Hai nhà Cách mạng khả kính
Phạm Đ́nh Lân, F.A.B.I.


Phan Châu Trinh - Phan Bội Châu
Là
người Việt Nam có học và ưu ái đến lịch sử nước nhà không ai không biết
đến hai nhà cách mạng Việt Nam thời cận đại: Phan Bội Châu (1867- 1940) và
Phan Châu Trinh.(1872- 1926). Cả hai đều là người miền Trung, khoa bảng
xuất thân nhưng không theo nghiệp quan trường mà dấn thân vào đường cách
mạng.
Phan Bội Châu đậu giải nguyên hương
thí năm 1900.
Phan Châu Trinh đậu phó bảng năm 1901.
Ông làm Hành Khiển trong bộ Lễ dưới triều vua Thành Thái và dưới quyền của
thượng thơ Ngô Đ́nh Khả, thân sinh của Ông Ngô Đ́nh Diệm sau này là Tổng
Thống Việt Nam Cộng Ḥa. Không bao lâu ông rũ áo từ quan để dấn thân vào
đường cách mạng v́ chán ghét cảnh quan trường thời phong kiến và bảo hộ
Pháp.
Phan Bội Châu cùng Tiểu La Nguyễn
Thành, Đỗ Đăng Tuyển thành lập Việt Nam Duy Tân Hội năm 1904. Năm 1905 ông
là linh hồn của Phong Trào Đông Du. Hoạt động cách mạng ở hải ngoại, Phan
Bội Châu quen biết với Leang Ki- chao (Lương Khải Siêu), Sun Yat Sen (Tôn
Dật Tiên), các chánh khách Nhật Bản như Okuma Shighenobu (1838- 1922- Đại
Ôi Trọng Tín), Inukai Tsuyoshi (1855- 1932- Khuyến Dưỡng Nghị), thủ lănh
đảng Rikken Seiyukai (Thân Hữu Chánh Quyền Lập Hiến từ năm 1924 đến khi bị
ám sát chết năm 1932). Okuma từng là thủ tướng Nhật Bản năm 1898 và 1914-
1916. Inukai là thủ tướng Nhật vào năm 1931- 32, thời kỳ chế độ quân phiệt
đang trỗi dậy mạnh ở Nhật. Ông bị ám sát chết vào năm 1932, năm Nhật Bản
cho ra đời Măn Châu Quốc và đưa vị hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh là Pu
Yi (Phổ Nghi) về làm vua. Leang Ki-chao (1873- 1929) và thầy là Kang
Yu-wei (1858- 1927-Khang Hữu Vi) là cố vấn của hoàng đế Kuang Hsu (Quang
Tự) trong cuộc canh tân 100 ngày năm 1898. Thất bại Leang sống lưu vong ở
Nhật. Sun Yat- sen (1866- 1925) là linh hồn của cách mạng Tân Hợi (1911)
gặp Phan Bội Châu ở Nhật trước khi cách mạng Tân Hợi thành công.
Phan Châu Trinh được xem như linh hồn
của Phong Trào Duy Tân. Ông là nhà nho không mặn nồng với tư tưởng phong
kiến Trung Hoa mà say sưa với tư tưởng dân chủ Tây Phương. Ông biết
Contrat Social của Jean Jacques Rousseau hay Esprit des Lois của
Montesquieu qua các sách dịch chữ Hán của các nhà tư tưởng Trung Hoa.
Trong xă hội phong kiến chịu ảnh hưởng của Khổng Giáo học hành, thi cử là
phương thức tiến thân và cải thiện cuộc sống nên người ăn học phải:
Dồi mài kinh sử để chờ kịp khoa.
Nhiều phụ nữ lao động cực nhọc để cho
chồng dồi mài kinh sử với hy vọng chồng đỗ đạt để có cảnh:
Vơng anh đi trước
Vơng nàng theo sau.
Lúc làm việc trong bộ Lễ, Phan Châu
Trinh thấy vài quan lại trong triều đạt đỉnh cao danh vọng nhờ tiếng Pháp,
chữ quốc ngữ và đạo Thiên Chúa như trường hợp thượng thơ Nguyễn Hữu Bài và
Ngô Đ́nh Khả chẳng hạn. Phan Châu Trinh chấp nhận tầm quan trọng của tiếng
Pháp và chữ quốc ngữ không phải để được tiến thân trên hoạn lộ mà để học
hỏi dân chủ, khoa học kỹ thuật và để tách rời khỏi ảnh hưởng văn hóa phong
kiến Trung Hoa ăn gốc rễ ở nước ta hàng ngàn năm qua.
Phan Bội Châu là một nhà nho từ mái
tóc, bộ râu cho đến áo quần và đôi dép dưới chân.
Phan Châu Trinh là nhà nho hớt tóc
ngắn, để râu kiểu Napoleon III, Nicholas II hay Meiji tenno (Minh Trị),
mặc Âu phục có cà vạt và mang giày da.
Phan Bội Châu chủ trương theo chế độ
quân chủ lập hiến với Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, hậu duệ của ḍng hoàng tử
Cảnh, làm minh chủ. Chủ trương của Phan Bội Châu cho thấy ông chịu ảnh
hưởng sâu đậm của Khổng Giáo gắn liền sự trung quân với ḷng yêu nước. Vào
năm 1885 Phan Bội Châu từng hưởng ứng Phong Trào Cần Vương do vua Hàm Nghi
phát động mặc dù lúc ấy ông mới 18 tuổi. Khi lănh đạo Phong Trào Đông Du
Phan Bội Châu t́m sự giúp đỡ của Nhật. Việc tôn vinh Cường Để nhằm mục
đích làm vừa ḷng Nhật v́ nước này theo chế độ quân chủ lập hiến dù rằng
hiến pháp 1889 không do các dân biểu quốc hội làm ra mà là sản phẩm nghiên
cứu của Ito và các nhà luật học Nhật đưa vào hiến pháp của Đức dưới thời
Bismarck.
V́ say mê dân chủ Phan Châu Trinh hoàn
toàn thất vọng với Cường Để khi đến Nhật. Trên đất khách Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để xưng là vua Gia Thanh và bắt các sinh viên Đông Du dự lễ thiết
triều mỗi ngày Một cuộc tranh căi dữ dội diễn ra giữa Phan Châu Trinh và
Cường Để năm 1906 trên đất Nhật. Phan Châu Trinh trở thành nhà nho Việt
Nam đầu tiên công khai chống chế độ quân chủ. Ông đả kích vua Khải Định
khi sang Pháp dự cuộc đấu xảo ở Marseille năm 1922. Năm 1925 ông về Sài
G̣n từ Pháp chớ không về tỉnh Quảng Nam, sinh quán của ông v́ tỉnh nằm
trên vùng đất bảo hộ nơi c̣n ảnh hưởng của vua quan Nam triều.
Trong cuộc đấu tranh giành độc lập
Phan Bội Châu nghĩ đến việc cầu viện Nhật khi lănh đạo Phong Trào Đông Du.
Chiến thắng của Nhật trước hạm đội Baltic của Nga năm 1905 tại eo biển
Tsushima (eo Đối Mă) trong ṿng 38 phút gây phấn khởi cho nhà cách mạng
Phan Bội Châu với ư nghĩ đơn giản rằng ta có thể cầu viện Nhật, một quốc
gia đồng châu, đồng hoàng chủng để đánh đuổi Pháp giành độc lập. Nhật
không giúp đỡ lại c̣n yêu cầu ông rời khỏi nước Nhật sau khi nước này kư
hiệp ước với Pháp năm 1907 để được nước này cho vay 300,000,000 francs mà
Nhật cần sau khi chiến thắng Nga. Rời Nhật, Phan Bội Châu đi Trung Hoa rồi
Xiêm La (Thái Lan sau này). Khi hay tin Sun Yat- sen cầm quyền sau khi
cách mạng Tân Hợi thành công Phan Bội Châu rời Xiêm La đi sang Trung Hoa
với hy vọng được sự giúp đỡ của Trung Hoa. Một lần nữa ông bị thất vọng v́
địa vị của Sun Yat-sen ở Trung Hoa bấp bênh trước sự đe dọa của Yuan
Shi-kai (Viên Thế Khải). Phe cách mạng của Sun Yat-sen chỉ mạnh ở miền
Nam. Trái lại ở miền Bắc nhà Thanh vẫn c̣n mạnh. Yuan Shi- kai (Viên Thế
Khải) là tướng người Hán từng được Cixi (Từ Hi) tin cậy cho nắm quân đội
trong tay. Yuan Shi-kai cho Sun Yat-sen biết ông có quân đội và sẽ làm áp
lực cho Pu- yi (Phổ Nghi) thoái vị với điều kiện Sun Yat-sen trao quyền
tổng thống cho ông. Nếu không, ông sẽ dùng quân đội đánh dẹp phe cách mạng
của Sun Yat-sen. V́ không có lực lượng quân sự mạnh, Sun Yat-sen đành phải
nhượng bộ Yuan Shi- kai. Lần này Phan Bội Châu chịu ảnh hưởng của Quốc Dân
Đảng (Kuomintang) do Sun Yat-sen thành lập khi lập ra Việt Nam Quang Phục
Hội (1912). Ông chọn chánh thể Cộng Ḥa thay v́ chế độ quân chủ lập hiến.
Cường Để sẽ là tổng thống và ông là thủ tướng.
Phan Châu Trinh có vẻ thực tế hơn. Ông
không nghĩ đến việc cầu viện nước khác trong mưu cầu độc lập của quê hương
ḿnh. Sự suy nghĩ của ông rất thực. Ông mường tượng đến cảnh đuổi cọp rước
beo vào nhà hay cảnh nhờ kẻ cướp đánh kẻ cướp khác đang ở trong nhà để rồi
nhà sẽ mất v́ kẻ cướp mà ḿnh nhờ vả.
Phan Bội Châu có vọng động trước chiến
thắng của Nhật (hoàng chủng) trước Nga (bạch chủng) và trước sự thành công
của cách mạng Tân Hợi. Ông phấn khởi v́ mâu thuẫn giữa Pháp và Đức nên năm
1913, trong lúc ở trong ngục thất Guangzhou (Quảng Châu), ông ra lịnh
Nguyễn Thượng Hiền sang Bangkok liên lạc với viên đại sứ Đức để nhận một
số tiền giúp đỡ để mua vơ khí.
Phan Châu Trinh là một nhà nho không
bị xao động trước cách mạng Tân Hợi của Trung Hoa năm 1911. Đó là năm ông
được sang Pháp để có cơ hội t́m hiểu thêm về dân chủ Tây Phương. Sống
nghèo khổ và thiếu thốn và từng ở tù ở Paris v́ bị nghi ngờ liên lạc với
Đức (1915) ông không bị xao động v́ cách mạng vô sản của Lenin thành công
ở Nga năm 1917 cũng không lay chuyển v́ chủ nghĩa Marx. Ông gởi thơ gọi
Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh sau này) về Paris khi Thành làm thợ nhồi bột
làm bánh ngọt cho một nhà hàng ở Anh. Ông giúp cho Nguyễn Tất Thành mưu
sinh bằng nghề rửa ảnh. Ông cho Thành làm quen với các nhà trí thức Việt
Nam ở Paris lúc bấy giờ như tiến sĩ Phan Văn Trường, kỹ sư Nguyễn Thế
Truyền, luật gia Nguyễn An Ninh. Phan Châu Trinh là bạn đồng liêu của ông
Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) ở bộ Lễ. Cả
hai ông Phan Châu Trinh và Nguyễn Sinh Sắc đều là phó bảng trong kỳ thi
Hội năm 1901 ở Huế. Nhưng từ khi Nguyễn Tất Thành dưới bí danh Nguyễn Ái
Quấc (dịch từ bút kư tập thể của nhóm Ngũ Long Paris: NGUYEN, LE PATRIOTE)
gia nhập đảng Cộng Sản Pháp, liên hệ giữa hai người trở nên lạnh nhạt. Từ
đó Nguyễn Tất Thành đoạn tuyệt với cha (Nguyễn Sinh Sắc) v́ đă xúc phạm
đến người đồng liêu khả kính của cha ông. Ông Sắc mất chức tri huyện B́nh
Khê, B́nh Định năm 1910, và sống vất vưởng ở Sài G̣n rồi Cao Lănh dưới sự
trợ giúp của một điền chủ hào sảng họ Lê.
Thời gian qua cho thấy đường lối duy
tân, đấu tranh bất bạo động và tự lực cánh sinh của Phan Châu Trinh rất
đúng v́ tiết kiệm xương máu, bảo toàn tài nguyên đất nước, đảm bảo sự đoàn
kết dân tộc và toàn vẹn lănh thổ, nâng cao dân trí, dân sinh, dân quyền,
đẩy mạnh sự phát triển kinh tế quốc gia. Tất cả những yếu tố đó đảm bảo
độc lập lâu dài, phồn vinh đất nước và đoàn kết dân tộc chớ không phải chủ
nghĩa Marx- Lenin vô địch hay chủ nghĩa anh hùng cách mạng ǵ cả.
Trở về với Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh ta thấy Phan Bội Châu chủ trương bạo động. Phan Châu Trinh chủ
trương bất bạo động giữa lúc dân ta c̣n kém về mọi mặt. Bạo động trong thế
yếu chỉ đổ máu vô ích. Càng đổ máu càng tạo nhiều hận thù. Sự đoàn kết dân
tộc rạn nứt. Cầu viện nước khác th́ có khác ǵ đuổi kẻ cướp này để rước kẻ
cướp khác? Phan Châu Trinh không có cái nh́n lạc quan về chiến khu Yên Thế
của Hoàng Hoa Thám. Nhưng đừng hiểu lầm và đồng hóa đường lối đấu tranh ôn
ḥa của Phan Châu Trinh với chủ trương Pháp- Việt Đề Huề của Bùi Quang
Chiêu. Ông Bùi Quang Chiêu là người Tây học giàu có, có Pháp tịch. Ông đấu
tranh cho giới trí thức Tây học và một thiểu số trí thức tư sản ở Nam Kỳ
mà thôi. Phan Châu Trinh đấu tranh buộc Pháp phải mở mang học đường, bịnh
viện, đường sá, chống sưu cao, thuế nặng. Ông chủ trương mở mang dân trí,
băi bỏ những cổ tục lạc hậu, lỗi thời, phát triển công thương nghiệp để
giành quyền chủ động kinh tế trong nước. Nhiều người Quảng Nam trở thành
những nhà kỹ nghệ, những thương gia và nhà kinh doanh có tầm vóc lớn trong
nước trong ngành hàng không, ngân hàng, kiến trúc, kỹ nghệ dệt... há không
chịu ảnh hưởng của đường lối duy tân của Phan Châu Trinh sao? Phan Châu
Trinh đấu tranh cho tương lai xứ sở và dân tộc chớ không riêng cho thiểu
số ưu đăi nào. Bản án tử h́nh dành cho Phan Châu Trinh năm 1908 và án lưu
đày cho nhiều nhà nho yêu nước như Tiểu La Nguyễn Thành, Huỳnh Thúc Kháng
... và cái chết đau thương của ông nghè Trần Quí Cáp cho thấy thực dân
Pháp lo sợ sự thành công của Phong Trào Duy Tân của Phan Châu Trinh thể
hiện qua sự thành lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội năm 1907 và
cuộc biểu t́nh chống sưu thuế ở Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên,
Thừa Thiên năm 1908 mà thời bấy giờ người ta gọi một cách mỉa mai là ‘loạn
đầu bào’ v́ người biểu t́nh cắt tóc ngắn trước khi tham dự biểu t́nh.
Phan Bội Châu là người tỉnh Nghệ An.
Dưới thời Bắc thuộc Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh là vùng hoang vu núi
rừng hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Đó là thành lũy đối kháng chống chánh
quyền đô hộ Trung Hoa ngự trị trên châu thổ sông Hồng.
Triệu Thị Trinh khởi nghĩa ở Thanh Hóa
vào thế kỷ III sau Tây Lịch.
Mai Hắc Đế (Mai Thúc Loan) khởi nghĩa
ở Nghệ An vào thế kỷ VIII sau Tây Lịch.
Lê Lợi khởi nghĩa vào thế kỷ XV ở
Thanh Hóa.
Các vua nhà Hậu Lê, chúa Trịnh, chúa
Nguyễn và các vua nhà Nguyễn đều gốc ở Thanh Hóa.
Phan Bội Châu thừa hưởng tinh thần đối
kháng của người Thanh- Nghệ- Tĩnh và tư tưởng Khổng Mạnh mà thôi. Hồ Chí
Minh cũng có những đặc điểm tương tự cộng thêm với tư tưởng cực đoan, độc
đoán và sắt máu mà ông được dạy ở Liên Sô vào năm 1924 và 1934. Những cuộc
bạo động của Việt Nam Quang Phục Hội như vụ nổ bom ở khách sạn Hà Nội, ám
sát tuần phủ Nguyễn Duy Hàn, âm mưu ám sát toàn quyền Albert Sarraut ở
trường thi Nam Định (1913), việc tấn công đồn Tà Lùng năm 1915, âm mưu
khởi nghĩa ở Huế năm 1916, cuộc khởi nghĩa ở Thái Nguyên năm 1917 do Lương
Ngọc Quyến và Trịnh Văn Cấn cầm đầu chỉ gây tiếng vang chớ không có kết
quả quyết định. Hầu hết những biến động trên đều do Việt Nam Quang Phục
Hội điều khiển từ Trung Hoa. Lâm Đức Thụ tức Nguyễn Công Viễn sống ở Trung
Hoa, có vợ giàu có ở Guangzhou và làm công tác t́nh báo cho Pháp dưới bí
danh Pinot há không báo cho Pháp biết về hoạt động của Việt Nam Quang Phục
Hội khi đưa người vượt biên giới Việt- Trung về nước? Lâm Đức Thụ từng là
thành viên Việt Nam Quang Phục Hội. Năm 1923 ông cùng Lê Hồng Phong, Lê
Hồng Sơn, Nguyễn Hải Thần tách rời khỏi Việt Nam Quang Phục Hội để cho ra
đời Tam Tâm Xă gồm những thành viên trẻ chủ trương bạo động mạnh hơn chủ
trương của Phan Bội Châu. Phạm Hồng Thái là thành viên của Tam Tâm Xă. Ông
lănh nhiệm vụ ám sát toàn quyền Merlin năm 1924 khi giả dạng làm một kư
giả chụp ảnh. Cuối năm 1924 Nguyễn Ái Quấc (Hồ Chí Minh sau này) đến
Guangzhou phục vụ cho Borodin, cố vấn Liên Sô bên cạnh Sun Yat-sen, dưới
tên Lư Thụy. Họ Lư là họ giàu có nổi tiếng ở Guangzhou thời ấy. Không biết
do sự móc nối hay sắp xếp nào sẵn, Lư Thụy sống trong nhà của Lâm Đức Thụ
tức Nguyễn Công Viễn. Hầu hết những thành viên sáng lập Tam Tâm Xă, ngoại
trừ Nguyễn Hải Thần, đều ngả theo Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí
Hội của Lư Thụy. Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lâm Đức Thụ cùng
Lư Thụy sáng lập ra Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội vào tháng
06 năm 1925. Một số vốn liếng chánh trị to lớn của Phan Bội Châu từ Việt
Nam Quang Phục Hội, Tam Tâm Xă đă tan biến để trở thành Việt Nam Thanh
Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội gọi tắt là Thanh Niên, một tổ chức tiền thân
của đảng Cộng Sản Việt Nam. Cuối tháng 06 năm 1925 có tin Phan Bội Châu bị
Pháp bắt ở Shanghai (Thượng Hải) trên tô giới Pháp khi sắp dùng xe lửa
xuống miền Nam thăm viếng mộ Phạm Hồng Thái. Dư luận cho rằng Lâm Đức Thụ
tức Pinot tức Nguyễn Công Viễn và Lư Thụy chỉ điểm cho Pháp bắt nhà cách
mạng Phan Bội Châu để nhận 100,000 đồng tiền thưởng. Vào thời ấy lương
tháng một công chức ở địa phương xê dịch từ 25- 30 đồng. Cụm từ tiền muôn
bạc vạn (10,000) cho thấy đó là con số quá lớn lao không bao giờ có được!
Như vậy 100,000 đồng tiền thưởng là con số quá lớn để Lâm Đức Thụ thụ
hưởng cuộc sống vinh sang của người làm ‘cách mạng’ và Lư Thụy (Hồ Chí
Minh) có nhiều tiền để phát triển hột giống Cộng Sản trên lănh thổ Trung
Hoa trước khi xâm nhập vào Việt Nam. Phan Bội Châu bị bắt và đưa về Hà Nội
xử án. Lư Thụy thừa hưởng mọi thành quả do nhà cách mạng họ Phan tạo ra ở
Trung Hoa, Xiêm La và trong nước. Bản án tử h́nh mà ṭa án Pháp dành cho
nhà cách mạng khả kính Phan Bội Châu khuấy động sự căm thù và ḷng yêu
nước của dân tộc Việt Nam. Sinh viên, học sinh Việt Nam biểu t́nh chống
bản án khắc nghiệt này khiến Pháp phải chuyển bản án thành án an trí ở
Huế. Phan Bội Châu vẫn c̣n sống nhưng không hoạt động được.
Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh đều chủ
trương bạo động. Sự bạo động của Phan Bội Châu thất bại. Đó là sự thất bại
của bản thân ông và tổ chức Việt Nam Quang Phục Hội của ông. Nó chưa mang
độc lập cho xứ sở nhưng không gây phương hại ǵ cho đất nước và dân tộc.
Hồ Chí Minh thành công trong bạo lực
cách mạng. Kỳ lạ thay! sự thành công của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt
Nam không mang độc lập, tự do và hạnh phúc cho đất nước và dân tộc. Trái
lại nó mang lại cho đất nước và dân tộc Việt Nam lắm tai họa đau thương:
đất nước bị chia đôi (1954), chiến tranh kéo dài triền miên từ 1945 đến
1975; tài nguyên xứ sở kiệt quệ, xương máu, mồ hôi và nước mắt của hàng
chục triệu người Việt Nam đă đổ; hàng triệu người rời bỏ nơi sinh quán
thậm chí vĩnh viễn rời bỏ quê hương để t́m tự do và lẽ sống trên xứ lạ quê
người (04 triệu người sau năm 1975); đoàn kết dân tộc tan nát; đất nước
không toàn vẹn lănh thổ sau chiến tranh (Hoàng Sa, Trường Sa, mất đất
ngoài biên giới- hiệp ước 1999 và 2000) và rơi vào cảnh nô lệ khắc nghiệt
và nhục nhă hơn xưa! Việt Nam độc lập, thống nhất và là thành viên của LHQ
sao lại phải tôn trọng Bốn Tốt và Mười Sáu Chữ Vàng do Trung Quốc áp đặt
khi bang giao với nước này? Sao lại thấy xuất hiện cờ Trung Quốc với 05
sao nhỏ chầu một ngôi sao lớn trên lănh thổ Việt Nam? Sao tượng Lư Thái Tổ
được làm ở Trung Quốc? và ngày Ngàn Năm Thăng Long tổ chức vào ngày Quốc
Khánh của Trung Quốc (01- 10)? Sao trong ngày lễ Thương Binh 27-07-2015
lại phải trỗi nhạc Trung Quốc tựa đề Khát Vọng Đoàn Tụ <với Trung Quốc>?
V́ sao tướng Phùng Quang Thanh, tổng trưởng bộ Quốc Pḥng, ‘tâm tư’ khi
thấy người dân Việt Nam chán ghét sự hù dọa và thái độ trịch thượng của
Trung Quốc về vấn đề biển đảo?
Phan Châu Trinh người tỉnh Quảng Nam,
tỉnh trung tâm của nước Việt Nam. Xưa kia vùng này là vùng đất trù phú của
Chiêm Thành. Thuyền bè Trung Hoa, Mă Lai, Indonesia, Ả Rập thường lui tới
buôn bán. Vào thế kỷ XVII Hội An là một cảng thương mại quan trọng ở Đàng
Trong. Tên gọi Faifo âm từ chữ ‘Phải Phố?’ cho thấy tầm quan trọng của nó
đối với thương nhân ngoại quốc. Thương nhân Nhật, Trung Hoa và các nước
Nam Á đều đến đó để trao đổi hàng hóa. Đạo Thiên Chúa do các nhà truyền
giáo ḍng Jesuit sớm đến Quảng Nam. Vào thập niên 1920 đạo Tin Lành du
nhập vào Việt Nam qua Quảng Nam, Mỹ Tho, Cần Thơ, Hải Pḥng. So với Nghệ
An, Quảng Nam tiếp xúc với người ngoại quốc nhiều hơn. Về mặt kinh tế
thương mại Quảng Nam cũng có điểm trội hơn. Quảng Nam là trung tâm của
nước Việt Nam nơi tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa, văn hóa Nhật, văn hóa Ấn
Giáo, Hồi Giáo (Chiêm Thành), văn hóa Khmer, văn hóa Thiên Chúa Giáo, văn
hóa Tin Lành. Sự tiếp xúc này giúp cho Phan Châu Trinh có tầm nh́n rộng
hơn các nhà nho sùng bái Khổng Giáo khác trong nước. Từ việc hớt tóc ngắn,
để râu kiểu Napoleon III, Nicholas II hay Meiji, việc mặc Âu phục, mang
giày da đến tư tưởng duy tân và sự say mê dân chủ Tây Phương cho thấy Phan
Châu Trinh là người sáng suốt và can đảm v́ ông tương đối đơn độc trong
đường hướng của ông.
Phan Châu Trinh là nhà cách mạng Việt
Nam duy nhất thoát chết sau khi bị tuyên án tử h́nh nhờ sự can thiệp của
Hội Quốc Tế Nhân Quyền. Án tử h́nh được chuyển thành án lưu đày ra Côn Đảo
rồi bị an trí ở Mỹ Tho. Năm 1911 ông đến Paris. Năm 1915 ông và Phan Văn
Trường bị bắt giam trong ngục La Sante v́ bị t́nh nghi có liên lạc với
Đức. Năm 1917 hai ông được tự do. Phan Châu Trinh cùng các ông Phan Văn
Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh), Nguyễn An Ninh
thành lập nhóm Ngũ Long viết những bài tham luận chánh trị đăng trên báo
Xă Hội của Pháp dưới bút kư Nguyễn Ố Pháp sau đổi thành Nguyễn Ái Quốc
(Nguyen, Le Patriote). Năm 1919 nhóm này thảo Chương Tŕnh Tám Điểm gởi
cho đại diện Tam Cường tại Hội Nghị Versailles. Chương Tŕnh Tám Điểm này
do Nguyễn Tất Thành mang đến văn pḥng thơ kư của hội nghị. Từ đó trong
nước ai cũng biết đến nhân vật Nguyễn Ái Quốc. Người mang văn kiện trở
thành tác giả của văn kiện đấu tranh cho độc lập xứ sở! Năm 1925 Phan Châu
Trinh về Sài G̣n. Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh cũng đă về Sài G̣n.
Phan Châu Trinh tạm sống trong nhà Nguyễn An Ninh ở Mỹ Huề, Hốc Môn, Gia
Định. Ông mất năm 1926 và được chôn ở Tân Sơn Ḥa. Dân miền Nam dành cho
ông một đám tang trọng thể nhất trong lịch sử mặc cho sự theo dơi của mật
thám Pháp. Sau đó lễ truy điệu Phan Châu Trinh được tổ chức. Nhiều học
sinh bị đuổi học v́ tham dự lễ truy điệu này.


Đám tang trọng thể của Cụ Phan Châu Trinh ở Sài G̣n
Tượng Cụ Phan Bội Châu tại Huế do điêu khắc gia Lê Thành Nhơn tạc 1974 (*)
Mười bốn năm sau ngày Phan Châu Trinh mất, nhà cách mạng Phan Bội Châu âm
thầm vĩnh biệt toàn dân Việt Nam tại Huế nơi ông được gọi là Ông Già Bến
Ngự.
****
Phan Châu Trinh viết thơ gọi Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) về Paris khi
ông vừa mới được tự do dưới thời thủ tướng Clémenceau, người được gọi là
Con Cọp Già trong đệ nhất thế chiến. Nguyễn Tất Thành học hỏi chánh trị
khi sống gần các ông Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền
và Nguyễn An Ninh, người trẻ tuổi nhất trong nhóm Ngũ Long Paris. Không
bao lâu người thanh niên xứ Nghệ ưa chuộng bạo động bắt đầu bất đồng ư
kiến với nhà cách mạng duy tân xứ Quảng về chủ trương bất bạo động của
ông. Đó là sự bất đồng ư kiến giữa người trẻ và người già. Nguyễn Tất
Thành gia nhập đảng Cộng Sản Pháp ngay trong ngày thành lập năm 1920 khi
ông được 30 tuổi. Lúc ấy Phan Châu Trinh 48 tuổi tức đă sống 80% cuộc đời
của người có tuổi thọ lư tưởng 60 ngày xưa. Bất bạo động của Phan Châu
Trinh không phải là hèn nhát không dám đương đầu với địch cũng không phải
ngồi thụ động không làm ǵ của người há miệng chờ sung rụng. Nó xuất phát
từ sự nhận xét về sự chênh lệch quá lớn trong tương quan lực lượng giữa ta
và Pháp. Bạo động trong thế yếu, dân trí thấp, chỉ gây đổ máu vô ích mà
thôi. Sự dị biệt giữa Phan Châu Trinh và Nguyễn Tất Thành càng lúc càng
rộng lớn hơn sau khi Nguyễn Tất Thành gia nhập vào đảng Cộng Sản. Như đă
thấy, Phan Châu Trinh không phấn khởi với cách mạng Tân Hợi của Trung Hoa,
cũng không phấn khởi với cách mạng vô sản ở Nga do Lenin lănh đạo. Ông
không xao động trước những biến cố có tính thời đại lúc bấy giờ như Công
Xă Paris, những bàn thảo sôi nổi về Đệ Nhị Quốc Tế và Đệ Tam Quốc Tế trong
chánh giới Pháp.
Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu có nhiều khác biệt trong phương thức đấu
tranh và định chế chánh trị sau khi nước nhà được độc lập nhưng cả hai đều
tương kính lẫn nhau.
Phan Bội Châu và Nguyễn Tất Thành đều là người Nghệ An. Khi Phan Bội Châu
phát động Phong Trào Đông Du, Nguyễn Tất Thành mới 15 tuổi. Ông vào Huế
học. Nguyễn Tất Thành đương nhiên biết và nghe nhiều về những hoạt động
của nhà cách mạng Phan Bội Châu. Chúng tôi không thấy tài liệu nào cho
thấy nhà cách mạng khả kính này đă gặp Nguyễn Tất Thành lúc c̣n bé ở làng
Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An cũng như lúc ông phục vụ cho Borodin
ở Guangzhou cuối năm 1924 dưới tên Lư Thụy. Nhiều tài liệu cho rằng Lâm
Đức Thụ và Lư Thụy chỉ điểm cho Pháp bắt Phan Bội Châu cuối tháng 06 năm
1925 nghĩa là vài ngày sau khi Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Minh
Hội, tiền thân của đảng Cộng Sản Việt Nam, được thành lập, để nhận 100,000
đồng tiền thưởng. Cố nhiên các tài liệu của chánh phủ Việt Nam Dân Chủ
Cộng Ḥa và Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam phủ nhận tin này. Những
người biết rơ sự thật của chuyện này như Lâm Đức Thụ, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng
Phong---đều chết. Lâm Đức Thụ bị Việt Minh bỏ vào lồng tre d́m dưới sông
Thái B́nh. Hồ Tùng Mậu bị phi cơ Pháp bắn chết. Lê Hồng Phong bị Pháp bắt
và chết ở Côn Đảo. Về chuyện này chúng ta thử đặt vài giả thuyết để t́m ra
‘sự thật tương đối’ nào đó:
1. Lâm Đức Thụ và Nguyễn Ái Quấc tức Lư Thụy (Hồ Chí Minh) quen biết và
thân thiện như thế nào mà khi đến Guangzhou phục vụ cho Borodin Lư Thụy ở
nhà của Lâm Đức Thụ? Lư Thụy (Hồ Chí Minh) người Nghệ An và chỉ sống ở đó
15 năm không có tên tuổi và sự nghiệp ǵ sao lại quen với Nguyễn Công Viễn
(Lâm Đức Thụ), người Thái B́nh xa lạ. Một người xứ Nghệ ở Pháp, sang Liên
Sô rồi mới đến Guangzhou phục vụ cho viên chức Liên Sô, c̣n một người ở
miền Bắc sang Trung Hoa dưới danh nghĩa hoạt động cách mạng bên cạnh Phan
Bội Châu nhưng có vợ người Hoa giàu có, sống vinh sang và hút á phiện đă
quen nhau trong trường hợp nào?
2. Lâm Đức Thụ hoạt động bí mật cho Sở Mật Thám Pháp dưới bí danh Pinot.
Người hoạt động mật thám và t́nh báo không từ bỏ bất cứ phương tiện nào từ
thanh cao đến dơ bẩn và tàn độc để đạt mục tiêu và hoàn thành nhiệm vụ của
họ. Lư Thụy (HCM) há không được đào tạo hai khóa học về những công tác
này? Hồ Chí Minh đă làm ǵ khi mang bí danh Lucius trong đệ nhi thế chiến?
Việc ông thân thiện với Lâm Đức Thụ và được Thụ chứa chấp trong nhà hoàn
toàn phù hợp với câu:
Qui se ressemble s’assemble
(Những kẻ giống nhau quần tụ với nhau)
(Ngưu t́m ngưu, mă t́m mă)
Dis moi qui tu hantes, je dirai qui tu es
(Hăy nói cho tôi biết anh giao du với ai, tôi sẽ nói anh là ai?)
3.
Sự hợp tác giữa Lư Thụy (Hồ Chí Minh) và Lâm Đức Thụ là một cuộc hôn nhân
t́nh báo (Pháp và Liên Sô) được hai bên tính toán kỹ lưỡng. Lư Thụy (HCM)
dựa vào Lâm Đức Thụ để được sống tiện nghi và dùng bàn tay của Lâm Đức Thụ
(phục vụ cho Pháp) để xóa vai tṛ lănh đạo cách mạng của Phan Bội Châu ở
hải ngoại, vừa được tiền thưởng của Pháp, vừa tóm thu mọi vốn liếng cách
mạng do Phan Bội Châu gây dựng từ năm 1905 đến 1925 ở Trung Hoa, Xiêm La
và trong nước. Lâm Đức Thụ sốt sắng với Lư Thụy để có vai tṛ quan trọng
trong việc thành lập tổ chức tiền thân của đảng Cộng Sản hầu theo dơi hoạt
động của tổ chức Cộng Sản này để báo cáo cho mật thám Pháp trong nước.
Sách báo Cộng Sản đề cao "sự sáng suốt của Bác Hồ trong việc t́m đường cứu
nước" ở phương Tây để so sánh với Phong Trào Đông Du của Phan Bội Châu
hướng về phương Đông. Các "học giả" Cộng Sản chê đường lối bất bạo động
của Phan Châu Trinh và không ngớt lời ca ngợi "bạo lực cách mạng của Bác
Hồ thành công vẻ vang trong việc đánh bại đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ".
Người địa phương đương thời ca ngợi tài làm thơ đối đáp của Phan Bội Châu
bằng cách tặng cho ông danh hiệu Thánh Sống Nam Đàn. Các học giả Cộng Sản
cho rằng danh hiệu đó dành cho Bác Hồ, người làng Sen, huyện Nam Đàn. Đây
là một h́nh thức tiếm danh và ngụy biện. Hồ Chí Minh sinh năm 1890 (theo
tài liệu chánh thức của Hà Nội) chỉ sống ở Nghệ An đến năm 1905 th́ vào
Huế học Quốc Học, vào Sài G̣n rồi sang Pháp sau khi t́m được một công việc
làm dưới tàu. Ông biết chút chữ Hán, chữ Pháp và quốc ngữ chớ có thành
tích thi cử nào sáng chói hay tác phẩm trứ danh nào để được người địa
phương gọi là Thánh Sống.
Về học vị Phan Bội Châu là cử nhân Hán học. Ông là thủ khoa trong kỳ thi
hương năm 1900. Ông là tác giả của
Việt Nam Vong Quốc Sử, Lưu Câu Huyết Lệ Tân Thư, Khổng Học Đăng, Tự
Phán, Hải Ngoại Huyết Thư, Nam Nữ Quốc Dân Tu Tri, Ngục Trung Thư v.v.
Phan Bội Châu là nhà cách mạng tiền phong khi có sáng kiến:
- thành lập Việt Nam Duy Tân Hội (1904) và Việt Nam Quang Phục Hội (1912)
- dùng văn thơ để quảng bá tư tưởng cách mạng với những bài thơ lâm ly,
thống thiết
- vận động ngoại viện (Nhật, Trung Hoa, Đức)
- kích thích ḷng yêu nước của Việt kiều ở Xiêm La (Thái Lan)
- thành lập chánh phủ lưu vong (1912)
- chọn quốc kỳ (Cờ Ngũ Tinh)
Hồ Chí Minh lập ra đảng Cộng Sản Việt Nam sau đổi thành đảng Cộng Sản Đông
Dương năm 1930 sau khi được thụ huấn ở Moscow và làm theo chỉ thị của
Stalin.
Phan Bội Châu kết thân với Leang Ki- chao (Lương Khải Siêu), Sun Yat-sen
(Tôn Dật Tiên), cha đẻ của nền Dân Quốc Trung Hoa và Okuma, Inukai của
Nhật.
Hồ Chí Minh chỉ là cán bộ Cộng Sản được bố trí phục vụ cho Borodin khi ông
này làm cố vấn cho Sun Yat-sen trong thời kỳ Quốc- Cộng Liên Minh lần thứ
nhất.
Phan Bội Châu viết
Ngục Trung Thư
trong thời gian bị giam giữ trong ngục thất Guangzhou (1913- 1917).
Hồ Chí Minh viết
Nhật Kư Trong Tù
khi ở tù ở Liaozhou (Liễu Châu) (1942- 1943).
Như vậy ai là người thực sự t́m đường cứu nước và có óc sáng tạo xứng đáng
với danh hiệu Thánh Sống Nam Đàn? Phan Bội Châu hay Hồ Chí Minh?
****
Dù không thành công hai nhà cách mạng Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh đều
được toàn dân Việt Nam kính trọng, yêu v́. Nói một cách nghịch nhĩ rằng:
Được sự thất bại của hai nhà cách mạng họ Phan đă
là sự thành công to lớn rồi.
Phan Bội Châu hiến dâng trọn đời ḿnh cho đất nước và dân tộc Việt Nam.
Ông dành 20 năm hoạt động cách mạng ở Nhật, Trung Hoa, Xiêm La và 15 năm
an trí ở Huế, sống xa cách vợ con và xă sinh quán từ năm 1905 đến ngày
nhắm mắt ĺa đời. Sự hy sinh cao cả của ông lôi cuốn theo sự hy sinh của
hai người vợ và hai người con sống dưới sự de dọa của nhà cầm quyền địa
phương trong hoàn cảnh thiếu thốn và thất học. Nhà cách mạng khả kính của
dân tộc trút hơi thở cuối cùng trong nghèo khó với nỗi buồn dằng dặc v́
mong ước giải phóng quê hương không thành. Con chim Việt vỗ cánh tung bay
khắp bốn phương trời. Ngày trở về tổ trên cành Nam là ngày con chim nằm
trong cái lồng gỉ mục. Tổ ấm vẫn c̣n xa.
Bằng nước mắt và sự đau nhói trong tim của một người vĩnh viễn xa quê
hương tôi kính cẩn dâng một nén hương cho nhà cách mạng Phan Bội Châu và
một nén hương cho nhà cách mạng Phan Châu Trinh đă có viễn kiến xây dựng
cho tương lai một Việt Nam Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ và Phồn Vinh.
Phạm Đ́nh Lân, F.A.B.I.