
trùm CIA Colby c̣n nêu rơ cái khoảng trống lănh đạo bi thảm chắc chắn sẽ
diễn ra khi ông Diệm không c̣n Lănh Đạo Nam Việt Nam nữa. Colby ghi rằng
trong suốt năm 1963, nói đúng hơn là cho tới ngày ông Diệm bị hạ sát, các
Cố Vấn của Kennedy chia làm hai phe, với hai chủ trương khác nhau. Một phe
cho rằng nước Mỹ sẽ không thể thắng nổi nếu c̣n ủng hộ Chính Quyền Diệm.
Phe kia th́ chủ trương phải thay thế ông Diệm. Cố vấn quân sự cao nhất của
Kennedy lúc ấy là Tướng Maxwell Taylor tuy không ngă hẳn về phe nào, nhưng
ông ta đă làm một việc rất thiết thực là đặt câu hỏi then chốt cho cả hai
phe: “Có thể chúng ta không thắng được với sự ủng hộ Diệm, nhưng nếu không
có Diệm th́ có ai?” Sau câu hỏi đó, chỉ có một sự im lặng nặng nề tiếp
theo.
Trên Tuần báo Mỹ Time đề ngày
1.1.1965, B́nh Luận Gia Joseph Alsop đưa ra lời phê b́nh nghiêm khắc nhất
nhắm vào những kẻ đă hung hăn chỉ trích Chính Quyền Diệm: “Gần giống như
là sự ngu xuẩn một cách hài hước khi người ta đ̣i tổ chức một Chính Phủ ở
Việt Nam để làm vừa ḷng những kẻ viết b́nh luận cho báo chí Mỹ, là những
kẻ không hiểu biết ǵ về Á Châu và những kẻ ấy lại luôn luôn quên rằng nếu
thay thế th́ chỉ c̣n có chủ nghĩa cộng sản hung ác cho Á Châu. Chẳng c̣n
cách nào khác hơn là phải đối phó với chiến tranh trước đă, rồi sau hăy
nói tới các vẫn đề chính trị. Đối phó với chiến tranh là con đường duy
nhất để tạo các điều kiện thiết yếu cho một chính phủ tương đối ổn định.
Chính phủ bất ổn chính v́ chiến tranh diễn ra tồi tệ.”
Chín tuần sau khi Alsop viết bài
b́nh luận trên đây th́ Lữ Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đầu tiên đổ bộ lên
Hải Cảng Đà Nẵng, mở đường cho cuộc đổ bộ trên nửa triệu Quân Mỹ vào Nam
Việt Nam.
Từ đây trở về sau, Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa sẽ phải chiến đấu trong
hoàn cảnh và khung cảnh khó hơn thời Ngô Đ́nh Diệm rất nhiều, họ sẽ phải
tự t́m lại khí giới tinh thần để giúp họ giữ vững ngọn lửa hăng say và
quyết liệt chống cộng. Chỉ mới vài tháng sau cái chết của ông Diệm, Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa đă sớm thấy rơ tầm vóc cái khoảng trống lănh đạo vô
cùng tai hại đang chờ đợi họ trước mặt.
* * *
Khi nằm xuống, ông Diệm đă mang theo cùng với ông ba điều căn bản thiết
yếu để được Cộng Đồng Quốc Tế kinh nể là:
CHÍNH NGHĨA, CHÍNH DANH VÀ CHÍNH THỐNG
Những kẻ thù ghét ông Diệm muốn nói ǵ th́ nói, nhưng chúng không thể
chối căi rằng chỉ có ông Ngô Đ́nh Diệm mới có uy tín quốc tế để phá vỡ
huyền thoại Hồ Chí Minh.
Chỉ cần đặt một câu hỏi, một câu hỏi thôi: Sau khi bọn Tướng lănh của Nam
Việt Nam nhận lệnh của quan thầy Mỹ để hạ sát ông Diệm một cách hèn nhát
th́ sau đó, miền Nam Việt Nam được lănh đạo như thế nào và chung cuộc số
phận của miền Nam Việt Nam tự do ra sao???
Ls. Phạm Kim Vinh
|