Những Người Tù Cuối Cùng

 

Phạm Gia Đại

 

Phần IV: Huyền Thoại Về Một Vị Sư

 

 

Mỗi năm cứ vào tháng Tư âm lịch th́ chúng ta lại liên tưởng đến lễ Phật Đản, đến đạo Phật thậm thâm vi diệu đă ăn sâu trong đời sống dân gian từ hàng ngàn năm nay và đă trở thành mẫu mực cho một xă hội đạo đức và thịnh trị từ ngàn xưa .

 

Kính Phật th́ phải trọng tăng nhưng không dễ ǵ trong cuộc sống đời thường mà chúng ta có cơ duyên gập được các vị cao tăng, các vị chân tu đức hạnh cao dầy, huống chi là trong những năm tháng đọa đầy trong ngục tù tăm tối của các trại giam dưới chế độ Cộng Sản tại miền Bắc xă hội chủ nghĩa.

 

Vậy mà thật là bất ngờ tôi lại có được cái diễm phúc ấy, không những được gập mà c̣n được sống chung trong một trại và nhiều khi cùng một buồng giam với những vị sư Nha Tuyên Úy Phật Giáo của chế độ cũ Việt Nam Cộng Ḥa, và những vị Linh Mục, Mục Sư Tuyên Úy nữa trong một thời gian dài của hơn năm năm lưu đầy.

 

Lúc đó khoảng cuối năm một chín tám mươi mốt, tất cả các vị Tuyên Úy được chuyển trại từ Thanh Cẩm, Thanh Hóa ra miền trung du để về trại giam Hà Tây, Hà Sơn B́nh và hai năm sau th́ tất cả lại được di chuyển về trại Nam Hà, Hà Nam Ninh.

 

Mỗi vị trong Nha Tuyên Úy đều có một sắc thái khác nhau, nhưng vị sư này là một con người rất b́nh dị nhưng đă làm được những việc phi thường của một bậc xuất phàm mà nếu muốn viết thật đầy đủ về thầy th́ phải một cuốn sách dầy mới nói hết được những huyền thoại về cuộc đời của thầy, nhất là trong hơn mười hai năm thầy bị tù đầy giam cầm thầy đă chia sẽ gian khổ bên cạnh các người tù chính trị chế độ cũ như thế nào.

 

Thượng Tọa Thích Thanh Long

 

Đó là Trung Tá, quyền giám đốc Nha Tuyên Uư Phật Giáo, Thượng Tọa Thích Thanh Long. Thầy đă đứng ra nhận trách nhiệm điều hành Nha Tuyên Uư khi Thượng Tọa Thích Tâm Giác viên tịch để chăm sóc về tinh thần cho các quân nhân Phật tử và cũng v́ lẽ đó mà thầy và toàn thể các vị trong Nha Tuyên Uư đều phải vào tù khi miền Nam rơi vào tay Cộng Sản v́ các thầy đều được phong cho cấp bậc từ đại úy đến trung tá của QLVNCH để dễ làm việc với các quân nhân Phật tử.

 

Khi đó thầy Long và thầy Tâm, hoà thượng Thích Thiện Chánh là hai vị chức vụ cao nhất trong Nha Tuyên Uư tại thủ đô Sàig̣n được lệnh của mấy tay sư quốc doanh trong Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đến gập họ để bàn giao các cơ sở Phật giáo trong Sàig̣n.

 

Họ chiêu dụ hai thầy hăy gia nhập vào phong trào “Phật Giáo Yêu Nước” mới thành lập này để tránh không phải đi tập trung “cải tạo”.

 

Thầy Long rất b́nh tĩnh từ chối lời đề nghị ấy nhưng nghiêm khắc chỉ vào mặt Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Siêu là những nhà sư hoạt động cho Cộng Sản trước kia mà mắng rằng:” Thân tôi dù có làm kiếp ḍi bọ trong hố xí th́ cũng phải biết đến đạo đức và liêm sỉ. Các ông đă dựng lên cái “Phật Giáo Yêu Nước” này th́ con đường các ông chọn lựa các ông cứ đi, c̣n tôi, tôi chấp nhận vô tù cùng với các Phật tử và chiến hữu của tôi.”

 

Hai vị sư này chính là người mà Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đă bắt giam trước năm 1975 v́ hoạt động cho Cộng Sản. Thích Minh Nguyệt đă bị đày ra Côn Đảo, c̣n Thích Thiện Siêu th́ thường được gọi là ông sư chùa Từ Đàm v́ tu ở chùa này ngoài Huế.

 

Sau đó chính Thượng Tọa Thích Thanh Long là người đă đứng ra bảo lănh cho họ ra khỏi tù để ăn năn hối cải mà trở về lại con đường tu hành v́ họ đă bị lộ h́nh tích.Không ngờ hai nhà sư thân Cộng này vẫn không hối cải và vẫn tiếp tục phản lại đạo và phản lại Quốc Gia và xuất đầu lộ diện sau ngày 30 tháng Tư.

 

Khi bàn giao thủ tục xong th́ Thầy Long và thầy Tâm thanh thản ra về và thanh thản bước chân vào chốn lao tù. Mấy tay sư quốc doanh đó cũng sượng mặt v́ biết rằng thuyết phục cũng không làm ǵ lay chuyển được thầy. Chúng có âm mưu lôi kéo thầy vào để huyênh hoang thêm về cái tổ chức Phật giáo quốc doanh đó nhưng đă không thành công mà c̣n bị mất mặt trước đám cán bộ tiếp thu cơ sở hôm đó nữa.

 

Trước khi Sàig̣n sụp đổ, hai toà đại sứ bạn là Trung Hoa Dân Quốc và Úc đă cho người đến đón thầy đi di tản ra nước ngoài nhưng thầy đă cám ơn họ và nhă nhặn từ chối để ở lại trên quê hương ḿnh v́ thầy không thể bỏ chùa và bỏ Phật tử mà ra đi một ḿnh như thế được. Thầy nói rằng tu hành th́ ở đâu cũng là tu.

 

Nh́n bề ngoài, thầy giống như một ông già nhà quê chất phác hiền hậu mới ngoài lục tuần nhưng thường thấy trên môi thầy nở nụ cười hỉ xả như một người chẳng có ǵ phải âu lo trong kiếp sống lưu đầy khổ cực này vậy.

 

Thầy chẳng bao giờ nghĩ đến cá nhân ḿnh mà luôn trải ḷng vị tha và ḷng thương xót của ḿnh với tất cả những người tù chung quanh không kể tôn giáo, c̣n mạnh khoẻ hay đang đau yếu.

 

Những năm sau, khi có mấy người Phật tử thuần thành từ chùa Giác Ngạn miền Nam ra thăm thầy và đem theo ít vật dụng thức ăn chay và bột đường th́ khi vào trại thầy đă mang tất cả những quà cáp mà thầy vừa nhận được đến từng chỗ nằm của mỗi người tù, ưu tiên những người bệnh hay suy nhược .

 

Người bệnh nhiều th́ được một thỏi đường móng trâu, bệnh nhẹ th́ nửa thỏi, phân phát hết mà không hề nghĩ đến bản thân ḿnh.

 

Thầy chia sẻ cả những viên thuốc tây như trị đau bao tử, thuốc bổ, thuốc trị đau nhức cho những anh em nào đang cần và chưa có gia đ́nh đến thăm kịp thời.

 

Có sống trong những giai đoạn đó mới thấy một hạt muối, một cục đường quí giá như thế nào, có lẽ vàng cũng không sánh được.

 

V́ sau mấy năm bị giam cầm qua bao nhiêu mùa Hè nắng cháy da, mùa Đông rét lạnh căm căm, những người tù với ăn uống quá thiếu thốn và lao động khổ sai đă trở nên suy nhược và suy dinh dưỡng trầm trọng chỉ c̣n như bộ xương cách trí và khoảng hai phần ba trọng lượng cơ thể v́ thiếu chất bột là cơm gạo, thiếu chất béo là thịt cá và thiếu chất ngọt là đường.

 

Bởi thế nên nghĩa cử của thầy đem phân phát ân cần từng cục đường, viên thuốc cho các bạn đồng cảnh tù, cho những người đau yếu lúc đó là hành động trông rất b́nh thường của một con người tu hành nhưng lại mang một tính cách phi thường và vô cùng nhân bản của đạo sống giữa đời trong cơi địa ngục trần gian, nơi mà kẻ thù chỉ mong muốn cho họ chết dần đi từng ngày trong đau đớn và tủi nhục.

 

Những năm tháng mùa Đông trên đất Bắc, người tù c̣n vất vả hơn nữa v́ cái giá rét sương mù mưa phùn gió bấc c̣n làm cho họ càng thêm điêu đứng và bệnh tật nhiều hơn và cái đói cái rét lại càng dầy ṿ họ triền miên ngày đêm cho đến độ bất cứ con ǵ nhúc nhích hay rau cỏ bên vệ đường th́ đều ăn được cả. Từ đó lại thêm căn bệnh về đường ruột làm suy yếu thêm cơ thể vốn dĩ đă suy nhược.

 

Có môt hôm, tôi đang ngồi nhâm nhi miếng bột hấp bằng ngón tay cái – là khẩu phần dành cho người đi lao động, ở lại buồng v́ đau ốm th́ không có – th́ anh bạn đang nằm dưỡng bệnh bên cạnh là một thiếu tá cảnh sát chế độ cũ đă bị phù thủng lâu rồi không đi lao động được, chợt hai tay buông thơng xuống và trút hơi thở cuối cùng.

 

Tôi vội kêu các bạn khác đến để khiêng anh xuống bệnh xá cấp cứu nhưng không c̣n kịp nữa. Anh ra đi thật nhẹ nhàng y như một ngọn nến vụt tắt khi không c̣n một chút sáp nào nữa v́ đă cháy đến cuối tim đèn vậy.

 

Hôm ấy, tụi tôi trong buồng vẫn xuất trại đi lao động b́nh thường, nh́n các bạn cùng đội đang lúi húi cuốc đất khai quang một vùng đất hoang để trồng thêm rau xanh cho trại, tôi hiểu rằng trong đầu họ cũng đang nghĩ như tôi là bao giờ th́ đến lượt ḿnh ra đi đây.

 

Có lần bàn tay tôi co duỗi không được nữa mỗi buổi sáng khi thức dậy và khi ra lao động phải khó khăn lắm mới cầm vững được cái cuốc hay cái xẻng.

 

Thế mà như là một phép lạ, khi có phái đoàn ngoại quốc ghe thăm trại th́ bọn họ dàn cảnh bán cho mỗi tù nhân chính trị được một lon sữa đặc có đường. Tôi bèn đục ngay ra uống một hơi một phần ba lon sữa đặc xong th́ sáng hôm sau tỉnh dậy thấy hai bàn tay ḿnh đă co duỗi lại như thường, hoá ra là cơ thể quá thiếu chất đường gây nên sơ cứng cơ bắp và gân cốt cho hai bàn tay và cả cơ thể của ḿnh nữa.

 

Như là một v́ sao sáng trong bóng tối, Thầy luôn an ủi, khuyến khích, nâng đỡ các bạn tù về cả tinh thần lẫn vật chất và nhiều lúc kể chuyện hay giảng một chút về đạo Phật để xoa dịu nỗi đau khổ của chúng sanh và để cùng d́u nhau đi hết quăng đời tù tội.

 

Rất nhiều anh em hỏi thầy về đạo Phật, có khi thầy từ tốn giảng giải đôi điều về nghiệp chướng, về thế nào để giữ được lục hoà là sự ḥa hợp trong gia đ́nh, bạn bè, cuộc sống, nhưng cũng có khi thầy chỉ mỉm cười và nói: “Hăy cứ làm điều Thiện là Tu Hành rồi”, một câu nói rất đơn giản nhưng bao hàm gói ghém trong đó bao nhiêu là triết lư cao sâu của đạo Phật.

 

Bởi thế mọi người đều gọi thầy bằng Bố một cách kính trọng và như thầy Khuê, một đại đức trong Nha Tuyên Uư và là huấn luyện viên Tam Đẳng Nhu Đạo của vơ đường Quang Trung, Sàig̣n trước kia, đă nói với tôi rằng thầy là một bậc chân tu và là biểu tượng của đạo Phật trong tù. Thầy Khuê bảo tôi rằng các ông thầy trẻ cũng có ông có sai lầm của họ v́ họ cũng là con người dễ bị cám dỗ bởi vậy không nên v́ một hai ông thầy trẻ này mà mất ḷng tin vào đạo Phật.

 

Ngược lại, đối với kẻ thù th́ thầy lại đối đầu với chúng tuy bề ngoài trông rất là b́nh tĩnh nhưng lại thật là cương quyết, dũng cảm, không bao giờ đầu hàng, và không bao giờ nhường chúng dù chỉ là một bước; làm cho chúng ta nhớ tới những vị quốc sư thời Lư, Lê, Trần đă gầy công dựng nước và giữ nước ngày xưa.

 

Những lần cán bộ của Bộ Nội Vụ đến trại bắt hàng loạt tù nhân ra thẩm vấn và làm bản tự khai về tội lỗi của ḿnh đối với “Cách mạng” với “nhân dân”, đến phiên thầy th́ thầy ung dung ngồi xuống và chép nguyên bài “Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh” rồi đưa lại cho họ.

 

Chúng tức điên người lên, đập bàn quát tháo và doạ nạt thầy đủ điều nhưng thầy b́nh thản bảo họ rằng từ bé đến giờ thầy chỉ thuộc có bài kinh đó chứ đâu có biết cái ǵ nữa đâu mà khai báo. Chúng đưa lại tờ giấy giấy khác và baỏ thầy vào buồng giam suy nghĩ cho kỹ rồi viết.

 

Hôm sau, thầy đem nộp lại cho họ cũng đúng bài “Bát Nhă Ba La Mật Đa Tâm Kinh” và nói với họ rằng thầy là người chỉ huy, các ông đại đức Tuyên Úy dưới quyền chỉ là theo lệnh của thầy mà thi hành thôi cho nên họ cứ thả hết các vị sư trong Nha Tuyên Úy ra và muốn giam giữ thầy bao lâu cũng được.

 

Bọn cán bộ hỏi cung, lúc đầu hùng hổ, sau đổi chiến thuật qua dụ dỗ thầy cũng không xong. Điều kỳ diệu là sau các buổi thẩm vấn và qua cung cách đối đáp và giảng giải đạo Phật thay v́ phải khai báo về ḿnh của thầy, bọn họ, sau nhiều năm khai thác không được, đă tỏ ḷng kính phục vị sư già này. Họ đă đổi cách xưng hô gọi thầy bằng “anh” qua cách gọi bằng “thầy” khi họ đến làm việc lần cuối trước khi thả một đợt lớn tất cả các vị Tuyên Úy vào tháng Chín năm một chín tám bẩy.

 

Buổi chiều hôm đó, khi tôi đi cùng dạo sân với thầy chờ kẻng điểm danh vào buồng th́ lần đầu tiên tôi thấy thầy quàng vai qua tôi một cách rất thân thương như người cha ôm đứa con vậy và thầy tâm sự với tôi rất lâu.

 

Thầy nói rằng họ đă hỏi cung thầy nhiều lần và cuối cùng th́ họ đă thất bại v́ – thầy ghé nhỏ nói vào tai tôi là – dù họ có lấy trái bom nguyên tử mà ghè vào đầu thầy th́ thầy vẫn không đầu hàng và thầy nở nụ cười thật tươi và măn nguyện.

 

Trong ḷng tôi lại càng thêm kính phục một vị chân tu đă làm sáng ngời tôn giáo của ḿnh trong tù và một người chiến sĩ Quốc Gia can trường hiên ngang và dũng cảm đối đầu với quân thù ngay trong hoàn cảnh thất thế và đă làm kẻ thù phải nể phục.

 

Thầy bảo với tôi rằng cuộc đời của thầy không có ǵ phải ân hận v́ những điều ḿnh làm đều đúng theo lương tâm.

 

Khi mới lớn th́ Bố Mẹ thầy bắt thầy về từ chùa để lập gia đ́nh nhưng thầy đă cương quyết xin Bố Mẹ cho tiếp tục con đường tu hành v́ thầy đă chọn nó. Tôi có hỏi thầy người con gái đó là ai, th́ thầy cười bảo rằng sau đó th́ Bố Mẹ thầy chấp thuận cho thầy con đường đă chọn và cô ta đă sang Pháp và lập gia đ́nh với một anh bác sĩ; và thầy cũng đă xin lỗi cô ấy v́ đă không tuân theo lời Bố Mẹ được. Mỗi khi nghĩ lại, thầy nói rằng ḿnh đă làm đúng và trong ḷng thấy thanh thản.

 

Đối với việc hai toà đại sứ bạn đưa người đến để đón thầy di tản trước ngày Sàig̣n sụp đổ và thầy đă quyết định ở lại quê hương và về quyết định của thầy từ chối lời đề nghị hợp tác với “Phật Giáo Yêu Nước” của Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Siêu, rồi chấp nhận vào tù – trong những năm tháng cực kỳ gian nan và đói khổ triền miên và bị kẻ thù hành hạ một cách tiểu nhân trong các trại giam từ miền Trung ra miền Bắc- mỗi khi nghĩ lại, thầy nói rằng thầy rất an tâm v́ ḿnh đă có những quyết định đúng v́ thầy bảo với tôi rằng Cộng Sản nó là Qủy Dữ đấy không thể hợp tác được và phải vào tù cùng với các Phật tử chứ bỏ đi một ḿnh coi sao được.

 

Tâm sự của thầy cũng y hệt tâm sự của thầy Tâm là vị thầy đă khai sáng cho tôi trong đạo Phật và cũng là dưỡng phụ tinh thần của tôi.

 

Thầy là bực chân tu nên có được Huệ Nhăn và biết được các chuyện quá khứ vị lai nên đă ưu ái dành cho tôi một buổi dạo chơi trong sân để thắp sáng hơn nữa cho tôi niềm tin vào tương lai v́ có lẽ thầy biết rằng thầy tṛ sẽ chẳng bao giờ c̣n gập lại nhau nữa và biết rằng tôi sẽ c̣n phải đi nốt quăng đời tù tội cho đến cuối cùng chăng.

 

Chính tôi không ngờ rằng buổi chiều hôm đó là lần cuối cùng hai thầy tṛ gập nhau và có lẽ tôi là người duy nhất có được may mắn mà thầy đă dành cho nhiều th́ giờ tâm sự như vậy bởi v́ chỉ một hay hai ngày sau th́ có đợt thả lớn trong đó toàn bộ các vị tu sĩ, linh mục và mục sư, kể cả thầy Long và thầy Tâm, đều có tên.

 

Thầy tu từ nhỏ với Sư Ông và đă đạt đến tŕnh độ cao thâm nên có thể thông hiểu các chuyện quá khứ vị lai. Có lần thầy bảo một anh đại úy cùng buồng giam khi đi lao động phải thận trọng về sông nước. Năm đó nước lũ kéo về vùng trại giam Thanh Cẩm ruộng nương đều trắng xoá và mưa gió rét mướt nhưng những người tù vẫn phải đi lao động mỗi khi trời đất êm đi mưa băo.

 

Khi vượt qua một con suối các tù nhân phải nắm tay nhau chầm chậm và ḍ dẫm từng bước một để băng qua nhưng anh đại úy đó đă vắn số và bị nước lũ cuốn phăng đi.

 

Một lần khi tôi đang ngồi sau buồng giam để đun nước uống bên cạnh thầy và anh Nguyễn Duy Xuân là viện trưởng viện đại học Cần Thơ th́ đột nhiên thầy quay qua anh Xuân và nói rằng anh phải cẩn thận đấy v́ thầy thấy có một cái ǵ cực độc đang ở trong người anh. Lúc ấy anh Xuân đang mặc áo đà như một người tu tại gia và trông khoẻ mạnh, mỗi sáng đều tập thể dục thường xuyên.

 

Đâu có ngờ rằng chỉ ít lâu sau th́ anh trở nên ăn khó tiêu và sức khoẻ xuống dần. Gia đ́nh anh bên Pháp gửi về cho anh thuốc bổ gan và thuốc lọc máu nhưng bệnh t́nh không thuyên giảm.

 

Anh có đưa cho tôi vài gói thuốc lọc máu và bảo tôi uống đi nhưng tôi từ chối v́ không cần thiết. Anh rất là hiền hoà và tỏ ra một con người trí thức và không hề mở miệng than trách một điều ǵ ngay cả khi đă biết ḿnh vướng phải căn bệnh nan y là ung thư bao tử.

 

Những năm tháng anh nằm dưới bệnh xá của trại, chiều nào lao động về tôi cũng cùng anh Triệu Huỳnh Vơ, thứ trưởng Bộ thông tin -người mà tôi thường gọi đùa là người chỉ có họ mà không có tên – thả bộ xuống bệnh xá thăm anh th́ anh vẫn c̣n cười và bảo tôi rằng tại sao tôi cứ gọi anh là ông viện trưởng vậy v́ ḿnh mất hết rồi c̣n ǵ đâu. Tôi nắm tay anh nói rằng chúng ta mất hết nhưng học thức của ḿnh không mất, và tôi cũng cho anh biết t́nh h́nh phía Hoa Kỳ đă can thiệp để Hà Nội phải thả hết các tù chính trị đang diễn ra tốt đẹp để anh có thêm sức mạnh tinh thần mà cầm cự với căn bệnh quái ác đó.

 

Trong bệnh xá, có bác sĩ Trương Như Quưnh rất là giỏi và anh đại tá Đức thuộc lực lượng đặc biệt và anh Trung đại úy cảnh sát hết ḷng chăm sóc nhưng anh Xuân, người viện trưởng mà tôi rất qúy mến ấy đă nhắm mắt lại đúng vào ngày Quốc Tế Nhân Quyền.

 

Ngày trước hôm anh mất, tôi và anh Vơ xuống thăm mà không cầm được nước mắt v́ thân h́nh anh trên giường bệnh chỉ c̣n là đúng một bộ xương khô. Nếu không có cặp môi c̣n chút mấp máy th́ không ai biết là anh c̣n sống v́ cái đầu óc uyên bác của anh trước kia nay tóp lại chỉ c̣n là một cái đầu lâu không hơn không kém. Trong những ngày cuối anh chỉ sống thoi thóp nhờ vào những giọt nước anh Trung nhỏ từ từ vào cho thấm môi v́ ung thư đă di căn lên từ bao tử chẹt lấy yết hầu và làm anh không thể ăn ǵ được dù là vài giọt cháo loăng.

 

BS Quưnh và anh Đức đều nh́n tôi và lắc đầu nói rằng bệnh xá đă làm đơn xin cho anh Xuân được về cho gia đ́nh chăm sóc từ lâu rồi mà họ không chấp thuận.

 

Bộ Nội Vụ biết rằng anh đă bị căn bệnh ngặt nghèo đó nhưng vẫn nhất định không thả. Một lần nữa họ đă cho chúng tôi thấy rơ “chính sách khoan hồng” của họ như thế nào và ḷng hận thù nhỏ nhen của họ đối với chúng tôi như thế nào.

 

Đó là những dẫn chứng mà tôi tin rằng Thượng Tọa Thích Thanh Long là người đă đạt đến bực chân tu và thầy chỉ nói những ǵ thật là cần thiết với những người tù đồng cảnh ngộ mà thôi chứ không thể tiết lộ thiên cơ được.

 

Khi được thả về, thầy Long đă về lại ngôi chùa Giác Ngạn nằm ở cuối con đường Trương Minh Giảng gần nhà Mẹ tôi tại quận Ba, Sàig̣n, là nơi mà thầy đă trụ tŕ trước kia. Thực tế đau ḷng là đă có một vị sư được Nhà Nước cử đến để coi ngôi chùa này kể từ khi thầy vào tù và họ cho thầy trú trong một góc chùa nhưng các Phật tử đă mừng rỡ đến thăm thầy rất đông để chăm sóc sức khoẻ cho thầy.

 

Ít năm sau th́ tôi nghe tin thầy ngă bệnh và viên tịch trong sự thương tiếc của hàng ngàn Phật tử và hàng ngàn người đă đưa tiễn thầy lần sau cùng.

 

Khi ấy tôi vẫn c̣n trong trại giam Hàm Tân ở miền Nam và nh́n lên bầu trời cao xanh thăm thẳm kia, tôi như thấy một đóa hoa sen đang rực rỡ tỏa sáng, một đoá sen hồng chân tu mà tôi vô cùng kính phục đă trả xong nợ của một kiếp người và đă bay về miền Vĩnh Cửu; nơi mà chỉ có An Lạc Hạnh Phúc, nơi không c̣n hận thù chém giết và đọa đầy, nơi không c̣n oán tằng và sinh lăo bệnh tử.

 

 

(C̣n tiếp)

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính