THÀNH LẬP HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG H̉A
Nguyễn Văn Ơn
Những nhà nghiên-cứu hải-sử có mặt tại khúc-quanh lịch-sử Việt-Nam, ngày
30 tháng 4 năm 1975, đều thừa nhận mặc dù đột-ngột tan hàng, song Hải-quân
VNCH đă thực hiện trọn vẹn sứ mạng của Tổ Quốc Việt Nam giao phó bảo vệ tự
do cho dân tộc trong suốt quá tŕnh ngăn chận làn sóng đỏ do Đảng Cộng sản
VN phát động thành một cuộc chiến nghiệt ngă "huynh đệ tương tàn". Suốt
quá tŕnh 23 năm bảo vệ nước, căn-cứ vào những mốc thời gian quan-trọng
th́ thành-quả đạt được của quân-chủng có trhể chia làm 3 giai-đoạn;
đặc-biệt chú-trọng đến sự lớn mạnh của Giang-lực và Duyên-lực:
· Giai-đoạn khó-khăn h́nh-thành.
· Giai-đoạn chậm-chạp phát-triển.
· Giai-đoạn nhanh-chóng bành-trướng.
1- GIAI-ĐOẠN KHÓ-KHĂN H̀NH-THÀNH (1952-1957)
Ngày lịch-sử đau buồn mùng 1 tháng 9 năm 1858 cũng là ngày đánh dấu
khởi-điểm suy-tàn của triều-đại Nhà Nguyễn, khi Đề-đốc (Hải-quân
Thiếu-tướng) Charles Rigault de genouilly (1) chỉ-huy 2500 lính viễn-chinh
Pháp và 1000 lính thuộc-địa Tây-Ban-Nha với 14 chiến-hạm vào cửa Đà-Nẳng
bắn ch́m các chiến-thuyền Việt-Nam, chiếm các pháo-đài bán-đảo Sơn-Trà rồi
giao cho Hải-quân Đại–tá Toyon trấn giữ. Đến ngày 11 tháng 2 năm 1859, De
Genouilly lại dẫn các chiến-hạm trên vô cửa Cần-Giờ đánh tan các
chiến-thuyền và đồn-bót do Đề-Đốc Trần-Trí đang tổ-chức pḥng-thủ tại vịnh
Gành-Rái. Thừa thắng tiến lên thượng nguồn, ngày 18 tháng 2 năm 1859, quân
Pháp lại tấn-công đổ-bộ qui-mô từ bờ sông vào thành Gia-Định. Thành vở,
Án-sát Lê-Tứ và Hộ-Đốc Vũ-Duy-Ninh đều tuẫn-tiết. C̣n lại Đề-Đốc Trần-Trí,
Bố-Chánh Vũ-Trực cùng Lănh-Binh Tôn-Thất-Năng rút tàn quân về cố-thủ huyện
B́nh-Long.
Vào giữa thế-kỷ thứ 19, hạm-đội Pháp được các sử-gia Tây-phương đánh-giá
là hạm-đội tối-tân nhất trong các cường-quốc hải-quân Châu-Âu đang săn t́m
thuộc-địa. Các chiến-thuyền lỗi thời của thủy-quân Triều Nguyễn hành-thủy
từ những năm vua Gia-Long phục-quốc thống-nhất sơn-hà 1802, nên không đủ
khả-năng đương cự lại.
Qua hai trận thủy-chiến mà tương quan kỹ-thuật tác-chiến quá chênh-lệch
như vậy thành ra quân ta thất trận hoàn-toàn và thủy-quân triều Nguyễn coi
như thật sự bị xoá sổ từ đây, dù rằng dưới triều vua Tự-Đức việc
huấn-luyện thủy-quân rất được chú-trọng đến.
Giở lại những trang quân-sử thành-lập Quân-lực VNCH (2), nếu gác bỏ ra
ngoài những tai-tiếng không tốt mà đối-phương đă tuyên-truyền về nếp sống
xa-hoa của cựu-hoàng Bảo-Đại lưu-vong, người đọc sẽ thông-cảm được
quyết–tâm cao tạo-dựng một quốc-gia Việt-Nam (QGVN) độc lập, qua quyển CON
RỒNG VIỆT NAM, của vị vua cuối-cùng triều-đại nhà Nguyễn.

Hoàng Đế Bảo Đại
Trải qua nhiều giai-đoạn thương-thuyết rất cam go với chính-quyền thực-dân
Pháp, cựu-hoàng Bảo-Đại hết sức kiên-nhẩn với tập-đoàn thống-trị để họ
chấp nhận một nước Việt-Nam độc-lập trong Liên-hiệp Pháp được h́nh thành.
Ngày mùng 5 tháng 6 năm 1948, hiệp-định sơ-bộ Vịnh Hạ-Long (dẫn đến
hiệp-định Elysée sau này) kư-kết giữa Toàn-quyền Đông-Dương Emile Bollaert
và Thủ-tướng lâm thời Nguyễn-Văn-Xuân có cựu-hoàng phó-thự (countersign)
trên chiến-hạm Duguay Trouin thừa nhận nguyên-tắc độc-lập và thống-nhất
của nước Việt-Nam với Quốc-kỳ: Cờ màu vàng 3 sọc đỏ và Quốc-ca: Thanh-niên
hành-khúc của Lưu-Hữu-Phước. (3).
Nhưng rồi Quốc-hội Pháp cứ làm ngơ, viện cớ chưa t́m được qui-chế
thích-hợp cho Nam-Kỳ, măi đến ngày 8 tháng 3 năm 1949 mới thuận cho
Tổng-thống Pháp Vincent Auriol và cựu-hoàng Bảo-Đại chính thức kư
hiệp-định Elysée chấp nhận nước Việt-Nam độc-lập trong khối Liên-hiệp-Pháp
có tổ-chức hành-chánh riêng, tài-chánh riêng, tư-pháp riêng, quân-đội
riêng và Pháp sẽ ủng-hộ Việt-Nam gia-nhập Liên-Hiệp-Quốc (4).
Như vậy, cực chẵng đă chánh-phủ Pháp đành phải trao-trả nền độc-lập,
thống-nhất và toàn-vẹn lănh-thổ cho vị nguyên-thủ của nước Việt-Nam là
Quốc-trưởng Bảo-Đại. Dĩ-nhiên hiệp-định này đi ngược lại quyền-lợi của
nước Pháp, v́ thực-dân Pháp chỉ muốn cai-trị nước ta như trước kia mà
thôi.

Jean De Lattre de Tassigny
Thực-thi hiệp-định Elysée, thỏa-ước quân-sự Pháp-Việt ngày 30 tháng 12 năm
1949 về Hải-quân lại bị tŕ-trệ kéo dài đến giữa năm 1951, Đô-Đốc Ortoli,
Tư-Lệnh Hải-quân Pháp ở Viễn-Đông mới được lệnh lập kế-hoạch huấn-luyện
quân-sự để chuyễn-giao đầu-tiên 2 Hải-Đoàn Xung-Phong cho Hải-quân
Việt-Nam. Chương-tŕnh chuyễn-giao các Trục-Lôi-hạm(YMS),
Giang-pháo-hạm(LSIL). Trợ-chiến-hạm(LSSL)... sẽ tiến-hành vào những năm kế
tiếp. Nhưng khi nắm quyền Tổng-chỉ-huy hành-chánh lẫn quân-sự tại
Đông-Dương, Thống-Tướng Jean de Lattre de Tassigny (5) muốn Hải-quân
Việt-Nam hoàn-toàn thống thuộc mọi mặt vào lục-quân Pháp, chứ không phải
là một quân-chủng riêng như Đô-Đốc Ortoli đă đề-nghị. Viên tướng 5 sao này
cho rằng một quân-chủng kỷ-thuật như Hải-quân không thể nào đứng vững được
v́ thiếu cán-bộ và chiến-cụ.
Ngày 15 tháng 8 năm 1951, Pháp đồng ư cho tuyển-mộ khóa 1 Sỉ-quan Hải-quân
gồm 9 sinh-viên - 6 theo ngành chỉ-huy và 3 theo ngành cơ-khí - phần đông
là cựu-sinh-viên trường Thủy-Văn Sài G̣n (Saigon Hydrography School); khóa
Hạ-sĩ-quan có 50 và Đoàn-viên là 300.
C̣n về phía Chính-Phủ Quốc-Gia Việt-Nam, dù bị chèn-ép mọi mặt,
Quốc-trưởng Bảo-Đại vẫn kiên-tŕ tranh-thủ xây-dựng nền-tảng bắt đầu từ
con số không cho Quân-Đội Quốc-Gia.
Kể từ sau ngày 24 tháng 8 năm 1945 bị Hồ-Chí-Minh ép-buộc thoái-vị phải
trao kiếm vàng cùng ấn ngọc cho đại-diện Việt-Minh Cộng-Sản là
Trần-Huy-Liệu và Cù-Huy-Cận tại Ngọ-Môn Huế, cựu-hoàng hết sức thấm-thía
về việc hoàng-triều không có một quân-đội đủ mạnh để dẹp bỏ Việt-Minh
Cộng-Sản trước rồi sau đó đẩy lui Phú-Lang-Sa và bảo-vệ chủ-quyền Quốc-gia
trường-tồn. Cho nên trong thông-điệp ngày 15 tháng 5 năm 1948 gửi cho
Thiếu-Tướng Nguyễn-Văn-Xuân, cựu-hoàng tán-thành đề-nghị thành-lập
Chính-Phủ Trung-Ương Lâm-Thời và giao cho Quốc-Vụ-Khanh kiêm Tổng-trấn
Trung-phần (sau này đổi tên là Thủ-hiến Trung-Việt) Phan-Văn-Giáo (6)
trọng-trách xây-dựng một Quân-Đội Quốc-Gia Việt-Nam gồm đủ cả Hải, Lục và
Không-quân. Cho đến năm 1949, Tổng-trấn Trung-phần Phan-Văn Giáo đă
thành-công trong công-tác tuyển-mộ và huấn-luyện cho tổ-chức
Việt-Binh-Đoàn tại Huế. Sau hiệp-định Elysée, lần-lượt Vệ-Binh Nam-Phần và
Bảo-Chính-Đoàn Bắc-Phần cũng được thành-lập vào giữa năm 1950. Chính những
đơn vị này là hạt-nhân cơ-bản cho tổ-chức quân-đội chính-qui QGVN (The
Vietnamese National Army) ra đời ngày 30 tháng 1 năm 1951 (Dụ số
1-0D/VOP/DQT/TS) kèm theo 2 sắc-lệnh cùng ngày (7).
Sinh sau đẻ muộn hơn 2 quân-chủng Lục và Không-quân v́ nghị-định thành-lập
Hải-quân bị đ́nh-hoăn nhiều lần. Nhưng rồi do nhu-cầu chiến-cuộc, dụ số 2
đă cho phép Hải-quân ra đời ngày 6 tháng 3 năm 1952, hồi-tố đến ngày 1
tháng 1 năm 1952. Vào thời điểm này, muốn thành-lập một quân-chủng
kỷ-thuật như Hải-quân mà không có một đội ngũ cán-bộ chuyên-nghiệp giỏi,
không có các phương-tiện huấn-luyện nhân-sự quả là một điều không tưởng.
Không c̣n cách nào tốt hơn để đốt giai-đoạn, ngoại trừ Chính-phủ QGVN dựa
vào những cơ-sở huấn-luyện có sẳn của Hải-quân Pháp để đào-tạo nhân-viên
tân-tuyển của ḿnh.
Cho nên trong khoảng thời-gian từ năm 1951 đến năm 1953, hầu hết Sĩ-quan,
Hạ-sĩ-quan và Đoàn-viên tiên-khởi của Hải-quân Việt-Nam phải theo thực-tập
(On the job training) trên các chiến-hạm, chiến-đỉnh của Hải-quân Pháp
đang hoạt-động ngoài biển cũng như trong sông.
Có thể nói những người t́nh-nguyện gia-nhập vào hàng ngũ Hải-quân Việt-Nam
trong hoàn-cảnh quá khó-khăn như vậy là những thanh-niên quyết-tâm bảo-vệ
quốc-gia và ôm-ấo mộng hải-hồ. Với tinh-thần yêu nươc cao độ, nhẫn-nhịn
chịu đựng tập-luyện vượt qua nhiều giai-đoạn cực-khổ, cuối cùng họ đă
chứng-tỏ được khả-năng hoàn-hảo về kỹ-thuật, hành-thủy và tác-chiến để
xứng-đáng nhận lănh đầu tiên 2 Hải-Đoàn Xung-Phong Cần-Thơ và Vĩnh-Long
vào giữa năm 1953 (8). Thái-độ đối-xử ḥa-nhă cùng nhiệt-t́nh làm việc của
tân thủy-thủ-đoàn Việt-Nam khiến cho một số Sĩ-quan và Hạ-sĩ-quan Pháp
quên đi nỗi bất-b́nh về lá cờ màu vàng 3 sọc đỏ đang phất-phới bay trên
các chiến-đỉnh của họ mà họ c̣n nán lại phục-vụ trong những ngày chót
trước khi lên đường về nước.
Giờ đây, Hải-Quân Việt-Nam là một thực-thể trong ước-mơ của những chàng
trai-trẻ ham ra khơi, thích lướt sóng; nhất là viễn-dương xuất-ngoại
du-học. Họ đă tạo được niềm-tin vững-mạnh cho Thủ-Tướng
Ngô-Đ́nh-Diệm ban nghị-định ngày 20 tháng 8 năm 1955 thành-lập Bộ Tư-Lệnh
Hải-Quân (BTL/HQ) và chính-thức bổ-nhiệm HQ/Thiếu tá Lê-Quang-Mỹ vào
chức-vụ Tư-lệnh Hải-quân kiêm chỉ-huy-trưởng đoàn Thủy-quân-lục-chiến.
Riêng Hải-Đoàn 2 Xung-Phong (Dinassault N0 2) được tướng
De-Lattre) ra lệnh thành-lập từ đầu tháng 2 năm 1951 theo nhu-cầu
cuộc-chiến tại miền Trung-châu Bắc-việt vẫn trực-thuộc Bộ Chỉ-Huy
Giang-Lực của Pháp (COFFLUSIC) và sát-nhập vào Hải-Đoàn 21 Xung-Phong đầu
năm 1955 khi vào Nam (9)

Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm,
nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Ḥa (1954-1963)
Ngày 16 tháng 6 năm 1954, Chí-sĩ Ngô-Đ́nh-Diệm về nước thành-lập
Chính-Phủ do sự ủy-nhiệm của Quốc-trưởng Bảo-Đại bằng sắc-lệnh số
38/QT. Bởi những thế-lực riêng biệt do quân-đội Pháp cố t́nh tạo ra trước
khi rút về nước theo hiệp-định Genève ngày 21 tháng 7 năm 1954, quân-đội
QGVN bị chia rẽ thật trầm-trọng. Theo Đoàn-Thêm trong tài-liệu đă dẫn,
ngày 21 tháng 3 năm 1955, trên hệ-thống đài phát-thanh Pháp-Á cũng như đài
phát-thanh Quốc-gia SàiG̣n, Thủ-tướng Ngô-Đ́nh-Diệm đă phải cương-quyết
tuyên-bố:
“Phải thống-nhất quân-đội, không có lực-lượng riêng biệt; phải
thống-nhất hành-chánh, không có địa-phương tự-trị; phải thống-nhất
tài-chánh, không thể thâu những sắc-thuế do địa-phương tự-động đặt ra.”
Ngoại trừ quân-đội Cao-Đài thực-tâm qui-thuận Chính-phủ, ngày 28 tháng 3
năm 1955, Thủ-tướng Ngô Đ́nh Diệm ra lệnh cho quân-đội QGVN tấn-công loại
bỏ quân-đội B́nh-Xuyên và ngày 5 tháng 6 năm 1955 loại trừ luôn quân-đội
Ḥa-Hảo.
Báo-chí trong nước, ngoài nước thời đó đều ca ngợi tài lănh-đạo
anh-minh của Thủ-tướng Ngô Đ́nhDiệm; v́ chỉ trong ṿng một năm thôi mà Ông
đă gom được quân-đội về một mối, chấm dứt nạn “Sứ-quân thời-thượng”.
Thắng-lợi này cũng dọn đường cho cuộc trưng-cầu dân-ư ngày 23 tháng 10 năm
1955 truất-phế Bảo-Đại và suy-tôn Thủ-Tướng Ngô-Đ́nh-Diệm lên chức-vụ
Quốc-Trưởng. Chủ-tịch Thượng-viện Hoa-Kỳ Lyndon Baines
Johnson cũng cổ-vũ Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm là Churchill của thập
niên...người lănh-đạo tiền-phong cho nền tự-do ở Đông-Nam-Á...(10).
Dụ số 2 ấn-định ngày 26 thắng10 năm 1955 là ngày Quốc-Khánh của nền Đệ
Nhất Việt-Nam Cộng-Ḥa và Quốc-trưởng lấy danh-hiệu là Tổng-Thống Việt Nam
Cộng Ḥa. Quân-Đội QGVN trở thành Quân-lực Việt Nam Cộng Ḥa (The Republic
of Vietnam Armed Forces = RVNAF)
Đến cuối năm 1955, Hải-quân thuần-túy Việt-Nam có 3,858 người kể cả 1291
Thủy-quân-lục-chiến với Tiểu-đoàn 1 Quái-Điểu và Tiểu-đoàn 2 Trâu-Điên.
Đầu năm 1956, Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm chấp-thuận dự-án Giang-lực
dự-trù thành-lập 5 Hải-đoàn Xung-Phong, mỗi hải-đoàn sẽ được trang-bị:
· 05 Trung-vận-đỉnh LCM6 (Landing craft Mechanized)
· 04 Tiểu-vận-đỉnh LCVP (Landing craft vehicle and personnel)
· 05 Hô-bo vận-tốc nhanh (Hors-bord)
· 02 Quân-vận-hạm LCU (Landing craft utility)
· 02 Tàu kéo quân-cảng YTL (harbor craft)
· 01 Giang-pháo-hạm LSIL (Landing ship infantry large) tăng-phái.
Đó là các Hải-Đoàn 21 Xung-Phong (hậu-cứ tại Mỹ-Tho), Hải-Đoàn 23
Xung-Phong (hậu-cứ tại Vĩnh-Long)Hải-Đoàn 24 Xung-Phong (hậu-cứ tại
Cát-Lái) Hải-Đoàn 25 Xung-Phong (hậu-cứ tại Cần-Thơ và Hải-Đoàn 26
Xung-Phong (hâu-cứ tại Long-Xuyên).
Riêng về Hải-lực, đến cuối năm 1957, số chiến-hạm được Pháp chuyễn-giao
lên 21 chiếc gồm:
· 05 Hộ-tống-hạm PC (Patrol Craft or submarine chaser) là:
HQ.01-CHI-LĂNG
HQ.02-VẠN-KIẾP
HQ.03-ĐỐNG-ĐA
HQ.04-TUY-ĐỘNG
HQ.05-TÂY-KẾT.
· 03 Trục-lôi-hạm YMS (Yard MineSweeper) là:
HQ.111-HÀM-TỬ
HQ112-CHƯƠNG-DƯƠNG
HQ.113- BẠCH-ĐẰNG.
· 02 Trợ-chiến-hạm LSSL (Landing Ship Support Large) là:
HQ.225-NỎ-THẦN(Nguyễn-Văn-Trụ)
HQ.226-LINH-KIẾM(Lê-Trọng-Đàm).
· 05 Giang-pháo-hạm LSIL (Landing Ship Infantry Large) là:
HQ.327-LONG-ĐAO
HQ.328-THẦN-TIỂN
HQ.329-THIÊN-KÍCH
HQ.330-LÔI-CÔNG
HQ.331-TẦM-SÉT.
· 04 Hải-vận-hạm LSM (Landing Ship Medium) là:
HQ.400-HÁT-GIANG
HQ.401-HÀN-GIANG
HQ.402-LAM-GIAN
HQ.403-NINH-GIANG.
· 01 Hỏa-vận-hạm YOG (Oiler) là:
HQ.470.
· 01 Huấn-luyện-hạm AKL (Loại tàu vận-chuyễn) là:
HQ.451-QUÁ-GIANG
2- GIAI-ĐOẠN CHẬM-CHẠP PHÁT-TRIỂN (1958-1967)
Năm 1958 được chọn làm mốc thời-gian v́ những sự-kiện quan-trọng sau đây:
Trung-Tâm Huấn-Luyện Hải-Quân NHa-Trang được Pháp chuyễn-giao toàn bộ lại
cho Hải-Quân Việt-Nam.
Hải-Quân Việt-Nam tăng lên 5,000 người
Khóa 8 Sĩ-qian Nha-Trang (Đệ I Hổ-Cáp) có 50 sinh-viên nhập học với
giáo-sư, giảng-viên và Huấn-luyện-viên loàn-toàn là người Việt-nam.
Quân-số Giang-lực gia-tăng 50% cho 5 Hải-Đoàn Xung-Phong trang-bị 96
chiến-đỉnh đủ loại.
Đầu năm 1960, Bộ Tư-Lệnh Hải-Quân phúc-tŕnh đặc-biệt lên Bộ Tộng-Tham-Mưu
về tiểu-đoàn 603 Việt-Cộng tức Tập-Đoàn Đánh Cá Sông Gianh đă lén-lút
xâm-nhập vào Duyên-khu Đà-Nẳng. Tổng-Thống Diệm chấp-thuận thành-lập ngay
4 Đội Hải-Thuyền đầu-tiên: Đội 11 Cửa-Việt, Đội 12 Cửa Thuận-An, Đội 13
Cửa Tư-Hiền, Đội 14 Cửa Hội-An. HQ/Đại-úy Nguyễn-Văn-Thông (khóa 3 Sĩ-Quan
Nha-Trang) chỉ-huy huấn-luyện 400 tuần-viên sơ-khởi cho 80 ghe đủ loại.
Năm 1962, Hải-Đoàn 22 Xung-Phong được thành-lập, HQ/Đại-úy Huỳnh-Duy-Thiệp
(khóa 7 Sĩ-Quan Nha-Trang) là Chỉ-Huy-Trưởng đầu tiên.
Đến cuối năm này, Lực-lượng Hải-Thuyền tăng lên 28 đội đóng dọc theo
duyên-hải với 800 Tuần-viên, rồi được cải-danh thành Duyên-Đoàn khi
quân-số tăng lên đến 4,000 người.
Đến đầu năm 1963, HQ/Đại-tá Hồ-Tấn-Quyền, Tư-Lệnh Hải-Quân mở cuộc
hành-quân thủy-bộ b́nh-định Năm-Căn: Chiến-dịch SÓNG-T̀NH-THƯƠNG.
THÀNH LẬP HẢI QUÂN VIỆT NAM CỘNG H̉A - P2

Bước ngoặt chính-trị năm 1963:
Được sự ủng-hộ của Đại-sứ Mỹ Henry Cabot Lodge (vua tổ-chức đảo-chánh),
các tướng-lănh Việt-nam đă làm cuộc đảo-chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963
giết chết Tổng-Thống Ngô Đ́nh Diệm và chấm dứt nền Đệ I VNCH (11). Trong
cuộc chính-biến này, HQ/Đại-tá Hồ-Tấn-Quyền, Tư-Lệnh Hải-Quân cũng bị một
sĩ-quan đàn em chối bỏ truyền-thống quân-chủng ám-sát chết (12).
V́ khônng c̣n lănh-tụ nào sáng giá hơn TT Ngô Đ́nh Diệm, nên
t́nh-h́nh chính-trị miền Nam trở nên bất ổn. Quân-đội phân-hóa, đảo-chánh
liên-miên, sinh-viên học-sinh biểu-t́nh hàng ngày. Lợi-dụng t́nh-trạng
rối-ren tại thành-phố và hoang-phế 7000 ấp chiến-lươc tại nông-thôn,
Việt-Cộng gia tăng cường-độ ám-sát khủng-bố và bắt đầu tổ-chức đánh lớn
cấp trung-đoàn. Cuối năm này, Hải-quân mất luôn quyền chỉ-huy Liên-đoàn
Thủy-quân lục-chiến khi binh chủng thống-thuộc này trở thành Lử-đoàn
tổng-trừ-bị do Trung-tá Lê-Nguyên-Khang làm Tư-Lệnh và bị áp-đặt
trực-thuộc Bộ Tổng-Tham-Mưu về mọi mặt giống như binh-chủng Nhảy-dù của
Không-quân.
Đến hết năm 1964, Hải-quân cũng chưa thoát khỏi quỉ-đạo lục-đục trên đây,
các sĩ-quan khóa 2 Nha-Trang gồm HQ/Trung-tá Nghiêm-Văn-Phú,
Chỉ-huy-trưởng Hải-lực; HQ/Trung-tá Đỗ-Quư-Hợp, Chỉ-huy-trưởng Giang-lực;
HQ/Trung-tá Khương-Hữu-Bá, Chỉ-huy-trưởng Duyên-lực; HQ/Trung-tá
Đặng-Cao-Thăng, (khóa 1 Brest), Giám-đốc Hải-Quân Công-Xưởng đồng ḷng lật
đổ Phó Đề-Đốc Chung-Tấn-Cang,Tư-lệnh Hải-Quân về vụ thủy-cước.
Sau ngày 8 tháng 3 năm 1965, quân-đội Hoa-Kỳ đổ-bộ lên hải-cảng Đà-Nẳng,
Hải-quân có 7 Hải-Đoàn Xung-Phong. Với bảng cấp số (SOP) mới 1965, Hải
Đoàn Xung-Phong được cải danh là Giang-Đoàn Xung-Phong (River Assault
Group = RAG) có quân-số 150 người. Sáu trong bảy Giang-đoàn loại này được
trang bị:
· 01 Giang-đỉnh chỉ-huy (Commandement Monitor)
· 01 Chiến-đấu-đỉnh (Combat Monitor)
· 05 Trung-vận-đỉnh LCM6.
· 06 Tiểu-vận-đỉnh LCVP.
· 06 Xung-kích-đỉnh STCAN or FOM.
Riêng Giang-đoàn 27 Xung-Phong trang-bị hơi khác biệt với 6 Giang-đoàn
kia: 01 Giang-đỉnh chỉ-huy + 01 Chiến-đấu-đỉnh + 06 Quân-vận-đỉnh LCM8 và
10 Tiểu-đỉnh RPC (River Patrol Craft) (13). Quân-số Giang-lực lúc bấy giờ
tăng thành 1150 người kể cả Bộ Chỉ-huy Giang-lực và 3 Ban Chỉ-huy
hành-chánh Liên Giang-đoàn (type).
Ngày 19 tháng 6 năm 1965 được gọi là Ngày Quân-Lực do sắc-lệnh của
Chủ-tịch Ủy-ban Hành-Pháp Trung-ương (tương-đương với Thủ-tướng Chính-phủ)
Nguyễn-Cao-Kỳ ban-hành để chấm dứt thời-kỳ khủng-hoảng chính-trị kéo dài.
(14).
Gần cuối năm, Lực-lượng Hải-thuyền 4000 ngưởi được sát-nhập vào Hải-quân.
Tuần-viên cải danh thành Đoàn-viên kèm theo cấp số chánh-thức cho mỗi
Duyên-đoàn là 03 Ghe chủ-lực, 03 ghe di-cư và 16 ghe chèo.
Trong 7 năm đầu, Hải-quân tiến-triển chậm-chạp nhưng trong 3 năm sau,
Hải-lực đă nhận thêm một số chiến-hạm đáng kể:
· 03 Trục-lôi-hạm MSC (Mine Sweeper Craft) là:
HQ.114-HÀM-TỬ II
HQ.115- CHƯƠNG-DƯƠNG II
HQ.116-BẠCH-ĐẰNG II.
· 01 Hộ-tống-hạm PC là:
HQ.06-VÂN-ĐỒN.
· 02 Hộ-tống-hạm PCE (Patrol Craft Escort) là:
HQ.07-ĐỐNG-ĐA
HQ.12- NGỌC-HỒI
· 04 Hộ-tống-hạm MSF (Mine Sweeper Fleet) là:
HQ.08-CHI-LĂNG II
HQ.09-KỲ-H̉A
HQ.10-NHỰT-TẢO
HQ.11-CHÍ-LINH.
· 03 Hải-vận-hạm LSM (Landing Ship Medium) là:
HQ.404-HƯƠNG-GIANG
HQ.405-TIỀN-GIANG
HQ406-HẬU-GIANG.
· 03 Dương-vận-hạm LST (Landing Ship Tank) là:
HQ.500-CAM-RANH
HQ.501-Đà-NẲNG
HQ 502-THỊ-NẠI.
· 20 Tuần-duyên-hạm PGM (Patrol Gunboat) là:
HQ.600-PHÚ-DỰ.
HQ.601-TIÊN-MỚI.
HQ.602-MINH-HOA.
HQ.603-KIẾN-VÀNG.
HQ.604-KEO-NGỰA.
HQ.605-KIM-QUY.
HQ.606-MAY-RÚT.
HQ.607-NAM-DU.
HQ.608-HOA-LƯ.
HQ.609-TÔ-YẾN.
HQ.610-ĐỊNH-HẢI.
HQ.611-TRƯỜNG-SA.
HQ.612-THÁI-B̀NH.
HQ.613-THỊ-TỨ.
HQ.614-SONG-TỬ.
HQ.615-TÂy-SA.
HQ.616-HOÀNG-SA.
HQ.617-PHÚ-QUƯ.
HQ.618-H̉N-TRỌC.
HQ.619-THỔ-CHÂU.
· 02 Hỏa-vận-hạm YOG là:
HQ.471.
HQ.472.
· 05 Trợ-chiến-hạm LSSL là:
HQ.227-LÊ-VĂN-B̀NH
HQ.228-ĐOÀN-NGỌC-TẢNG.
HQ.229-LƯU-PHÚ-THỌ.
HQ.230-NGUYỄN-NGỌC-LONG..
HQ.231-NGUYỄN-ĐỨC-BỔNG.
Như vậy, vào cuối năm 1967, Hải-lực có tổng-số chiến-hạm là 64 chiếc.
3- GIAI-ĐOẠN NHANH CHÓNG BÀNH-TRƯỚNG (1968-1975).
Đầu năm 1968, Việt-cộng mở cuộc Tổng-nổi-dậy, công-kích trên toàn lănh-thổ
VNCH; Hải-quân với quân-số 30,000, kể cả 7,500 sĩ-quan, không những
bảo-toàn được lực-lượng đông-đảo như vậy mà c̣n yểm-trợ hữu-hiệu cho các
đơn-vị bạn tái chiếm nhiều vị-trí bị lọt vào tay địch trong những ngày Tết
Mậu-Thân.
Cũng trong năm này, 3 trung-tâm huấn-luyện được phân-nhiệm rơ-rệt:
Trung-Tâm Huấn-Luyện Nha-Trang đào-tạo sĩ-quan, Trung-Tâm huấn-Luyện
Cam-Ranh dành cho Hạ-sĩ-quan và Đoàn-viên, Trung-Tâm Huấn-Luyện Bổ-Túc Sài
G̣n trau-dồi thêm kiến-thức chuyên-môn cho các cấp.
Đến năm 1969, để theo kịp chương-tŕnh “Việt-Nam hóa chiến-tranh”
(Accelerated turnover to the Vietnamese = ACTOV), Bộ Tư-Lệnh Hải-quân
tổ-chức HÀNH-QUÂN LƯU-ĐỘNG BIỂN và HÀNH-QUÂN LƯU-ĐỘNG SÔNG. Trong tổ-chức
Hành-Quân Lưu-Động Sông, 3 Lực-lượng tác-chiến trong sông được thành-lập:
· Lực-lượng Thủy-Bộ, tổ-chức hành-chánh (type) đóng tại B́nh-Thủy, khi trở
thành Đặc-Mhiệm (Task) gọi là Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 211.
· Lực-Lượng Tuần-Thám, tổ-chức hành-chánh đóng tại Mỹ-Tho, khi trở thành
Đặc-Nhiệm gọi là Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 212.
· Lực-Lượng Trung-Ương, tổ-chức hành-chánh đóng tại Đồng-Tâm, khi trở
thành Đặc-Nhiệm gọi là Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 214.
Tư-Lệnh Hải-Quân vùng VI Sông-Ng̣i kiêm Tư-Lệnh Hạm-Đội Đặc-Nhiệm 21 khi
chỉ-huy cả 3 Lực-lượng trên cùng 7 Giang-Đoàn Xung-Phong và các cơ-sở
tiếp-vận trong vùng châu-thổ Cữu-Long, quân-số lên đến 10,500 người.
Tư-Lệnh vùng III Sông-Ng̣i có 5 Giang-đoàn Xung-Phong cơ-hữu, cũng được sự
tăng-phái của các Lực-lượng Đặc-nhiệm 211,212 và 214. (15)
Hoàn tất chương-tŕnh ACTOV năm 1972, Hành-quân Lưu-động Biển đă nhận thêm
20 chiến-hạm:
· 04 Dương-vận-hạm LST là:
HQ.503-VŨNG-TÀU
HQ.504-QUI-NHƠN
HQ.505-NHA-TRANG
HQ.800-MỸ-THO.
· 02 Cơ-xưởng-hạm LST là:
HQ.801-CẦN-THƠ
HQ.802-VĨNH-LONG.
· 01 Hộ-tống-hạm MSFlà:
HQ.13-HÀ-HỒI.
· 01 Hộ-tống-hạm PCE là:
HQ.14-VẠN-KIẾP.
03
Hỏa-vận-hạm YOG là:
HQ.472
HQ.473
HQ.475.
· 02 Khu-trục-hạm tiền-thám DER (Destroyer Radar Picket Escort) là:
HQ.1-TRẦN-HƯNG-ĐẠO
HQ.4-TRẦN-KHÁNH-DƯ
· 07 Tuần-dương-hạm WHEC (White High Endurance Cutter) là:
HQ.2-TRẦN-QUANG-KHẢI
HQ.3-TRẦN-NHẬT-DUẬT
HQ.5-TRẦN-B̀NH-TRỌNG
HQ.6-TRẦN-QUỐC-TOẢN
HQ.15-PHẠM-NGŨ-LĂO
HQ.16-LƯ-THƯỜNG-KIỆT
HQ.17-NGÔ-QUYỀN
· 05 Hải-đội Duyên-Pḥng được chuyễn-giao 26 Tuần-duyên-đỉnh WPB (Coastal
Patrol Boat) đánh số từ HQ.700 đến HQ.725 và 107 Duyên-tốc-đỉnh PCF
(Patrol Craft Fast).
Cuối năm 1972, quân-số hải-quân VNCH tăng thành 41,000 người. Theo Jane’s
Fighting Ships 1972-1973, HQ/Đại-tá John More xếp sự lớn mạnh của
lực-lượng Hải-quân VNCH vào hàng thứ 9 trong các cường-quốc Hải-quân trên
thế-giới.
Đầu năm 1975, lực-lượng Hải-quân VNCH gồm:
· 05 vùng Duyên-hải với 133 chiến-đỉnh và 500 ghe đủ loại.
· 02 vùng Sông-ng̣i và 03 lực-lượng tác-chiến trong sông với trên 950
chiến-đỉnh đủ loại.
· Hạm-đội Biển với 84 chiến hạm.
· Quân-số: 43,000 người.
Giữa tháng 4 năm 1975, ngay sau khi trở lại nhậm-chức Tư-Lệnh Hải-Quân lần
thứ hai, Phó Đô-đốc Chung-Tấn-Cang chỉ-định HQ/Đại-tá Lê-Hữu-Dơng
thành-lập cấp-tốc Lực-Lượng Đặc-Nhiệm 99 với sự phối-hợp của các
Giang-đoàn 22 Xung-Phong, Giang-đoàn 42 Ngăn-Chặn và Giang-Đoàn 59
Tuần-Thám gồm khoảng 50 chiến-đỉnh để giải-tỏa áp-lực địch trong phạm-vi
trách-nhiệm của Hải-quân.
Chú-Thích:
(1)- Trần-trong-Kim. việt-Nam Sử-Lược. Saigon thư-xă 1962. Chương 7: Nước
Pháp lấy đất Nam Kỳ (từ trang 480 đến trang 492).
Nguyễn-hợp-Minh. Lịch-sử giữ nước của dân-tộc Việt-Nam. Melbourne 2000.
Tập 6, trang 285-288.
Đúc kết tóm-lược: Sau khi kư hiệp-ước Thiên-Tân ngày 27 tháng 6 năm 1858
với Trung-Hoa, Chính-Phủ thực-dân Pháp chỉ-định Đề-đốcRigault de Genouilly
điều-động 13 chiến-hạm Pháp và 01 chiến-hạm Tây-Ban-Nha do HQ/Đại-tá
Lanzarote làm Hạm-trưởng, kéo sang xâm-lược Việt-Nam. De Genouilly được
phong chức Phó Thủy-sư Đô-đốc, Tổng chỉ-huy Lực-lượng Thực-dân Viễn- chinh
tại nước ta từ ngày 1 tháng 9 năm 1858 đến ngày 1 tháng 11 năm 1859.
(2)- Bộ Tổng-tham-mưu pḥng5. Quân-sử tập 4: Quân-lực h́nh-thành
1946-1955. Saigon 1972.
(3)- Đoàn-Thêm. Hai mươi năm qua, việc từng ngày. Saigon 1966, trang
44-45.
(4)- Đoàn-Thêm. Tài-liệu đă dẫn, trang 52.
(5)- Đoàn-Thêm ghi nhận trang 82, tái-liệu đă dẫn: Từ nay, quân-đội VN
thuộc hẳn quyền Quốc-trưởng Bảo-Đại, nhưng có cơ-quan liên-lạc với
quân-đội Liên-hiệp Pháp.
Cũng ngày hôm đó, Thống-tướng 5 sao Jean de Lattre de Tassigny, được
Chính-phủ Pháp cử sang làm Tổng-Tư-Lệnh Quân-Đội kiêm Cao-Ủy pháp tại
Đông-Dương.
(6)- Trung-tướng Tôn-Thất-Đính. Hồi-kư 20 năm binh-nghiệp. CA Chánh-đạo
1988, trang 29-30.
Đoàn-Thêm. Tài-liệu đă dẫn, trang 44, 57, 69 và 112.
Đúc-kết tóm-lược: Ông Phan-Văn-Giáo, một nhân-vật thân-tín của Cựu-hoàng
Bảo-Đại, tuy không tốt-nghiệp một trường vơ-bị nào nhưng có khả-năng rất
cao về tổ-chức quân-đội, giúp Quân-Đội VNCH sớm h́nh-thành. Qua nhiều
Chính-phủ từ Nguyễn-Văn-Xuân đến Nguyễn-Văn-Tâm, Ông đă được giao-phó
nhiều chức-vụ thật quan-trọng:
Ngày 2 tháng 6 năm 1948: Quốc-vụ-khanh, Tổng-trưởng kiêm Tổng-trấn
Trung-phần, đặc-trách thành-lập Việt-Binh-Đoàn
Ngày 3 tháng 7 năm 1949: Thủ-hiến Trung-Việt bành-trướng Việt-Binh-Đoàn
thành Quân-Đội QGVN.
Ngày 4 tháng 4 năm 1950: Tổng-Thanh-tra Quân-đội QGVN với quân-hàm
Trung-tướng Giả-định (être assimilé au grade de Général), trực-thuộc
Quốc-trưởng (Sắc-lệnh số 31/QT).
Ngày 25 tháng 6 năm 1952: Phó Thủ-tướng kiêm Tổng-trưởng Thông-tin.
(7)- Đoàn-Thêm. Tài-liệu đă dẫn, trang 86.
(8)- Hải-đoàn Xung Phong, Hải-quân Pháp gọi là DINASSAUT (Division Naval
d’assault), xin xem phần quan-niệm về tổ-chức Dinassault trong tập này,
trang .... Lúc Pháp chuyễn-giao, các Hải-đoàn chưa có số nên tạm thời lấy
tên địa-phương đồn-trú. Hải-đoàn Xung-phong Cần-Thơ và Vĩnh-Long, mỗi
đơn-vị nhận:
01 giang-đỉnh chỉ-huy (Commandement Monitor LCM6.
02 Trung-vận-đỉnh LCM6 (Landing craft Mechanized)
02 Tiểu-vận đỉnh LCVP (Landingcraft Vehicle and Personnel).
(9)- HQ/Tr/tá Vũ-Hữu-San. Lược-sử tổ-chức Hải-quân VNCH. Tài-liệu chuyễn
cho Hội-Đồng Hải-Sử 2000, trang 4-6.
(10)- Karnow, Stanley. Viuetnam a story. Viking London 1991, trang 222 ghi
lại nhận-định của Lyndon B.Johnson như sau: “President Diem is the
Churchill of the decade... in the vanguard of those leaders who stand for
freedom...”.
(11)- Karnow, Stanley. Tài-liệu đă dẫn, nhận-xét về Tổng-Thống Diệm:”...
into South Vietnam’s military and Police machinery, leaving only small
fraction for economie decelopment; and he was less interested in building
an army to fight Viet-Cong guerrillas than in forming conventional units
that would protect him against his rival in Saigon...”. Karnow cựu
thông-tín-viên cho các tờ Times, Life và The Washington Post kiêm
chủ-nhiệm The New Republic về vấn-đề Đông-Nam-Á, nổi tiếng qua quyển “Mao
and China” năm 1972 v́ những sự thật được phơi-bày trong đó. Nhưng đến
quyển Vietnam a story xuất-bản năm 1983, Ông vấp phải nhiều sai-sót
nghiêm-trọng, có lẽ v́ không được ở Việt-Nam lâu bằng ở Trung-Cộng.
Điển-h́nh là ông không biết Liên-Binh Pḥng-Vệ dinh Tổng-Thống có mấy
Tiểu-đoàn và Lực-lượng Đặc-biệt của Trung-tá Lê-Quang-Tung có bao nhiêu
Đại-đội thuộc Cần-Lao?. Ông cũng không biết đến quốc-sách 7 ngàn Ấp
Chiến-Lược với 8 triệu dân-quân đang ngày đêm trực-diện chiến-đấu với
Cộng-Sản tại nông-thôn hẻo lánh. Thành thử Ông nhận-định hàm-hồ như vậy
cũng phải!
(12)- Nghi-phạm ám-sát HQ/Đại-tá Quyền (khóa 1 Sĩ-quan Nha-Trang) là
HQ/Thiếu-tá Trương-Ngọc-Lực (khóa 2 Sĩ-quan Nha-Trang). Các Tướng-lănh
tổ-chức cuộc đảo-chánh ngày 1 tháng 11 năm1963 đă sai-lầm trong quyết-định
dùng một sĩ-quan đàn em sát-hại sĩ-quan đàn anh mà không đếm xỉa ǵ đến
truyền-thống quân-chủng Hải-quân. Ngay khi nhận thấy hậu-quả nghiêm-trọng
về cái chết của Tư-Lệnh Hải-Quân. Hội-đồng tướng-lănh vội-vă thăng-cấp
Trung-tá Bộ-Binh cho Lực rồi đẩy ra nước ngoài để tránh búa ŕu nguyền-rủa
của cả Hải-quân vào thời đó.
(13)- Tham-chiếu quyết-định của Hội-Đồng tu-chính Hải-qui do Phó Đề-đốc
Lâm-Nguơn-Tánh làm chủ-tịch, BTL/HQ/P5 ban-hành một tài-liệu căn-bản về
việc định danh (đặt tên) cho các chiến-hạm và chiến-đỉnh vào tháng 6 năm
1971. Tên các chiến-đỉnh trong tập này được viết theo đúng tinh-thần sự-vụ
văn-thư đă phổ-biến. Xin xem chương-tŕnh ACTOV trong tập này, trang ....
(14)- Trên thế-giới, các quốc-gia văn-hiến chọn ngày truyền-thống Quân-đội
(Ngày Quân-Lực) là ngày đề cao giá-trị tinh-thần bất-khuất, anh-dũng
hy-sinh và t́nh đoàn-kết chiến-đấu v́ mục-tiêu cao-cả của người chiến-binh
ḿnh. Úc-Đại-Lợi (Australia) chẳng hạn, Lưỡng-Viện Quốc-Hội Úc đă chọn
ngày 25 tháng 4 hàng nam làm ngày ANZAC. Cái độc-đáo của ngày Quân-lực Úc
là ngày bại trận tổn-thất đến 5000 chiến-binh nhưng lại nói lên tinh-thần
keo-sơn đoàn-kết, hào-hùng chiến-đấu của Liên-quân Úc và Tân-Tây-Lan trên
chiến-trường quá bất lợi Gallipoli (Thổ-Nhỉ-Kỳ) vào ngày 25 tháng 4 năm
1915. C̣n ngày Quân-lực 19 tháng 6 năm 1965 của nền Đệ II VNCH chỉ là ngày
mà Chủ-tịch Ủy-ban Lănh-đạo Quốc-gia Trung-tướng Nguyễn-Văn-Thiệu và
Chủ-tịch Ủy-ban hành-pháp Trung-ương Thiếu-tướng Nguyễn-Cao-Kỳ đồng ư với
nhau mà thôi, không làm đảo-chánh nữa v́ đă loại bỏ chính-quyền dân-sự
Phan-Khắc-Sửu (Tổng-thống) và Phan-Huy-Quát (Thủ-tướng) rồi. Ngày
truyền-thống của Quân-lực VNCH mà chỉ có hai người quyết-định giống như
trong thời-kỳ Quân-chủ chuyên-chế. Thật hiếm thấy thay!
(15)- Vùng III Sông-Ng̣i có 5 Giang-Đoàn Xung-phong trực-thuộc:
Giang-Đoàn 22 Xung-Phong và Giang-Đoàn 28 Xung-Phong hợp thành Liên
Giang-Đoàn trú đóng tại Nhà-Bè.
Giang-Đoàn 24 Xung-Phong và Giang-Đoàn 30 Xung-Phong hợp thành Liên
Giang-Đoàn trú đóng tại Long-B́nh.
Giang-Đoàn 27 Xung-Phong, tăng-phái thường-trực cho Đặc-khu Rừng-Sát. Trú
đóng tại Nhà-Bè.
Vùng IV Sông-Ng̣i có 7 Giang-Đoàn Xung-phong trực-thuộc:
Giang-Đoàn 21 Xung-Phong và Giang-Đoàn 33 Xung-Phong hợp thành Liên
Giang-Đoàn đồn-trú tại Mỹ-Tho.
Giang-Đoàn 23 Xung-Phong và Giang-Đoàn 31 Xung-Phong hợp thành Liên
Giang-Đoàn đồn-trú tại Vĩnh-Long.
Giang-Đoàn 25 Xung-Phong và Giang-Đoàn 29 Xung-Phong hợp thành Liên
Giang-Đoàn đồn-trú tại Cần-Thơ.Giang-Đoàn 26 Xung-Phong, tăng-phái
thường-trực cho BTL/Lực-lượng Đặc-nhiệm 212 vùng biên-giới Việt-Miên,
đồn-trú tại Long-Xuyên.
Nguyễn Văn Ơn
|