Tưởng Nhớ Vị Anh Hùng Khu Trục Cố Tr/Tá Phạm Đăng Cường
(Bên phải đứng) cố Tr/Tá khu trục Phạm Đăng Cường
Lời giới thiệu (KhongQuan2): Nhân ngày 11 tháng 3 là ngày giỗ của vị Anh
Hùng Khu Trục cố Tr/Tá Phạm Đăng Cường, sinh năm 1940 tại G̣ Công. NT
Phạm Đăng Cường thuộc ḍng dơi Phạm Đăng Hưng, một quan đại thần nhà
Nguyễn. Quê NT Cường ở G̣ Công là nơi có nhiều nhạn hiếm qúi. Bởi thế,
lấy bút hiệu “Người Nhạn Trắng”, là một trong những cây bút trụ cột của
đặc san Lư Tưởng của Hội Ái Hữu Không Quân Việt Nam tại Houston.
NT Phạm Đăng Cường gia nhập Không Quân Khóa 61 SVSQKQ, NT Cường theo học
các khóa hoa tiêu tại Naval Air Station Pensacola, Florida. Sau khi măn
khóa NT Cường về phục vụ PD514, KD23CT dưới quyền chỉ huy của Th/Tá Vơ
Xuân Lành CHT/PD514. Sau đó NT Cường về phục vụ tại Khối Đặc Trách Khu
Trục/BTLKQ lúc đó Trưởng Khối DTKT là Tr/Tá Lê Như Hoàn. Năm 1974 NT
Cường được biệt phái về Bộ Quốc Pḥng để nhận nhiệm vụ Sĩ Quan Tùy Viên
Quân Lực của VNCH. Sau đây tôi xin post bài “Người Lính Kỹ Thuật - Người
Nhạn Trắng” và h́nh ảnh của NT Phạm Đăng Cường để nhớ đến vị anh hùng
Khu Trục của Không Quân VNCH.
Người Lính Kỹ Thuật
Người Nhạn Trắng
Một toán sinh viên sĩ quan, trong đó có tôi, vui mừng, hớn hở đi làm thủ
tục xuất ngoại du học. Người th́ hănh diện ra mặt bằng lời nói; người
th́ bằng ánh mắt sáng ngời, riêng tôi cũng thích thú lắm nhưng không dám
tỏ vẻ quá vui, v́ một số bạn thân chưa được xuất ngoại, hoặc phải học
tại Việt Nam. Cầm tờ I.T.O trên tay là cầm chắc định mệnh và lẽ sống của
cả cuộc đời. Được lựa chọn một cách may rủi, đi thụ huấn ngành nào như
quan sát, trực thăng hay vận tải… là sẽ gắn liền măi măi với loại phi cơ
đó.
(Từ phải) NT Dan Hoài Bữu, NT Lê Như Hoàn, NT Phạm Đăng Cường. NT Vũ
Hiệp. NT Nguyễn Văn Phong.
Phượng Hoàng Kim Cương viết:
"khôngquân2 lấy đâu ra di tích bất hủ này của Người Anh Hùng Nhạn Trắng
G̣ Công. Thật là hay, hay vô cùng. Bài này nói lên được cái t́nh đồng
đội của người phi công khu trục, trong những lúc lâm nguy, cái t́nh cảm
gắn bó giửa Khu trục và FAC trên chiến trận, t́nh thương của người khu
trục chỉ huy đoàn kỹ thuật yểm trợ, cũng như cái trách nhiệm cao cả đối
với quân bạn dưới đất, nhất là khi trực đêm và mục tiêu rất xa xôi.
Phượng Hoàng Kim Cương xin dựa hơi vào đây cái h́nh chụp chung với người
Anh Hùng Phượng Hoàng Kaki Phạm Đăng Cường, Phượng Hoàng Rosa Lê Như
Hoàn, ở băi biển Pensacola, FL hồi 1962, trong đó người đứng giửa là Anh
Hùng Phạm Đăng Cường, qua phải là Tr/tá Lê Như Hoàn, kế đến là tôi.”
Đọc tên trường bay trong I.T.O là US Naval Air Training Command (NAS
Pensacola, FL.), chúng tôi sững sốt. Có mấy anh học trường Tây c̣n gọi
là Air Naval, nghe thật là quí phái. Nhưng, lại chữ nhưng quái ác, khi
sang đến Florida, làm thủ tục nhập trường, th́ không phải trường bay, mà
là trường quân sự với mấy anh Thủy Quân Lục Chiến, cứ làm như đă từng đổ
bộ lên bờ biển Normandie vậy. Sau khi quan sát tận mắt, không phải cái
Air Naval như trong mơ tưởng, mà thực tế là Indotrination với “menu” sơ
khởi mười ngày huấn nhục, làm các nhà quí phái “choáng váng” mặt mày.
Sau huấn nhục tới phần quân sự thật nặng nề, riêng phần ăn chơi nào là
đoạn đường chiến binh, bơi lội đủ kiểu, an sinh thoát hiểm ba ngày tự
túc trong rừng… Tất cả vị chi bốn tháng mới được chuyển qua trường bay
vỡ ḷng, với loại phi cơ T-34 sơn đỏ trắng thật đẹp mắt.
T-34C NAS Corpus Christi, Texas
Giờ đây mới được sờ vào thân phi cơ, ngửi mùi thủy điều và chạm trán với
người lính kỹ thuật. Người đầu tiên là cơ trưởng (Crew Chief), họ có vẻ
tự tin và chuyên nghiệp. Họ không sửa chữa nhưng họ hiểu biết tổng quát
về phi cơ rất tường tận. Họ ăn nói rất lễ phép và rất có kỷ luật.
Trong lần đơn phi đầu tiên, người cơ trưởng đă sẵn sàng từ pḥng kỹ
thuật, trước bảng ghi số phi cơ, để đón tiếp người sinh viên sĩ quan phi
công. Anh ta thuyết tŕnh đầy đủ về chiếc phi cơ do anh chịu trách
nhiệm. Sau khi sinh viên kư xong mẫu kỹ thuật, anh ta vội ôm hộ cái nón
bay, trong khi người sinh viên đeo dù và cùng nhau bước ra băi đậu. Anh
theo sát bên người sinh viên, để cùng tiền kiểm soát xung quanh phi cơ,
và anh vui mừng khi được sinh viên ghi điểm khen thưởng. Anh đứng ngoài
pḥng lái, nghiêng người giúp chàng phi công đội nón bay, cài dây nịt an
toàn. Cử chỉ không những chu đáo, mà c̣n như muốn bày tỏ mối dây liên hệ
t́nh cảm vô h́nh giữa hai người. Xong đâu đấy, anh xuống đứng đàng trước
phi cơ, phía bên cánh trái, ra hiệu cho người sinh viên quay máy. Sau
khi liên lạc vô tuyến với đài kiểm soát, người sinh viên phi công ra
hiệu di chuyển. Phi cơ vừa lăn bánh, anh cơ trưởng liền đứng nghiêm và
chào kính. Hai tay đều bận điều khiển cần ga và cần lái, người sinh viên
phi công chỉ gật đầu rất nhẹ để chào lại.
Đời người lính tàu bay và người lính kỹ thuật dính liền từ dạo ấy. Đặc
biệt ở VT-30, NAS Corpus Christi, ngoài người lính kỹ thuật, phi công
c̣n khắn khít với người lính cứu hỏa.
Về Việt Nam, bay phi vụ đầu tiên trên sân nhà, phi cơ sơn màu cờ Viet
Nam, đuôi sơn màu đơn vị, người phi công chợt cảm thấy bồi hồi xúc động.
Anh cơ trưởng gầy ốm xanh xao, nhưng nụ cười luôn nở trên môi và cái
chào xă giao thông lệ làm người phi công không mấy yên tâm.
Phi cơ th́ bị vá nhiều chỗ, pḥng lái th́ ướt cả thủy điều, bụng phi cơ
dính đầy dầu. Hai bánh đáp một bên vừa mới thay, một bên ṃn tới 50% làm
người phi công vừa bay vừa lo ngại. Tiếng động cơ nổ nghe khác lạ, pḥng
lái th́ xông lên mùi bất thường, nhưng ngày này qua ngày khác, vẫn không
có điều bất trắc kỹ thuật sảy ra. Người phi công dần dần thu hoạch nhiều
kinh nghiệm, với số giờ bay chồng chất theo năm tháng. Người phi công
giờ đă thấy an tâm.
Những phi vụ yểm trợ tiếp cận quân bạn chở đầy bom đạn đủ loại, từ bom
nổ, bom xăng đặc, hỏa tiễn trĩu nặng đôi cánh, nhưng hàng ngày hai, ba
phi vụ vẫn an toàn. Phi cơ có bị hư hại, bể ống dầu, ống thủy điều, lủng
cánh bể đuôi là do súng pḥng không địch gây ra.
Người phi công bắt đầu chú ư và cảm phục người cơ trưởng nhỏ con, xanh
xao từ đo. Tuy họ không chào kính ḿnh như những người lính kỹ thuật Hoa
Kỳ, nhưng trong ánh mắt họ hiện rơ nét lo âu tŕu mến cho số phận người
phi công và con tàu của họ. Họ tài t́nh, khéo léo, rất có khiếu về kỹ
thuật. Họ sửa chữa, thay động cơ và khung pḥng rất nhanh chóng, dù
phương tiện kỹ thuật cơ hữu thô sơ. Kiểm kỳ I rồi kiểm kỳ II, họ làm
việc liên miên, nhưng không bao giờ phàn nàn, hay sao lăng công việc một
cách vô trách nhiệm, để gây nguy hại đến sinh mạng người phi công.
Tôi nhớ măi một lần được biệt phái, làm biệt đội trưởng ở Tân Sơn Nhất
cho Không Đoàn 33, thời Trung Tá Lưu Kim Cương làm Tư Lệnh, tôi rất quan
tâm đến số khả dụng hành quân của 6 chiếc A-1 tăng phái. Mới hoạt động
không bao lâu th́ có một chiếc phi cơ bị hư hỏng, không biết nguyên do
v́ đâu mà cứ bị nằm ụ măi. Tôi bèn phái một chiếc AD-5 về Biên Ḥa, rước
một ông Thượng sĩ già kỹ thuật xuống giám định. Đến nơi, vừa mới vào
pḥng hành quân biệt đội, ông bắt gặp các phi công đang ngồi “binh” xập
xám chướng, ông liền sà vào ngay và c̣n xin được chơi một cửa. Tôi hết
sức bực ḿnh liền hỏi:
- Sao lại ngồi xuống đây xếp?
Ông trả lời:
- Tôi đă bảo thằng nhỏ quay máy ngoài ấy rồi!
Nghe ông già kỹ thuật trả lời khơi khơi như vậy, tôi hơi khó chịu bèn bỏ
đi ra ngoài băi đậu xem người cơ khí làm ăn ra sao? Anh cơ khí viên loay
hoay sửa tới, sửa lui một hồi vẫn không được. Chợt tôi nh́n thấy ông
Thượng sĩ già chậm răi tiến về phía phi cơ. Ông đến ra hiệu cho người cơ
khí thử đủ các cơ chế, để ông nghe tiếng động cơ nổ. Chừng năm phút, ông
ta đưa tay lên cứa cứa vào cổ ra hiệu cho người cơ khí tắt máy, xong ông
tới nói lí nhí ǵ đó với người cơ khí mà tôi không nghe rơ. Rồi ông lại
lững thững đi vào xây ṣng. Tôi hết kiên nhẫn hỏi gằn ông ta:
- Tôi rước ông xuống đây sửa phi cơ chớ bộ tôi rước ông xuống đây đánh
bài à?
Ông cười có vẻ thản nhiên như không:
- Tôi đă chỉ cách cho nó chữa rồi, Trung úy cứ yên trí vào nghỉ cho
khỏe. Nghe ông ta trả lời với vẻ tự tin, tôi cũng hơi an tâm. Tôi theo
ông ta vào ngồi chờ. Ông già c̣n mặn canh bạc lắm. Chốc chốc ông lại
đứng lên, đi ra chỉ bảo cho người cơ khí sửa chữa. Một lát sau, người cơ
trưởng nhễ nhại mồ hôi vào báo cáo:
- Thưa Trung úy, tàu sửa xong rồi. Nhờ Trung úy ra bay thử.
Tôi kinh ngạc hỏi lại:
- Giỡn hoài sao cha, cả tuần nay anh sửa không được, ông Thượng sĩ này
măi ngồi ṣng bài, chưa đụng tay vào động cơ mà sao tàu đă tốt được?
Anh ta trả lời:
- Tốt thực sự rồi Trung úy, ông già nghe máy cũng đủ biết phi cơ hư ở
đâu, thay “bu-gi” thử máy, không cần đọc phi kế phi cụ ǵ cả. Tôi đáp
“OK”. Nhưng trong bụng tự nhủ thầm rằng nếu tôi bay thử mà vẫn thấy phi
cơ hư như cũ th́ đừng có trách tôi sao làm báo cáo quá đáng. Nhưng lạ
thay, tôi bay thử trong tất cả cơ chế, cao độ, các phi kế đều chỉ trong
giới hạn an toàn. Về đáp, tôi đưa hai tay bắt tay ông già và ngỏ lời
thán phục sát đất. Tôi muốn đích thân lái máy bay đưa ông về Biên Ḥa
nhưng ông từ chối. Ông c̣n nán lại binh xập xám với mấy anh phi công trẻ
và chiều về Bien Ḥa bằng xe đ̣.
Về sau, tôi là chuyên viên bay thử kiểm kỳ II cho công xưởng. Phi cơ
A-1, sau khi bay một số ngàn giờ, phải đem vào công xưởng tháo tung ra
để rọi X-ray để t́m chổ rạn nứt hay hư hại, sửa chữa rồi ráp lại. Ngoài
ra, những phi cơ đáp khẩn cấp hay tai nạn nặng, cũng phải đem vào công
xưởng sửa chữa cẩn thận, rồi sơn lại như mới. Mỗi lần bay thử, những
người lính kỹ thuật đưa tôi ra tận phi cơ, xem tôi mở máy, di chuyển và
cất cánh được an toàn, rồi họ mới trở vào phần sở của họ. Họ thương yêu
người phi công bay thử các tác phẩm của họ. Người lính già, người lính
trẻ lo âu cho người phi công lúc cất cánh, giống như chính họ đang ngồi
trong thân tàu. Họ thở phào nhẹ nhơm khi tác phẩm của họ mang người phi
công trở về an toàn. Họ vui mừng và ghi nhận những điều c̣n thiếu sót
của họ. Họ gầy ốm, người xanh xao, người xạm nắng, chịu nhiều thiệt tḥi
và lắm khi bị bỏ quên, nhưng họ vẫn cố gắng, nhiệt tâm, chịu đựng, không
bao giờ than văn, có lẽ nhờ tấm ḷng yêu Không Quân và Tổ Quốc.
Hồi mới măn khóa bay thử và sang bay cho công xưởng, tôi đă biết người
lính kỹ thuật Không Quân Việt Nam rất giỏi, có tŕnh độ hiểu biết kỹ
thuật rất cao và họ đă chứng minh điều đó trong bao nhiêu năm trời,
nhưng tôi hơi ái ngại v́ sự làm việc quá độ của họ. Biết đâu v́ kiệt lực
mà họ vô ư bỏ sót, không vặn kỷ một vài con ốc. May mắn thay điều lo
nghĩ của tôi không bao giờ xảy ra. Họ vẫn chu toàn công tác một cách tốt
đẹp. Khi viết những ḍng này, tôi vẫn thấy thấp thoáng h́nh ảnh người kỹ
thuật Không Quân Việt Nam thân yêu của tôi đâu đó trong từng ngăn kư ức.
Không Quân trên đà bành trướng, tổng số phi cơ tăng vọt quá nhiều, mà sự
đào luyện không thể cấp bách được. Thế mà họ vẫn nhẫn nại, vừa sửa chữa
phi cơ, vừa d́u dắt những người trẻ mới bước chân vào ngưỡng cửa đơn vị.
Công xưởng Biên Ḥa về sau càng đông khách hàng. Nào phi cơ khu trục,
phi cơ quan sát, trực thăng..v..v.. Càng làm việc lâu với nhau, t́nh
thân thuộc càng nẩy nở ví như anh em sinh trưởng trong một gia đ́nh. Tôi
tin tưởng nơi người lính kỹ thuật và thích thú bay những phi vụ bay thử,
giống như bay du hành hay bay hành quân vậy.
Nói đến khu trục, tôi không quên nhắc đến các anh vũ khí. Các anh hùng
hục làm việc dưới nắng mưa không sờn ḷng. Xem các anh vận chuyển, gắn
bom nổ, bom xăng đặc hay hỏa tiễn vào phi cơ mau lẹ, chính xác không chê
vào đâu được. Tuy thân thể, sức vóc, điều kiện sinh sống không bằng
người lính Mỹ, các anh vũ khí dăi dầu sương gió, nắng mưa của vùng nhiệt
đới, mà vẫn tươi cười, ngày này qua tháng nọ giỡn mặt với tử thần “chất
nổ”. Đặc biệt toán tháo gỡ đạn dược, ḿn nổ chậm mới khủng khiếp. Chỉ
một phút sơ sẩy là đời các anh tan tành như xác pháo đêm giao thừa. Các
anh đă xem sinh mạng của ḿnh nhẹ như lông hồng, để mưu cầu sự an toàn
sinh mạng của đồng đội. Các anh cao cả quá! Dầu đất nước ngày nay đă mất
vào tay kẻ thù nhưng sao ai quên được các anh? Những người con yêu âm
thầm của xứ sở! Hỡi những người lính kỹ thuật Không Quân Việt Nam! Chúng
tôi, những người tung mây lướt gió ngoài ngàn dậm, được hưởng những hào
nhoáng thế gian, nhưng trong thâm tâm, chúng tôi không bao giờ quên được
những người bạn, người anh em, đă hằng chuyên tâm lo lắng cho sự an lành
của chúng tôi, bao nhiêu năm trường nơi chiến địa. Đặc biệt là những
người bay những phi cơ quá cũ kỹ từ thời đệ nhị thế chiến như A-1, C-47,
đầy những đắp vá khắp thân tàu, ngay cả kim loại cũng đă phải mỏi ṃn!
Giờ đây, sau mười mấy năm lưu lạc, viết vài kỷ niệm gởi đến các anh,
những người kỹ thuật Không Quân ưu tú của đất nước, như những lời tri ân
chân thành nhất.
Phạm Đăng Cường
Người Nhạn Trắng