Mưu Độc Ngàn Năm:

Nguy cơ mất nước trong thời đại mới là chuyện có thực?

 

Phạm Cao Dương

 

 

“Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po.  Một vùng như Đông-nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản... xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy…  Sau khi giành được Đông-nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây.”

“Chúng ta phải chinh phục trái đất.  Mục tiêu của chúng ta là toàn thể trái đất

 

Mao Trạch Đông

Tuyên bố trước Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 1959

Sự Thật về Quan Hệ Việt Nam-Trung Quốc Trong 30 Năm Qua.

Nhà Xuất bản Sự Thật,1979, tái bản 1980,

 

 

Trước khi vào đề: Đây là bài thứ ba trong loạt bài tác giả viết dưới nhan đề chung là “Mưu Độc Ngàn Năm” như một lời cảnh cáo về hiểm họa Bắc Phương mà tổ tiên người Việt từ thời Mã Viện non một ngàn năm trước đã phải liên tục đương đầu.  Bài thứ nhất nói về Cuộc Khởi Nghĩa của Hai Bà Trưng và chủ trương đồng hóa tiếp theo của Mã Viện với việc dựng cột đồng của viên tướng Nhà Hán này.  Bài thứ hai nói về việc Nhà Minh tịch thu sách của ta đem về Tầu nhằm tiêu diệt văn hóa của người Việt, từ đó chính dân tộc Việ Namt;  và bài thứ ba về cuộc xâm lăng vừa công khai vừa âm thầm chút một nhưng vô cùng nguy hiểm bằng những phương tiện tinh vi nhất, độc địa nhất, mới mẻ nhất hiện đang xảy ra ở ngoài Biển Đông và ở ngay trên đất liền của chính quốc Việt Nam.

 

 

          Đây là một vấn đề vô cùng rộng lớn và vô cùng phức tạp nhưng v́ giới hạn của một bài viết ngắn để bạn đọc có thể bỏ thì giờ đọc được, tôi chỉ xin đưa ra những điểm chính, đồng thời tôi sẽ không nói nhiều về Biển Đông với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Đường Lưỡi Ḅ của Trung Cộng cùng những ǵ đế quốc mới này đă và đang làm ở trong vùng biển này như thành lập Thành Phố Tam Sa, thiết lập các cơ cấu hành chánh, chánh trị, quân sự, đưa các tàu hải tuần xuống đe dọa các quốc gia liên hệ chặn bắt các tàu đánh cá của ngư dân, đặc biệt là ngư dân Việt Nam…  Lư do là v́ tất cả đă trở thành đề tài thời sự thế giới, được nói tới gần như hàng tuần và luôn cả hàng ngày trên các đài phát thanh, các đài truyền h́nh quốc tế cũng như các đài phát thanh, đài truyền h́nh của người Việt, trên các trang mạng từ nhiều năm nay và đương nhiên trong những buổi gặp gỡ giữa người Việt ở Hải Ngoại.  Ngoài ra một số sách cũng đã được soạn riêng và xuất bản về vấn đề này rồi.

 

          Tôi cũng không nói hay nói rất ít về bản “Tuyên Cáo về việc Nhà Cầm Quyền Trung Quốc Liên Tục Có Những Hành Động Gây Hấn, Xâm Phạm Nghiêm Trọng Chủ Quyền Toàn Vẹn Lănh Thổ Việt Nam Trên Biển Đông”, ngày 25 tháng 6 năm 2011 và bản “Kiến Nghị Về Bảo Vệ Và Phát Triển Đất Nước Trong T́nh H́nh Hiện Nay” của các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng ở trong nước gửi Quốc Hội Nước Cộng Hoà Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 10 tháng 7 cùng năm với nhiều kiến nghị khác mà mọi người đều biết trước là sẽ không bao giờ được trả lời hay chỉ được trả lời quanh co hay gián tiếp rồi sau đó im lặng luôn theo chiến thuật “phân trâu để lâu hóa bùn”.

 

          Tôi cũng không nói hay nói rất ít về lối trả lời gián tiếp các nhà trí thức kể trên của Đảng CSVN xuyên qua một bài báo đăng trên tờ Đại Đoàn Kết theo đó những người cầm quyền ở Việt Nam hiện tại đă tỏ ra vô cùng lúng túng trước câu hỏi về bản công hàm của Phạm Văn Đồng nhân danh Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà gửi Chu Ân Lai, Chủ Tịch Quốc Vụ Viện nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, ngày 14 tháng 9 năm 1958.  Đây là lần đầu tiên những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam, đă thừa nhận là họ đă lựa chọn nhường các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng để đổi lấy sự giúp đỡ của Trung Cộng trong cuộc xâm chiếm Miền Nam bằng vũ lực của họ sau đó.  Đây cũng là lần đầu tiên họ, những người cầm đầu Đảng Cộng Sản Việt Nam, công nhận các chính phủ Quốc Gia Việt Nam thời Quốc Gia Việt Nam với Quốc Trưởng Bảo Đại và sau đó là Việt Nam Cộng Ḥa thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là những chính phủ hợp pháp có trách vụ quản trị các quần đảo này theo Hiệp Định Genève cũng như những nỗ lực không thể chối căi mà những chính phủ quốc gia này đă làm để bảo vệ các quần đảo này trong suốt thời gian các chính phủ này tồn tại.

 

          Lư do chính yếu khiến tôi không nói hay chỉ nói rất ít về những sự kiện kể trên là v́ tất cả hiện thời đang xảy ra ở Biển Đông và các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mới chỉ là diện, là bề ngoài, là mới chỉ là bắt đầu và chưa phải là chính.  Tất cả rồi cũng sẽ được giữ nguyên trạng trong một thời gian dài và dù muốn hay không Hoàng Sa cũng đă mất rồi, c̣n Trường Sa th́ cũng mất nhiều phần, c̣n nhiều thế hệ nữa Việt Nam mới có thể lấy lại được hay có cơ hội lấy lại được.  Trung Hoa Cộng Sản trong mọi hoàn cảnh, kể cả khi Hoa Kỳ và các nước Tây Phương có những thái độ tích cực hơn, cũng đă chiếm được và giữ được những phần quan trọng kể từ sau khi họ chiếm Hoàng Sa từ trong tay Việt Nam Cộng Ḥa hồi tháng Giêng năm 1974 trong sự im lặng, đồng lơa của chính quyền Cộng Sản Hà Nội.  Cái giá để cho Đảng CSVN xâm chiếm miền Nam và thống nhất đất nước ta bằng vơ lực phải nói là quá đắt cho dân tộc Việt Nam và cho chính họ.  Đã chót cầm bút ký công hàm, đã chót giữ im lặng không phản đối đúng lúc giờ có hối hận thì đã quá muộn.

 

          Hoàng Sa, Trường Sa hay rộng hơn, Biển Đông, chỉ là những ǵ nổi bật bề ngoài, là cái diện ai cũng có thể thấy được trong tiến tŕnh mất nước của dân tộc Việt Nam đầu Thế Kỷ 21 này.  Vậy th́ mục tiêu chính để dứt điểm đất nước và dân tộc Việt Nam hay cái điểm nằm ở đâu?  Nó nằm ngay trên đất liền, trên lănh thổ của chính quốc Việt Nam trên bán đảo Đông Dương.  Nó nằm rải rác ở khắp lănh thổ nước ta chứ không riêng ở biên giới phía bắc, đành rằng ở biên giới phía bắc, người ta đă ghi nhận những sự nhổ và lui cột mốc, sự mất ba phần tư Thác Bản Giốc, những sự chiếm giữ các cao điểm có tính cách chiến lược từ trước và sau trận chiến 1979 giữa hai đảng Cộng Sản Á Châu anh em và có thể từ xa hơn nữa, từ đầu thập niên 1950, khi CSVN mở cửa biên giới phía bắc để nhận viện trợ của Trung Cộng nhằm củng cố vị thế cầm quyền, tiếp tục cuộc chiến tranh chống Pháp và gián tiếp chống lại chính quyền Quốc Gia Việt Nam lúc đó đă được thành lập bởi Cựu Hoàng Bảo Đại.  Những thắc mắc về sự mất mát này cho tới nay vẫn chưa được hoàn toàn giải tỏa dầu cho đă được nhiều người đ̣i hỏi.  Tôi sẽ nói thêm ở phần cuối về vấn đề này.  Có điều là đến giờ th́ hai bên đă kư kết những thỏa ước và những cột mốc mới đă khởi sự được “cắm” rồi.  Những điểm này tuy nhiên chỉ là ở dọc vùng biên giới. Quan trọng hơn và nguy hiểm hơn, bức thiết hơn là những điểm, mà không phải là điểm hiểu theo ư nghĩa đen của danh từ, nằm sâu ngay trong lănh thổ của tổ quốc Việt Nam, dưới quyền quản lư của chính quyền Cộng Sản hiện tại nhưng vượt ra ngoài sự kiểm soát của chính quyền này.  Những điểm vừa cố định, nằm nguyên một chỗ, vừa di động khắp nơi trên lănh thổ, điển h́nh là những mỏ bauxite trên cao nguyên, những khu rừng đầu nguồn nằm ở cửa ngơ của những vùng biên giới Việt-Trung và Lào-Việt , những khu vực trúng thầu, những địa điểm thu mua các nông sản, những vùng nông dân bỏ trồng lúa, trồng khoai, những trại nuôi cá, điển h́nh là trại nằm không xa quân cảng Cam Ranh là bao nhiêu mà các nhà cầm quyền địa phương sau cả gần chục năm không hề biết, những khu phố kiểu Đông Đô Đại Phố ở B́nh Dương … Tất cả đă trở thành những “thực dân địa”, những “colonies” của người Tầu ngay trong ḷng của lănh thổ Việt Nam, nơi những ủy ban nhân dân vẫn c̣n làm chủ.  Nói cách khác, theo lời của các tác giả của Bản “Kiến Nghị Về Bảo Vệ Và Phát Triển Đất Nước …” ngày 10 tháng 7 năm 2011 mà tôi đă dẫn trên đây th́ “…mặt trận nguy hiểm nhất đối với nước ta mà Trung Quốc muốn dồn quyền lực và ảnh hưởng để thực hiện, đó là: thâm nhập, lũng đoạn mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá của nước ta.  Đó là mặt trận vừa uy hiếp, vừa dụ dỗ nước ta nhân danh cùng nhau ǵn giữ ư thức hệ xă hội chủ nghĩa, gây chia rẽ giữa nhân dân ta và chế độ chính trị của đất nước, vừa lũng đoạn nội bộ lănh đạo nước ta, làm suy yếu khối đại đoàn kết thống nhất của dân tộc ta, làm giảm sút khả năng ǵn giữ an ninh và quốc pḥng của nước ta. Đánh thắng nước ta trên mặt trận nguy hiểm nhất này, Trung Quốc sẽ đánh thắng tất cả.”   Nói cách khác đó là chiến lược dùng quyền lực mềm thọc sâu vào lănh thổ Việt Nam để nhẹ ra là đưa Việt Nam đến chỗ phụ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc, c̣n nặng ra là chiếm luôn cả nước và tiêu diệt cả dân tộc theo lời nguyền của Mã Viện hơn một ngàn năm trước.   Đến lúc đó th́ Hoàng Sa, Trường Sa và Đường Lưỡi Ḅ đương nhiên sẽ trở thành biển đảo của Trung Quốc.

 

             Hăy tưởng tượng ngay trên Cao Nguyên Miền Nam, mái nhà của toàn xứ Đông Dương, địa điểm chiến lược quan trọng nhất đă chi phối toàn bộ an ninh của miền nam Việt Nam và sự thống nhất của lănh thổ quốc gia trong quá khứ, trong một khu vực rộng lớn, nằm ngoài sự kiểm soát của cả chính quyền trung ương lẫn chính quyền địa phương của người Việt, là một khu vực dành riêng cho người Tầu, không ai được nḥm ngó, không ai được ra vào.  Họ được tự do mang người của họ vô, mang người của họ ra, được chở đồ của họ vô, chở đồ của họ ra một cách tự do, thong thả không qua một sự kiểm soát nào.  Những người này là những người nào? những đồ này là những đồ ǵ?  Làm sao biết được, ai mà biết được… cho đến biến cố tầy trời nổ ra?   Cũng vậy, ở những khu rừng đầu nguồn và ở những địa điểm của những công tŕnh xây cất có tính cách căn bản nhằm cung cấp điện năng, khoáng sản, dầu khí…những lănh vực thuộc loại tối quan trọng liên hệ tới an ninh của quốc gia.   Nh́n vào con số 90% các “gói thầu” thuộc loại này được mở ra ở trong nước đă lọt vào tay các nhà thầu Trung Cộng.  Nhiều gói lên tới hàng tỷ Mỹ kim với những món tiền lót tay không phải là nhỏ, từ 10% đến 15% tiền thầu.  Hậu quả là những công tŕnh do họ thực hiện phần lớn có phẩm chất kém, thời gian thi công kéo dài trong khi các nhà thầu Việt Nam, v́ không đủ vốn, không đủ thế lực chỉ c̣n bất lực, đứng bên lề các đại công trường trên chính đất nước của ḿnh.  Nhưng nguy hiểm hơn hết vẫn là nạn nhân công người Tầu do chính các chủ thầu người nước họ mang sang để lao động thay v́ các nhân công bản xứ.  Ở khắp nơi, từ Quảng Ninh, Hải Pḥng, Đồ Sơn đến Ninh B́nh, Thanh Hóa, Nghệ An, đến Đà Nẵng rồi vô tới B́nh Dương và Cà Mau…chỗ nào có nhân công người Tầu đều có những khu cư xá riêng cho họ, kèm theo là các chợ búa, các cửa hàng, các trung tâm dịch vụ, các nhà nghỉ, các quán cà phê, karoke mang chữ Tàu… để phục vụ cho họ.  Người Việt Nam không riêng chỉ có thể đứng nh́n mà c̣n trở thành nạn nhân của tất cả những tệ hại do họ gây ra như ăn uống, nhậu say không trả tiền, phá phách, tiểu bậy, trêu gái, đánh lộn, kéo hàng trăm người đánh hội đồng người bản xứ khi có tranh chấp…

 

                Những người Tầu được gửi sang Việt Nam để lao động kể trên thuộc thành phần nào?  Họ có phải thuần túy là dân lao động có tay nghề hay là những quân nhân thuộc những đơn vị đặc biệt, những đặc công t́nh báo được gửi sang để thực hiện một mưu đồ hiểm độc lâu dài hơn?  Hiện tại chưa có ǵ là rơ ràng mà chỉ là ức đoán.  Có điều là họ hiện diện ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam mà các nhà cầm quyền từ trung ương đến địa phương đều đă không kiểm soát được hay cố tình làm lơ không kiểm soát.  Mặt khác, nếu nh́n vào những ǵ Trung Cộng đă làm ở Tân Cương, ở Mông Cổ và luôn cả ở Tây Tạng trong thời gian gần đây th́ không ai là không khỏi lo ngại.  Tỷ lệ số người gốc Hán ở các xứ này đă tăng gia đáng kể và sự cạnh tranh cũng như sự kỳ thị với sự thiên vị của nhà cầm quyền đă gây nên những cuộc bạo loạn trầm trọng.  Liệu Việt Nam có thể tránh khỏi t́nh trạng đang xảy ra cho các nước này hay không?  Ta không được biết, nhưng chỉ nh́n vào miền cao nguyên với các công tŕnh khai thác bauxite, với lượng nhân công gốc Tầu đông đảo, phần lớn là những thanh niên chưa có hay không có vợ, hậu quả của nạn giới hạn hai con của chính quyền Trung Cộng, người ta không thể không lo ngại cho tương lai của miền đất chiến lược quan trọng bậc nhất của đất nước Việt Nam này, miền đất mà Hoàng Đế Bảo Đại coi trọng đặc biệt với danh xưng Hoàng Triều Cương Thổ.  Những thanh niên này sẽ lấy các thiếu nữ Thượng, sẽ sinh con đẻ cái và tất cả sẽ trở thành công dân xứ Thượng.  Nếu điều này xảy ra th́ rất là êm thắm, chỉ trong ṿng hai thế hệ hay ba chục năm, chưa tới năm mươi năm, thời gian thuê các rừng đầu nguồn với giá rẻ mạt, những người Thượng gốc Tàu sẽ trở thành chủ nhân của các cao nguyên và qua một cuộc đầu phiếu êm ả và hợp pháp, miền đất rộng lớn, nhiều tài nguyên này sẽ trở thành của Tầu và biết đâu qua một tiến tŕnh tương tự toàn bộ cả nước Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh mới của nước Tầu, tỉnh Quảng Nam của Tầu, rộng trên ba trăm ngàn cây số vuông hay hơn nữa nếu bao gồm cả hai nước Lào và Căm bốt, sau hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, biên giới phía nam nước Tầu sẽ được mở rộng tới Vịnh Thái Lan về phía nam và về phía tây, tới bờ sông Cửu Long.  Đó chính là ước mơ của những người tự nhận là Đại Hán mà suốt một ngàn năm vừa qua họ không đạt được.  Điều này không phải là không thể xảy đến cho dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào và dân tộc Căm-pu-chia trong nửa thế kỷ tới. Tất cả sẽ có thể xảy ra một cách bất ngờ “trước khi người lính của chúng ta được quyền nổ súng” nói theo lời của một tướng lănh của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam trong một đoạn video được phổ biến rất rộng răi và trong một thời gian dài trước đây.  Chỉ tiếc là tính cách chính xác của đoạn video này cho tới nay chưa được phối kiểm.  Vị tướng lănh này là Trung Tướng Phạm Văn Di, Chính Ủy Quân Đoàn 7 của quân đội này.

 

          Những ǵ tôi kể ra trên đây chỉ là những ǵ dễ thấy và được nhiều người thấy.  C̣n có nhiều hiện tượng khác tiềm ẩn hơn, thâm độc hơn do người Tàu cố ư gây ra như nạn hàng hóa rẻ tiền, thiếu phẩm chất của họ tràn ngập Việt Nam trong đó có những hàng độc hại, những thực phẩm có chứa các hóa chất gây bệnh chết người hay làm hại cho sức khoẻ cho loài người nói chung mà ảnh hưởng sẽ kéo dài trong nhiều thế hệ.  Việc người Tàu xây hàng loạt nhiều đập trên thượng nguồn sông Cửu Long và sông Hồng Hà đe dọa sự an toàn và phong phú của các đồng bằng châu thổ của các sông này, từ đó đe dọa cuộc sống của nhiều chục triệu người dân ở đây cũng là những hiện tượng người ta cần chú ư. Chưa hết, chuyện Trung Cộng tung tiền ra và đứng sau hai nước ở phía tây Việt Nam là Căm Bốt và Lào cũng đă và chắc chắn sẽ c̣n gây ra rất nhiều khó khăn cho Việt Nam mà những ǵ Căm Bốt đă làm trong Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN vừa qua là một bằng cớ, y hệt những ǵ Cộng Sản Bắc Việt đă gây ra cho Việt Nam Cộng Hoà trong cuộc chiến tranh vừa qua.

 

          Trên đây mới chỉ là hiểm họa do người Tàu từ phương bắc đem tới. C̣n có những hiểm họa khác do chính những người lănh đạo ở Việt Nam hiện tại v́ tham lam, v́ tŕnh độ hiểu biết kém cỏi, v́ kiêu căng, v́ mang bệnh thành tích… đă và đang gây ra cho chính dân tộc ḿnh. Tôi muốn nói tới việc xây dựng bừa băi và cẩu thả các đập thủy điện ở khắp nơi mà Sông Tranh 2 chỉ là một trường hợp điển h́nh.  Nguy hiểm hơn nữa là dự án xây dựng các nhà máy phát điện hạch tâm, khởi đầu là ở Phan Rang, bất chấp những kinh nghiệm khủng khiếp của người Nga ở Chernobyl, người Nhật ở Fukushima hay những sự thận trọng của người Pháp, người Đức, người Mỹ khi những người này quyết định cho đóng cửa hay ngưng hoạt động các ḷ điện này ở nước họ.  Nga, Nhật, Mỹ, Pháp, Đức… là những nước giàu có, tiền bạc nhiều, lại có những nền khoa học và kỹ nghệ cao, những chuyên viên giỏi, những người thợ có kinh nghiệm và vững tay nghề mà c̣n thận trọng tối đa như vậy, c̣n Việt Nam ḿnh th́ mặc dầu c̣n kém cỏi về đủ mọi mặt nhưng đă bất chấp tất cả.  Người ta đă không đếm xỉa ǵ đến sự cảnh cáo của dư luận quốc tế cũng như quốc nội, Giáo Sư Phạm Duy Hiển ở trong nước, Giáo Sư Nguyễn Khắc Nhẫn ở bên Pháp, những chuyên viên thượng thặng của người Việt đă hết lời can ngăn và đă viết nhiều bài điều trần với những lời lẽ vô cùng thống thiết nhưng không ai để mắt, để tai tới…cho đến khi đại họa xảy ra th́ mọi sự đă quá muộn.  Nên nhớ là với Fukushima, người Nhật chỉ riêng để làm sạch miền biển liên hệ đă phải bỏ ra nhiều tiền bạc, công sức và dự trù sẽ phải để ra bốn mươi năm mới thực hiện nổi. Tham nhũng và nhất là bệnh thành tích phải chăng là nguồn gốc của đại nạn này?  Việt Nam phải là nhất, là cái ǵ cũng có, nhất là ở thời đại Hồ Chí Minh, Đỉnh Cao Của Trí Tuệ Loài Người.  Cuối cùng chỉ tội nghiệp cho người Chàm v́ địa điểm thiết lập những nhà máy này chỉ cách Tháp Chàm có năm cây số.  Nếu chuyện ǵ xảy ra, con số hơn một trăm ngàn người c̣n sót lại của một dân tộc đă một thời hùng cứ ở miền trung và miền nam Trung Phần Việt Nam, có thời đă đánh bại người Việt, tràn ngập kinh đô Thăng Long, với một nền văn hoá giàu về h́nh tượng, nơi xuất thân của nhiều ca nhạc sĩ gốc Chàm sẽ một lần nữa bị tiêu diệt và lần này chắc chắn là lần chót.  Nên biết thêm là có một thời nhà cầm quyền ở Việt Nam đã dự trù sẽ thiết lập tổng cộng từ 8 đến 10 nhà máy điện hạch tâm, phần lớn là ở miền Trung mà Phan Rang chỉ là khởi đầu với 2 nhà, mỗi nhà 2 ḷ.  Tất cả đều là mua của Nhật, Nga và luôn cả Đại Hàn sau các cuộc thăm viếng của các nhà lănh đạo Đảng và Chính Phủ.  Họ viện cớ là các nhà sản xuất đều nói là các ḷ họ làm là an toàn một trăm phần trăm nhưng ai mà tin được những kẻ ở giữa ăn huê hồng từ những hợp đồng tính từ 3 tỷ, 5 tỷ, 10 tỷ Mỹ Kim trở lên.  Nếu chẳng may những vụ rò rỉ hay phát nổ của các ḷ xảy ra như ở Chernobyl hay Fukushima th́ một phần ba dân số cả nước, phần ba dân số vốn bị coi là có quê hương  đất mặn đồng chua”, là “đất cày lên sỏi đá”, là “nghèo lắm ai ơi” với “mùa đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn”, nơi “Trời làm cơn lụt mỗi năm, khiến đau thương lan tràn, ngập Thuận An…”, bây giờ lại bị đe dọa có thêm một đại nạn mới do chính các nhà lănh đạo của nước ḿnh  gây ra treo sẵn trên đầu.  Cũng may là dự án Phan Rang đã tạm thời được hoãn lại.   Nhưng vụ Formosa lại bùng nổ và đã gây tai họa với nạn ô nhiễm môi trường và cá chết khủng khiếp ở Vũng Áng thuộc tỉnh Quảng Trị.  Tiếp theo là các đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc được dự trù cho thuê tới 99 năm và có thể còn nhiều vụ tương tự khác nữa đã đang và sẽ được thực thi mà người ta không được biết.

 

          Trên đây chỉ là một số những ǵ đă và đang xảy ra trên đất nước Việt Nam của chúng ta mà mọi nguời ít nhiều c̣n quan tâm tới quê hương của ḿnh, của ông cha ḿnh đều nhận thấy. C̣n rất nhiều chuyện khác lớn hơn, quan trọng hơn và có tính cách chiến lược hơn, thâm độc hơn như sự lệ thuộc về chính trị, về kinh tế và luôn cả về văn hóa của Việt Nam vào Trung Quốc, nhất là việc cấm đoán người dân không được tỏ thái độ dù cho chỉ là để bày tỏ ḷng yêu nước của ḿnh, bị giam cầm, bắt bớ hành hạ, không cho họ biết tới những ǵ đă thực sự xảy ra liên hệ tới sự thịnh suy, tồn vong của quê hương và dân tộc họ.  Đa số người dân đều không được biết không cần biết nên đa số đều dửng dưng, nếu không nói là vô cảm, song song với sự suy đốn trầm trọng trong sinh hoạt của giới trẻ, với nạn ăn chơi bừa bãi, cuồng nhiệt, đến độ tự thoát y giữa đường phố để mừng chiến thắng thể thao.  Tệ hơn nữa là nạn suy đồi đạo đức xã hội, nhất là bạo lực và lạm dụng tình dục ngay trong học đường.  Khả năng đề kháng truyền thống ngàn năm của người Việt trong hoàn cảnh này làm sao có thể tồn tại được.  Nhiều người đă ví giai đoạn mất nước và luôn cả diệt vong của dân tộc Việt Nam như một người đang hấp hối với cái chết từ bàn chân đă lên tới đầu gối và đang từ từ lên dần cho đến khi miếng bông đặt trên mũi đương sự không c̣n chuyển động nữa.   

 

          Câu hỏi được đặt ra là những người đang lănh đạo đất nước ta hiện tại có biết rằng, như một truyền thống hay một mưu độc ngàn năm, Đảng Cộng Sản Trung Quốc hay ít ra là những người lănh đạo của đảng này ngay từ những ngày đầu đă nuôi mộng làm chủ thiên hạ giống như Tần Thủy Hoàng ngày trước hay không?  Hay là họ vẫn tin tưởng vào “mười sáu chữ vàng” và “bốn tốt” mà Cộng Sản Tàu đă tặng họ để tự lừa dối và lừa dối dân ḿnh?  Câu trả lời là có.  Bằng cớ là năm 1979, khi hai đảng cơm không lành, canh không ngọt, môi không theo răng bị răng cắn bật máu.  Chính Đảng Cộng Sản Việt Nam không những chỉ tố cáo trước người dân ở trong nước mà c̣n trước dư luận thế giới qua những tài liệu do chính họ xuất bản từ Hà Nội, theo đó Mao Trạch Đông ngay từ giữa thập niên ba mươi của thế kỷ trước đă nuôi mộng theo chân Tần Thủy Hoàng muốn làm bá chủ của cả thế giới, bắt đầu là Đông Nam Á.  Trong hai tài liệu nhan đề  Sự Thật về Quan Hệ Việt Nam-Trung Quốc Trong 30 Năm Qua bằng tiếng Việt do Nhà Xuất bản Sự Thật ấn hành năm 1979 và tái bản năm 1980,Chinese Aggression Against Vietnam, Dossier do Vietnam Courrier chủ biên, xuất bản ỏ Hà Nội năm 1979, ngay từ những trang đầu, người ta có thể đọc được những chi tiết như sau:

 

Ngay từ năm 1939, trong tài liệu nhan đề Cách Mạng Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Trung Quốc do chính ông viết, Mao Trạch Đông đă nhận định: “Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đă cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận lănh thổ của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận, Anh chiếm Miến Điện, Bu-tan, Nê-pan và Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…”  Tiếp đến, một bản đồ trong một sách giáo khoa đă vẽ nhiều lănh thổ của các nước trong vùng biển Đông Nam Á và Biển Hoa Đông là thuộc Trung Hoa.  Sau đó, năm 1959, trong một buổi họp của Ủy Ban Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, khi nói về bang giao quốc tế, Mao Trạch Đông phát biểu rơ hơn nữa về tham vọng thống trị toàn cầu của ḿnh.  Lănh tụ này nói: “Chúng ta phải chinh phục trái đất. Mục tiêu của chúng ta là toàn thể trái đất”  hay hạn hẹp hơn và kế hoạch hơn: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái lan, Miến Điện, Ma-lai-xi-a và Xin-ga-po. Một vùng như Đông-nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản... xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy…  Sau khi giành được Đông-nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió đông sẽ thổi bạt gió tây.”  Nên để ý là khi nói tới Việt Nam, Mao Trạch Đông đã nói tới “nam Việt Nam” thay vì “Việt Nam” gồm cả Bắc và Nam. Phải chăng ông đã coi Bắc Việt Nam là xong rồi, là thuộc Trung Quốc rồi, không cần phải nói tới nữa?  Ngoài ra, phải chăng  đây cũng là một hình thức rửa mối nhục chung mà không ít người Tầu cho là họ đã phải gánh chịu trong Thế Kỷ 19, sau trận Chiến Tranh Nha Phiến: “Gió đông sẽ thổi bạt gió tây”?

 

          Về sự lấn chiếm lănh thổ Việt Nam ở biên giới Trung Việt, qua tài liệu Chinese Aggression Angainst  Vietnam , Cộng Sản Hà Nội tố cáo Trung Quốc vi phạm các Công Ước 1887 và 1895 kư kết giữa Nhà Thanh và nước Pháp, lấn chiếm 60 địa điểm trên lănh thổ Việt Nam ngay từ trước năm 1949, sau đó, từ sau năm 1949, bất chấp sự xác nhận lại các công ước này bởi Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Quốc và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà vào năm 1957-1958, Cộng Sản Bắc Kinh lại sáp nhập thêm trên 90 địa điểm khác ở biên giới giữa hai nước.  Chưa hết, cũng theo tài liệu này, từ sau năm 1974 con số các cuộc xâm nhập lại tiếp tục gia tăng mạnh mẽ hơn với 179 vụ năm 1974, 294 vụ năm 1975, 812 vụ năm 1976, 873 vụ năm 1977 và 2.175 vụ năm 1978.  Cuối cùng ngày 10 tháng 2 năm 1979, hai tiểu đoàn chính quy Trung Cộng đă tiến sâu 2 cây số vào lănh thổ Việt Nam, chiếm đồn kiểm soát Thanh Loa, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.  Vẫn chưa hết, trong trận chiến biên giới Hoa Việt lần thứ hai 1984-1987, sau một trận đánh ác liệt ở núi Lăo Sơn, mà người Việt quen gọi là Núi Đất hay tọa điểm 1502, thuộc xă Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, quân Trung Cộng đă chiếm được núi này, 3.700 lính pḥng thủ Việt Nam đă hoàn toàn bị tiêu diệt, xác của họ đă bị đơn vị chống hóa chất của bên địch thiêu hủy không c̣n vết tích.  Lăo Sơn không phải là tọa điểm duy nhất bị quân Trung Cộng đoạt mà c̣n nhiều tọa điểm khác như các tọa điểm 1030, 852, 211, 138, 156, 166, 167, 168… nằm sâu trong lănh thổ Việt Nam. Sau trận này Việt Nam đă mất thêm từ 600 đếm 1000 cây số vuông lănh thổ về tay Trung Quốc.  Có điều lănh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam đă giấu nhẹm không cho dân chúng biết ǵ về trận chiến bi thảm này cho măi đến khi Trung Cộng phổ biến phần nào trên các mạng của họ.  Điều nên biết là trong thời gian này Trung Cộng luôn luôn dùng thủ đoạn cho di dân của ḿnh sang khai thác đất đai hay cư ngụ trên lănh thổ thuộc Việt Nam dọc biên giới, rồi sau đó áp lực bắt Việt Nam phải công nhận những vùng đất này là thuộc nước họ.  Sự kiện này giải thích tại sao lại có chuyện điều đ́nh và sửa lại các công ước mà trước kia Nhà Thanh đă kư với Pháp mà nội dung đă được hai phía làm sáng tỏ không lâu, trong các năm 1957, 1958 trước đó, như tôi đă nói ở trên qua các hiệp ước 1999, 2000.  Chiến thuật này đang được họ dùng ở Biển Đông trên một quy mô rộng răi hơn, lớn hơn qua việc họ chiếm Hoàng Sa và một số đảo thuộc Quần Đảo Trường Sa rồi t́m cách hợp thức hóa sau này.  Việt Nam giấu nhẹm nhưng Trung Cộng th́ coi là quan trọng và quảng bá rộng răi.  Họ đă cho công bố h́nh ảnh Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương tới thăm địa điểm Lăo Sơn này, kèm theo h́nh ảnh những công sự và đường sá mà họ thiết lập sau đó, nhắm về phía Việt Nam.  Những sự kiện này khiến cho những ai quan tâm đến sự sống c̣n của đất nước không khỏi không liên tưởng tới sự kiện Giang Trạch Dân đă bay thẳng từ Trung Quốc đến bơi ở biển Mỹ Khê, Đà Nẵng, mà người Mỹ, không rõ do lý do bí mật gì hay không, đã gọi là China Beach, như là biển nhà của ḿnh thay v́ phải qua Hà Nội gặp chủ nhà trước, hay Hồ Cẩm Đào đến bơi ở biển Hội An khi đến dự Hội Nghị OPEC, hay chuyện Đảng Cộng Sản Việt Nam cho phép và bảo vệ các thanh niên người Hoa rước đuốc thế vận qua Saigon và các đảo trong khi mọi cuộc tụ tập của người Việt đều bị đàn áp, cấm đoán.

 

          Trước t́nh trạng cực kỳ nguy hiểm kể trên, câu hỏi được đặt ra là khả năng đề kháng của người Việt Nam như thế nào và những người có trách nhiệm bảo vệ đất nước và sự tồn vong của dân tộc đă có thái độ ra sao và đă làm ǵ?  Để trả lời cho câu hỏi này, có lẽ chúng ta c̣n cần phải tìm hiểu và bàn thảo nhiều hơn nữa.  Có điều chắc chắn là các nhà nghiên cứu ở trong nước hiện không được tự do tìm hiểu và không được tự do tiếp xúc với các tài liệu bị coi là bí mật quốc gia còn tàng trữ ở Kho Lưu Trữ Trung Ương hay ở rải rắc khắp trong nước, và tự do công bố những gì mình tìm được.  Tạm thời tôi chỉ xin mời quư vị đọc lại bản kiến nghị mà tôi đă đề cập đến trong phần đầu của bài viết này, hay những bức thư mà Ḥa Thượng Thích Quảng Độ, hay những bài viết của nhiều vị nhân sĩ, trí thức như Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Cựu Đại Sứ Việt Nam ở Trung Quốc và nhiều người khác ở trong nước viết trong ít năm gần đây.  Trước khi dừng bút, tôi xin được trích dẫn lời của Thiếu Tướng Lê Duy Mật, nguyên Phó Tư Lệnh kiêm Tham Mưu Trưởng Quân Khu 2, Chỉ Huy Trưởng Mặt Trận Hà Giang trong thời gian chiến tranh biên giới, khi ông trả lời Biên Tập Viên Mặc Lâm của Đài Á Châu Tự Do, RFA, ngày 17 tháng 2 năm 2013 về sự kiện là “nhiều gia đ́nh liệt sĩ của cuộc chiến 1979 đă không biết hài cốt con em ḿnh nằm tại đâu v́ sau đợt cắm mốc biên giới th́ phần đất Việt Nam chôn hài cốt liệt sĩ đă thụt sâu về phía Trung Quốc.  Thiếu Tưóng có nghĩ rằng nhà nước phải làm một điều ǵ đó để mang lại công bằng cho những người này hay không?”  Nguyên văn câu trả lời của Tướng Lê Duy Mật như sau:

 

Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói ǵ với Trung Quốc, nếu không phải bàn với ngoại giao Trung Quốc, quân đội Trung Quốc, nhà nước Trung Quốc th́ mới có thể giải quyết được.”

 

          Câu trả lời của Tướng Mật chủ yếu là về các liệt sĩ đă hy sinh trong trận chiến Việt Trung 1979 và 1984-1987, nhưng nội dung của nó đă bao gồm toàn bộ các vấn đề liên hệ đến bang giao Trung-Việt trong hiện tại.  Nhà nước ta lệ thuộc không dám nói ǵ với Trung Quốc” là nguồn gốc của tất cả.  Đó là lư do tôi lựa chọn đề tài này cho bài thứ ba và cũng là bài chót trong loạt bài nói về “Mưu Độc Ngàn Năm” của người Tầu nhằm tiêu diệt đất nước và dân tộc Việt Nam, chưa kể tới t́nh trạng vô cảm của không ít người Việt trước hiện t́nh vô cùng nguy hiểm của đất nước, sự mất tin tưởng của đa số người dân và sự bất lực của giới trí thức và sự bất cập không đối phó được với t́nh thế mới trong mọi sinh hoạt từ chính trị đến kinh tế, xă hội và luôn cả văn hóa ở Việt Nam sau 44 năm Cộng Sản làm chủ toàn thể đất nước, trên 30 năm đổi mới.  Lănh đạo cấp cao của hai đảng Cộng Sản đă thỏa hiệp với nhau những ǵ trên đầu người dân Việt Nam từ sau Cuộc Chiến Biên Giới Trung-Việt, từ sau Hội Nghị Thành Đô 1990, từ sau những buổi gặp gỡ của Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và sau này Nguyễn Phú Trọng và Trương Tấn Sang với các nhà lănh đạo Trung Quốc?  Chỉ có những người này mới biết được nhưng không bao giờ và sẽ chẳng bao giờ họ nói ra cả.  Tất cả đối với họ đều không quan trọng.  Sự tồn vong của Đảng Cộng Sản mới là chính.  Đó là một sự thực.  Về điểm này, tôi xin được nhắc lại lời Vua Lê Thánh Tông dụ bọn các ông Thái Bảo Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy năm Hồng Đức thứ tư, 1473, nguyên văn như sau:

 

               Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, c̣n có thể sai sứ sang phương Bắc tŕnh bày rơ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc, th́ tội phải tru di.”

 

          Lịch sử đă được chép, đang được chép và sẽ c̣n được chép dù cho môn sử học, v́ lư do nào đó, trái với truyền thống của dân tộc, trái ngay cả với nhận định “dân ta phải biết sử ta” của Hồ Chí Minh và ngược lại với chương tŕnh giáo dục của bất cứ quốc gia độc lập và có chủ quyền nào, kể cả các quốc gia tiền tiến về khoa học và kỹ thuật, không c̣n được coi là quan trọng trong chương tŕnh giáo dục của Việt Nam hiện tại.  Đây cũng là một lư do khác đă và đang làm cho chúng ta mất nước. 

 

          Để kết luận ta có thể nói rằng những gì đang xảy ra trên lãnh  thổ Việt Nam dưới sự cai trị của người Cộng Sản hoàn toàn trái với thời người Việt Quốc Gia trước đó.  Với Người Việt Quốc Gia dù là ở bất cứ thời nào, từ  thời các vua chúa đến thời Chính Phủ Trần Trọng Kim hồi năm 1945, rồi xuyên qua Quốc Gia Việt Nam hồi trước năm 1954, gọi chung là Quốc Gia-Việt Nam Cộng Hòa, dùng chữ của Nhà Văn Hoàng Hải Thủy, qua Hội Nghị Cựu Kim Sơn, rồi Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hòa ở Miền Nam, sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc luôn luôn được coi là tối quan trọng và mọi người phải có nhiệm vụ bảo toàn.  Lịch sử đã chứng minh điều này.

 

          Có điều một nhận định khác chúng ta cũng cần phải chú ý là rất có thể người Tầu sẽ  không cần phải xâm chiếm Việt Nam mà qua một nhóm bù nhìn chỉ cần dìm Việt Nam xuống hàng thứ yếu để một mặt trở thành một thứ bán thuộc địa để dễ khai thác, mặt khác không bao giờ còn có thể tiếp tục làm nút chặn ngăn cản sự bành trướng của Hán Tộc về phương nam mà Tộc Việt đã làm được trong suốt thiên niên kỷ trước.

 

 

Phạm Cao Dương

Kỷ Niệm Quốc Hận 30/4/2019

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính