Những Người Tù Cuối Cùng

 

Phạm Gia Đại

 

Phần V: Những Vị Sư Nha Tuyên Úy

 

 

Nh́n lại gịng lịch sử của dân tộc Việt Nam, đất nước chúng ta như đắm ch́m trong chiến tranh tàn khốc, Ḥa B́nh chẳng khác ǵ những mảnh áo c̣n lành lặn trên một chiến bào tả tơi v́ thương tích.

 

Ngày mà Sàig̣n sụp đổ mới như hôm nào mà đă 35 năm qua rồi với bao đau thương tang tóc trên quê hương miền Nam dưới chế độ cai trị hà khắc của Cộng Sản (CS).

 

Nếu chúng ta không viết lại những chiến tích oai hùng của QLVNCH, những công lao to lớn của hàng triệu người đă đứng dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ để chiến đấu bảo vệ những giá trị quí báu như Dân Chủ, Tự Do cho ngôn luận, báo chí, tín ngưỡng tại miền Nam suốt hai mươi năm 1954-1975, th́ những gía trị ấy sẽ dần dần bị rơi vào quên lăng và con cháu chúng ta sau này cũng thiếu tài liệu trung thực để tham khảo về quăng thời gian hai mươi năm ấy.

 

Khi miền Nam mất vào tay CS, hàng triệu người quân dân cán chính của chế độ cũ đă lần lượt vào tù, và như nhận xét của đài VOA lúc đó th́ hầu như những thành phần ưu tú nhất của chế độ VNCH đang nằm trong lao tù CS từ Nam chí Bắc.

 

Trong số hàng triệu tù nhân kể trên, đặc biệt c̣n bao gồm cả các nhà sư, các vị linh mục, và mục sư trong các Nha Tuyên úy Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo và Tin Lành v́ các vị này đă được gắn lon sĩ quan giả định để ủy lạo, nâng đỡ tinh thần và làm những nghi thức tôn giáo trong những đơn vị quân đội.

 

V́ vậy các vị này cũng bị tập trung “cải tạo” và cưỡng bách lao động trong trại giam y như những sĩ quan khác của QLVNCH.

 

Đứng đầu Nha Tuyên Úy Phật Giáo là Thượng Tọa Thích Thanh Long, quyền Giám Đốc, thứ hai là Thầy Minh Tâm hay Ḥa Thượng Thích Thiện Chánh, Chánh Sở Phật Giáo Đô Thành.

 

Kỳ trước, tác giả có đề cập đến những huyền thoại về thầy Thích Thanh Long. Kỳ này đề cập đến thầy Minh Tâm với những lời di huấn của thầy đă khai sáng lại niềm tin vào tôn giáo trong những năm tháng lưu đầy khi mà những người tù không c̣n một nơi nào để bám víu vào mà tồn tại.

 

Khi mà đồng minh Hoa Kỳ đă bỏ rơi để họ sa vào tay kẻ thù, khi mà gia đ́nh th́ quá xa vời và cũng đang khốn khổ bên ngoài v́ gọng ḱm siết chặt của kẻ thắng trận, khi mà chung quanh họ chẳng c̣n ai khác ngoài các chiến hữu cũ, bốn bức tường và những cai tù cay nghiệt đang đọa đầy thân xác họ.

 

Khi đó chợt xuất hiện những vị lănh đạo tinh thần trong Nha Tuyên Úy trong trại mà tôi đang bị giam giữ, không biết đó là điều ngẫu nhiên hay định mệnh đă an bài để cứu vớt những người tù?

 

Nh́n bề ngoài, Thầy Long giống như một ông già nhà quê Bắc Kỳ b́nh dị và chất phác trong bộ áo nâu ṣng, nhưng ở con người thầy như thoát ra một ḍng điện nhu ḥa đem lại yên b́nh cho những người chung quanh của một nhà sư mà Tâm đă định, Trí đă ngộ và Huệ đă như bông sen nở ra để cứu độ chúng sanh.

 

Thầy Minh Tâm th́ đúng là chân chất thật thà như người dân miền Nam Bộ. lúc nào cũng cười hiền hậu và sẵn sàng giúp đỡ các anh em đau ốm như cạo gió hay lể nếu bệnh nặng, hay nói chuyện đời chuyện đạo để an ủi họ.

 

H́nh như Ơn Trên đă xui khiến cho nên hai thầy đều đă từ chối sự giúp đỡ của các ṭa đại sứ bạn không di tản, để vào tù cùng với các vị linh mục và mục sư mà cứu độ các người tù trong cơi hỏa ngục trần gian.

 

Bởi tôn giáo trong suốt thời gian đó chính là niềm hy vọng cuối cùng cứu rỗi cho họ, những con người bị bỏ rơi trong tuyệt vọng. Bởi lúc đó, con người sống trong nhục nhằn, đau khổ và đói khát đến tận cùng và hầu hết đă mất niềm tin vào tôn giáo; cho nên những trại giam nơi có bước chân của quí thầy đi qua đă củng cố lại niềm tin ấy và c̣n giúp cho đạo Phật được hoằng dương ngay tại những nơi hoang vu thâm sơn cùng cốc và nghèo nàn nhất.

 

Thế rồi như một phép lạ, Lễ Phật Đản đầu tiên khoảng năm 1984 đă rơi vào ngày Chủ Nhật và được tổ chức qui mô nhất trong không khí trang nghiêm, trật tự và được Thầy Thích Thanh Long chủ tŕ.

 

Một căn buống giam đă được chọn, quét dọn gọn gàng sạch sẽ và hai tầng trên có một bàn thờ Phật, một b́nh bông và nhang đèn đầy đủ với hàng trăm tù nhân Phật tử tham dự ngồi đầy hai tầng trên và cả hai tầng dưới.

 

Một h́nh ảnh thật lạ lùng không ngờ và huyền diệu chưa từng có trong lịch sử trại giam tại miền Bắc xă hội chủ nghĩa. Thầy Khuê, Đệ Tam Đẳng Huyền Đai của vơ đường Nhu Đạo Quang Trung khi xưa được cử ra canh giữ ngoài cổng cùng với hai thầy đại đức khác để đề pḥng đám cán bộ trại có thể bất ngờ vào trại xin trà cà phê thuốc lá.

 

Nhưng đúng như Thầy Long nói v́ ḿnh thờ Phật và kính Tam Bảo nên ḿnh được chư vị Sơn Thần Thổ Địa che chở, và như Thầy Tâm th́ trại gần chùa Hương Tích nơi thờ Phật Bà Quán Thế Âm nên được hưởng những an lành, cho nên hôm đó bên ngoài trại hầu như trống vắng v́ họ kéo rốc hết ra thị xă để xem một trận đá banh nên buổi lễ mừng Phật Đản năm đó đă diễn ra hết sức viên măn.

 

Thầy Long chí tâm đảnh lễ chư Phật xong th́ tŕ niệm chú Đại Bi, bài Thập Chú, Sám Pháp, Thập Nhị Nguyện Quán Thế Âm, v.v.

 

Các Phật tử tŕ niệm theo, những lời kinh trầm trầm êm êm, nhẹ nhàng và thanh thoát bay lên không trung và mọi người như cảm thấy tuy thân trong tù nhưng tâm hồn như đă thoát vút lên cao và những lời kinh cầu đó như xoa dịu đi những nỗi đau của kiếp biệt xứ lưu đầy.

 

Buổi sáng hôm đó tôi lại học thêm một bài học nữa khi chạy qua khu nhà Văn Hóa v́ bên đó nhờ bàn tay các anh em nghệ nhân mà có một vườn hoa rất đẹp vừa hoa hồng, vạn thọ, hướng dương đủ cả, để xin bó hoa cắm b́nh bông cho buổi lễ. Khi về Thầy Long thấy và bảo tôi rằng chỉ nên lấy vừa đủ bông hoa thôi, không cần nhiều thế, c̣n để cho Trời Đất cùng hưởng hương thơm của cây cảnh.

 

Từ đó, tôi ngộ được rằng con người ta không phải sống lẻ loi mà cùng với Trời Đất tồn tại. Trời Đất cũng biết thưởng thức hoa cảnh và thiên nhiên như con người và cùng chịu đựng cả những sự tàn phá thiên nhiên mà con người gây ra nữa.

 

Không những năm ấy là năm duy nhất mà chúng tôi đă tổ chức được một đại lễ Phật Đản trong tù mà vào dịp cuối năm các anh em, do quí vị linh mục và mục sư hướng dẫn cũng đă tổ chức được một lễ Giáng Sinh thật là huy hoàng chưa bao giờ có.

 

Hàng đoàn người đă mang theo tượng Đức Mẹ và Chúa Giê Su đi rước lễ từ buồng này qua buồng kia và hát những bài thánh ca thật là thanh thoát. Buổi lễ mừng Chúa Giáng Sinh cũng thành công rực rỡ ngoài dự định v́ không kể các con chiên c̣n có nhiều Phật tử trong đó có tôi cũng xin tham dự.

 

Tôi c̣n may mắn trong thời gian ở chung buồng với quí thầy th́ một hôm Thầy Tâm gọi tôi xuống ngồi cạnh bên chiếc vơng thầy đang nằm và bắt đầu nói chuyện với tôi về đời và đạo.

 

Tôi cũng không ngờ rằng chính Thầy đang trang bị cho tôi một kiến thức về đạo Phật để giúp cho tôi sau này đủ nghị lực để chống chỏi với những thử thách lớn lao hầu như khó vượt qua nổi của những năm tháng sau cùng c̣n trong tù khi mà các bạn tù của ḿnh lần lượt ra về, và khi mà chiếc phao cuối cùng là người vợ th́ không c̣n đến thăm tôi trong trại giam nữa.

 

Tôi dần dần làm quen với những sự trống vắng đó v́ biết rằng nếu không quen dần đi th́ nó sẽ giết ḿnh dần theo thời gian và sức khoẻ sẽ suy kiệt.

 

Có thể Thầy đă tham thiền nhập định và thông hiểu các chuyện quá khứ vị lai nên thầy luôn khuyên tôi phải luôn giữ chánh tâm mà niệm Phật “Lục Tự Di Đà” để giải trừ bớt nghiệp chướng.

 

Thầy ví trại giam như cái tấm lưới của cái vơng mà thầy đang nằm, nếu ta chấp nhận nghiệp th́ nó sẽ như cái vơng nhưng nếu ta chống lại nó tức là nghịch lại với nghiệp chướng th́ nó sẽ là những sợi dây thừng siết cổ ḿnh lại.

 

Thầy bảo rằng mỗi chúng sanh đều có nghiệp riêng và quốc gia cũng có lúc hưng thịnh hay suy vong. Mất nước th́ con dân đều phải gánh chịu một phần, kiên tâm chịu đựng th́ tương lai sẽ c̣n. Cái ǵ đă An Bài th́ chúng ta không thể đi ngược lại được Định Mệnh mà phải xuôi theo gịng để xem tương lai sẽ về đâu.

 

Thầy kể cho tôi nghe về Sư Ông là người thầy của thầy, tu tại chùa Châu Viên tại vùng Thất Sơn, Châu Đốc, là một vị chân tu mà Việt Minh cũng sát hại Sư Ông một cách dă man bằng cách trói tay bằng dây kẽm gai và chặt đầu bằng mă tấu như thời Trung Cổ vậy.

 

Lúc ấy, Thầy Tâm mới mười mấy tuổi nhưng cảnh tượng hăi hùng đó cả đời thầy không bao giờ quên được; và Thầy dặn tôi rằng không bao giờ chúng ta có thể sống chung với họ được. Họ đây chính là Việt Minh mà sau này đă lộ bộ mặt thật ra là Cộng Sản, tay chân của Nga Sô và Trung Cộng.

 

Qua những lần thăm nuôi có một vị Tuyên Úy đă bí mật đem vào trại cuốn “Đức Phật và Phật Pháp” và cho tôi mượn. Tôi có lẽ có duyên với đạo Phật hay sao nên tất cả quí thầy nhỏ lớn đều yêu mến tôi nên thường hay gập tôi tṛ truyện những cái hay cái dở của các thầy, nhờ đó tôi lại hiểu thêm nhiều về cả đạo lẫn đời, về căn tu, về Duyên, Nghiệp và Quả Báo.

 

Trong trại giam họ đặt ra nội qui nghiêm cấm tất cả sách báo từ ngoài vào cho nên có được một cuốn sách Phật trong tay là điều kỳ diệu.

 

Tôi đă đọc một mạch từ đầu đến cuối cuốn sách và những ḍng chữ ấy như từ từ thấm vào trong người và đem lại cho tôi một bản lănh mà trước đó ḿnh chưa hề có.

 

Trước kia, tôi thường hay thắc mắc không biết hỏi ai v́ sao hai anh em tôi cùng một mẹ cha, cùng cắp sách học chung trường, cùng lớn lên dưới một mái nhà mà anh tôi, Thiếu Tá HQ lại đoàn tụ được với vợ con hạnh phúc bên Mỹ – Thiên Đàng của Hạ Giới – trước khi Sàig̣n sụp đổ, trong khi đó th́ tôi sa vào chốn địa ngục này không biết ngày nào ra, và gia đ́nh th́ chia ly rồi tan vỡ?

 

Tại sao đêm ngày 29 tháng Tư ấy tại cổng sau của ṭa đại sứ HK, tôi không can đảm ra đi một ḿnh như Mẹ tôi đă căn dặn là Mẹ sẽ ở lại và lo cho vợ con tôi để tôi yên tâm ra đi v́ an nguy của bản thân ḿnh, mà lại v́ vợ con ở lại để sống trong kiếp lưu đầy và cuối cùng th́ gia đ́nh cũng chẳng c̣n ǵ?

 

Tôi muốn hỏi “tại sao” hàng trăm lần nhưng bây giờ sau khi đọc xong cuốn sách Phật, được nghe những lời giảng huấn của quí thầy, nhất là Thầy Minh Tâm và Thầy Long th́ tôi đă hiểu và sẽ cam tâm chịu đựng cái số kiếp của ḿnh và cái định mệnh đă an bài.

 

Những buổi tối sau một ngày lao động mệt mỏi th́ những lúc ngồi cạnh Thầy Tâm nghe thầy nói chuyện là những lúc an ủi nhất cho tôi.

 

Thầy bảo với tôi rằng Ơn Trên đă xui khiến cho thầy về trại này để độ tŕ cho tôi v́ tôi là một trong bốn đệ tử của thầy. Tôi vừa bàng hoàng vừa vui mừng tiếp nhận ân sủng đó, nhất là khi thầy nhận tôi làm dưỡng tử.

 

Cũng nhờ Thầy Minh Tâm luôn khuyến khích bên cạnh mà tôi đă làm được một công đức mà thầy gọi là vô lượng là sau mấy tháng ṛng ră đă tŕ trí mà chép xong được hai bộ kinh rất quí giá là Pháp Hoa và Địa Tạng.

 

Thầy Tâm đă cung kính thắp một nén nhang dâng cuốn tôi sao chép lại kinh Pháp Hoa lên chư Phật và cuốn Địa Tạng th́ hồi hướng công đức cho Ba tôi đă mất.

 

Thầy luôn nhắc nhở cho tôi nhớ là chúng ta đang sống trong thời Mạt Pháp, lành ít dữ nhiều, là thời của Qủy Đỏ đang tung hoành nên phải chuyên tâm niệm Phật, bố thí và làm Phước.

 

Sau hơn mười hai năm tù giam th́ tất cả các vị Tuyên Úy đều được thả ra khỏi trại và theo xe lửa về Nam, như đem theo cả một phần sinh khí của trại cùng xuôi về phương Nam với các vị ấy.

 

Tôi c̣n ở lại trong sự trống vắng mênh mông của những buồng giam và sự trống rỗng ngay cả trong tâm hồn ḿnh.

 

Nhớ đến các lời thầy đă dặn ḍ và chỉ dậy như vẫn c̣n văng vẳng đâu đây, tôi đứng dậy ra sân trại, nh́n về phía những rặng núi xanh xanh xa mờ chập chùng mây trắng bao phủ chung quanh và tự nhủ ḷng rằng sẽ phải hết sức sống c̣n để ra khỏi cơi U Minh này.

 

 

(C̣n tiếp)

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính