Hạm đội TQ suưt bị Không quân VNCH bắn ch́m sau Hải chiến Hoàng Sa

 

Nguyễn Tiến Hưng

 

 

Các tàu hải quân Hoa Kỳ từng đậu ngoài khơi sẵn sàng yểm trợ cho hải quân VNCH, nhưng sự yểm trợ đă bị rút lại trong Hải chiến Hoàng Sa 1974. Trong h́nh là chiến hạm lớp Iowa, USS New Jersey, nhả pháo 16-inch vào vùng phi quân sự DMZ, 30/9/1968 - GETTY IMAGES

 

 

Ngày 27/1/1973 là ngày kư kết Hiệp định Paris, theo đó quân lực Mỹ ở Miền Nam VN phải rút khỏi lănh thổ VNCH nội trong 60 ngày.

 

Ngày 19/1/1974 Trung Quốc (ngày trước gọi là Trung Cộng – trong bài này chúng tôi dùng cả hai từ) lấn chiếm Hoàng Sa, mục đích là muốn t́m hiểu xem thực sự Mỹ có can thiệp trở lại hay không.

 

Dù trong hoàn cảnh nghiệt ngă, Hải quân VNCH vẫn chống trả, nhưng luôn luôn với sự cẩn trọng và tự chế. Đó là v́ theo kinh nghiêm từ thời Đệ Nhất Cộng Ḥa, Trung Quốc luôn lấn chiếm hải đảo với cái bẫy là dùng tàu đánh cá và những người dân chài.

 

Tháng 2/1959, ngư thuyền Trung Quốc cho người lên đảo Hoàng Sa đánh cá. Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm phát hiện họ chính là những người lính đội lốt dân chài nên đă ra lệnh trục xuất ngay. Ngoại trưởng Mỹ là John Foster Dulles không e ngại Trung Quốc trả đũa và cũng không ngăn chận TT Diệm.

 

Tới tháng 1/1974 ngư thuyền Trung Quốc lại quay về Hoàng Sa, nhưng lần này th́ có hạm đội đi theo. Từ đó, mô h́nh dùng tàu đánh cá để lấn chiếm các hải đảo luôn được Trung Quốc áp dụng, dù là ở Scarborough của Phi Luật Tân hay Kinsaku của Nhật Bản.

 

Khi tàu đánh cá của Trung Cộng chạy về hướng Bắc

 

Theo chi tiết về Hải chiến Hoàng Sa được nhân chứng là Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải viết lại chi tiết trong cuốn “Can Trường Trong Chiến Bại” th́ ngày 16/1/1974 có báo cáo là một số tàu đánh cá đang chạy về hướng Bắc. Khi người nhái của Hải quân Việt Nam lên đảo Duncun và Drummond để kiểm tra th́ đụng ngay một toán lính Trung Cộng.

 

Sáng ngày 17/1/1974, tuần dương hạm HQ 16 báo cáo là có hai tàu đánh cá Trung Cộng không tuân lệnh của chiến hạm Việt Nam để ra khỏi lănh hải Việt Nam. Ngoài ra lại có sự xuất hiện của hai tàu chở quân đội của Trung Cộng và nhiều cờ Trung Cộng được cắm trên hải đảo.

 

Một toán quân nhân của HQ 16 gồm một trung úy và 14 đoàn viên đổ bộ lên đảo bằng xuồng cao su nhổ hết cờ Trung Cộng và thay bằng cờ Việt Nam. Toán này găp nhiều người Trung Hoa nhưng không rơ là ngư phủ hay binh sĩ. Tuy nhiên, toán quân nhân VNCH đă được lệnh là phải tự chế, “không được bắn trước, trừ khi để tự vệ” để khỏi rơi vào cái cạm bẫy là trở nên bên khai hỏa trước giúp Trung Quốc có cái cớ là ḿnh chỉ tự vệ.

 

Nhận được báo cáo về hành động của Trung Quốc, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay ra tận Đà Nẵng, lấy giấy ra viết tay thẳng cho Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải.

 

Cũng vẫn tự chế và đi từng bước, trên đầu trang ông viết: 'Chỉ thị cho Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải':

"Thứ nhất là t́m đủ mọi cách ôn ḥa mời các chiến hạm Trung Cộng ra khỏi lănh thổ VNCH.

 

Thứ hai, nếu họ không thi hành th́ được nổ súng cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này, và nếu họ ngoan cố th́ toàn quyền sử dụng vũ khí để bảo vệ sự vẹn toàn lănh thổ VNCH."

 

Viết lệnh xong, ông Thiệu cất giọng: "Anh Thoại, đến đây và đọc trước mặt tôi đây, có ǵ không rơ ràng th́ cho tôi biết ngay từ bây giờ."

 

Sau này chúng tôi hỏi TT Thiệu tại sao ông không ra lệnh cho Bộ Tổng Tham Mưu VNCH mà lại phải bay ra Đà Nẵng và viết tay về lệnh này.

 

Ông giải thích rằng: nếu ra lệnh theo hệ thống quân giai th́ sẽ mất thời giờ, và để Trung Quốc chiếm trọn Hoàng Sa rồi đặt ḿnh vào cái t́nh trạng “fait accompli” – “trước sự đă rồi.”

 

Cũng v́ vậy nên chúng tôi đă chứng kiến tại Dinh Độc Lập việc ông ra lệnh tăng cường lực lượng Hải quân VNCH ở Trường Sa sau trận Hoàng Sa – mặc dù Mỹ cố vấn ngược lại – v́ ông cho rằng Trung Quốc sẽ thừa thắng xông lên và tiến chiếm Trường Sa, đặt VNCH vào ‘sự đă rồi’.

 

Để chuẩn bị cho khả năng này, tháng 2/1975 Bộ Ngoại giao VNCH c̣n cho phổ biến rộng răi một tài liệu WHITE PAPER (Bạch Thư) chứng minh chủ quyền của VNCH trên Hoàng Sa và Trường Sa. Tài liệu này c̣n được Đại học Michigan lưu lại ở trên mạng.

 

Dù bị mất Hoàng Sa và chịu nhiều tổn thất và thương vong, Hải quân VNCH đă gây tổn thất lớn cho đối phương: Hộ tống hạm lớp Kronshtadt 274 của Trung Quốc bị bắn ch́m. V́ tàu này là soái hạm nên hầu hết bộ tham mưu đều tử trận gồm cả Đô đốc Phương Quang Kinh, Tư lệnh Phó của Hạm đội Nam Hải, bốn đại tá, sáu trung tá, hai thiếu tá, bảy sĩ quan cấp úy và một số đoàn viên.

 

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ban đầu đă lệnh cho Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên Hải "toàn quyền sử dụng vũ khí để bảo vệ sự vẹn toàn lănh thổ VNCH" nếu các chiến hạm Trung Quốc "ngoan cố" không chịu rời đi. 

 

 

TT Nguyễn Văn Thiệu trước Bản đồ thế giới trong trận Hải Chiến Hoàng Sa 1974  - GETTY IMAGES

 

Sau hải chiến, Không quân VNCH được lệnh phản công

 

Buổi chiều ngày 19/1/1974 sau khi hạm đội của VNCH đă ngừng, TT Thiệu liền ra lệnh cho Không quân trực chỉ Hoàng Sa để oanh kích phản công. Nhưng bất chợt, lệnh bị rút lại.

 

Tại sao như vậy? Ngày nay th́ ta đă có chứng cớ và văn bản để trả lời.

 

Trước hết về lệnh cho Không quân ra khơi để phản công: chúng tôi phối kiểm với Đại tá Nguyễn Quốc Hưng (Phụ tá Tham mưu Phó Hành quân, Bộ Tư lệnh Không quân, phụ trách toàn bộ 19 phi đoàn khu trục của VNCH) th́ ông đă xác nhận là đúng.

 

Phó Đề đốc Thoại cho biết là trước hải chiến th́ ở Đà Nẵng cũng đă có phản lực cơ F-5 nhưng chỉ có thể chiến đấu được 15 phút v́ không đủ xăng nhớt.

 

Ông Hưng giải thích: loại khu trục F5-E có khả năng mang theo một thùng xăng thứ hai với 800 gallons, nhưng mỗi chiếc chỉ có thể gắn hai thay v́ bốn hỏa tiễn. Mục tiêu của phi vụ lần này là bắn ch́m chiến hạm Trung Quốc rồi bay về ngay v́ không thể ở lại lâu hơn để nghênh chiến trong trường hợp MIGs của Trung Quốc từ Hải Nam (rất gần) bay tới tấn công.

 

Ông kể lại nhiều chi tiết, tóm tắt như sau:

“Vào 8 giờ tối ngày 19/1/1974, Tư lệnh Không quân nhận được mật lệnh của Tổng thống phải dùng phản lực cơ chiến đấu siêu thanh F5-E để oanh kích phản công địch trên đảo Hoàng Sa. Lệnh là phải giữ tối mật, nếu khi bay từ Biên Ḥa ra Đà Nẵng để từ đó bay ra Hoàng Sa mà có ai hoặc cố vấn Mỹ hỏi th́ cứ nói ‘tôi bay ra để tăng cường công tác pḥng không’.

 

Ngày hôm sau, đoàn phi công do tôi chỉ huy đă cất cánh hai lần để ra khơi, một lần vào buổi trưa và một lần buổi chiều, mỗi lần gồm hai phi tuần.

 

Nhưng vừa bay được khoảng trên một trăm nautical miles th́ nhận được đặc lệnh phải quay trở về và hủy bỏ các phi vụ không kích.

 

Lư do là Đệ Thất Hạm Đội yêu cầu ngừng ngay kế hoạch oanh tạc và nhấn mạnh rằng sẽ không có "top cover" (yểm trợ trong trường hợp bị phi cơ của Trung Quốc từ Hải Nam lên không chiến) và cũng không có "rescue support" (cứu vớt nếu bị bắn rơi).”

 

Đại tá Hưng rất tiếc rằng đă mất đi cơ hội để bắn ch́m hạm đội của Trung Quốc. Đó là v́ đă bay đến gần và trông thấy 4 chiến hạm của Trung Quốc phun khói đen. Phản lực cơ chiến đấu siêu thanh F5-E được trang bị hỏa tiễn tầm nhiệt nên có thể bắn ch́m hạm đội Trung Quốc dễ dàng. Hỏa tiễn này rất chính xác và rất đắt.

 

Trong số những quân nhân tham gia phi vụ không kích này, c̣n có những nhân chứng khác ngoài Đại tá Quốc Hưng (hiện ở Salem, Oregon): Thiếu tá Phạm Đ́nh Anh (California), Đàm Tường Vũ (Arizona), Vũ Viết Quư (California), và Hồ Văn Giầu (Las Vegas).

 

Tại sao lệnh oanh kích đánh ch́m chiến hạm Trung Quốc bị rút lại?

 

Một chuyện thật lạ lùng: tài liệu được giải mật ngày 30/6/2005 tiết lộ rằng vào ngày 18/1/1974 (17/1/1974 giờ Washington), Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger đă gọi điện thoại cho Đại sứ Martin ở Sàig̣n và nhấn mạnh ư muốn của Bộ là "t́nh h́nh phải được hạ nhiệt" (cooling the situation).

 

Dĩ nhiên, ông Martin phải thi hành ngay. Ngày hôm ấy chính là ngày TT Thiệu bay ra Đà Nẵng để ra lệnh đối đầu với Hải quân Trung Quốc.

 

Khi hải chiến xảy ra, Đệ Thất Hạm Đội của Mỹ ở ngay gần Hoàng Sa, nhưng không đáp ứng khi Bộ Tư lệnh Hải quân yêu cầu vớt các thủy thủ.

 

Ông Thoại viết lại: “V́ đau đớn cho các thủy thủ đang trôi trên biển với những vết thương mà máu ra sẽ là dấu hiệu cho cá mập tới, và trong sự chán nản tột cùng tôi đă chỉ thị các chiến hạm bị thiệt hại rời chiến trường để đưa các thủy thủ và thương binh lên bờ tại Đà Nẵng."

 

Không những Ngoại trưởng Kissinger đă yêu cầu Bộ Quốc pḥng ra lệnh cho Đệ Thất Ham Đội rời xa Hoàng Sa, ông lại c̣n can ngăn TT Thiệu đừng đụng độ với Trung Quốc về mấy ḥn đảo này.

 

Cụm Lưỡi Liềm thuộc quần đảo Hoàng Sa, nơi xảy ra trận hải chiến vào năm 1974 - GETTY IMAGES

 

 

Mật điện can ngăn TT Thiệu

 

 Ngày 19 tháng 1, 1974

Người gửi: Ngoại Trưởng – Washington DC

Nơi nhận: Ṭa Đại sứ Sàig̣n

Mật điện Bộ Ngoại giao 012641

 

1. Xung đột quân sự tại Hoàng Sa đă đưa đến thương vong cho VNCH với hai chiến hạm bị tên lửa STYX của Trung Quốc bắn ch́m. Chính phủ VNCH có yêu cầu Mỹ giúp t́m kiếm và cứu vớt các nạn nhân. T́nh h́nh thêm phức tạp v́ có báo cáo là trên đảo Pattle (do VNCH đóng quân) lại có một nhân viên dân sự Mỹ làm việc cho Văn pḥng Tùy viên ở Đà Nẵng. Chúng tôi không hiểu tại sao người này lại có mặt ở đó.

 

2. Bộ Ngoại Giao đă yêu cầu Bộ Quốc Pḥng ra lệnh cho Hải quân Hoa Kỳ tránh khỏi khu vực này.

 

Hai ngày trước đây (17 tháng 1) chúng tôi có bàn luận với Đại sứ Martin qua điện thoại và bày tỏ ư muốn của chúng tôi là t́nh h́nh phải được hạ nhiệt…

 

3. Thông cáo của Bộ Ngoại Giao gửi cho báo chí về vụ này sẽ nói theo những điểm như sau:

  • Chính phủ Hoa Kỳ không đứng về phe nào trong việc tranh chấp Hoàng Sa nhưng hết sức mong muốn là sự tranh chấp được giải quyết trong ḥa b́nh.

  • Lực lượng quân sự Mỹ không dính líu ǵ vào xung đột này.

 

4. Chúng tôi đang yêu cầu Ṭa Đại sứ ở Sàig̣n cố vấn chính phủ VNCH chỉ nên có những hành động tối thiểu để tự vệ và để cứu vớt nạn nhân (và người nhân viên Mỹ ở trên đảo) nhưng làm tất cả những ǵ có thể để tránh đụng độ trực tiếp thêm nữa với lực lượng Trung Quốc. Việc mà VNCH hay chúng ta không cần chút nào trong lúc này là đụng độ giữa Trung Quốc và Chính phủ Việt Nam về mấy ḥn đảo, dẫn tới vai tṛ bất chấp của Trung Quốc trong cuộc chiến Việt Nam.

 

KHẨN - MẬT

 

 

Đă không yểm trợ cứu vớt nạn nhân, đă yêu cầu Hải quân Hoa Kỳ tránh né khỏi khu vực giao tranh, lại c̣n công bố rơ ràng (để TQ biết rằng "Chính phủ Mỹ không đứng về phe nào trong việc tranh chấp Hoàng Sa" và xác định là "Lực lượng quân sự Mỹ không dính líu ǵ vào vụ xung đột này."

 

Không đứng về phe nào th́ tại sao lại khuyên can chính phủ VNCH "hăy hạ nhiệt", chỉ hành động tối thiểu để tự vệ và để cứu vớt nạn nhân thôi, nhưng làm bất cứ những ǵ để tránh đụng độ thêm nữa với lực lượng Trung Quốc về mấy ḥn đảo?

 

Trấn an Trung Quốc sau khi Miền Nam sụp đổ

 

Ngày 16/1/2024, BBC Tiếng Việt trích dẫn b́nh luận của Đại tá Carl Schuster (t́nh báo hải Quân Mỹ) nói đến cuộc gặp gỡ giữa ông Kissinger với Đại sứ Hàn Tự, Quyền Trưởng Văn pḥng Liên lạc Trung Quốc. Cuộc nói chuyện diễn ra tại Washington vào ngày 23/1/1974, tức là chỉ bốn ngày sau Hải chiến Hoàng Sa: “Nước Mỹ không ủng hộ Nam Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với những đảo này. Tôi cũng muốn nói rơ điều đó,” Kissinger trấn an Hàn Tự.

 

Sau đó, ông c̣n sắp xếp để người kế vị TT Richard Nixon là TT Gerald Ford đi Bắc Kinh năm ngày và gặp Chủ tịch Mao Trạch Đông. Trước chuyến đi, Kissinger đă cố vấn ông Ford: "Ngài sẽ cố gắng hết sức để tăng cường giây liên lạc với Trung Quốc. Ngài nên cho họ biết rằng Ngài tin vào việc phát triển mối bang giao Mỹ - Trung là quyền lợi căn bản của chúng ta và Ngài sẽ theo đuổi việc này một cách mạnh mẽ trong những năm tới."

 

Như vậy là từ trận Hoàng Sa, Trung Quốc có thể yên tâm và điều những hạm đội từ Nam Hải tiến thẳng vào Biển Đông qua ngả Hoàng Sa mà không bị Mỹ làm khó khăn.

 

Lịch sử sẽ phải ghi nhận rằng chính Kissinger đă đơn phương mở cửa vào Biển Đông cho Trung Quốc từ 50 năm trước. Trong thời điểm tháng 1/1974 khi TT Richard Nixon co cụm trong bối cảnh Watergate th́ Kissinger giống như ‘quan toàn quyền’ của nước Mỹ về ngoại giao.

 

Ông luôn làm việc trong ṿng bí mật, và một ḿnh. Có những sự kiện quan trọng mà Chính phủ và Quốc hội Hoa Kỳ cũng không hay biết (như được đề cập trong cuốn sách ‘Bức Tử VNCH – Kissinger và 8 thủ đoạn nham hiểm’- BTVNCH, được xuất bản vào Hè 2024).

 

Theo góc độ ấy th́ trong thực tế, nhiều động thái của Kissinger không phản ảnh lập trường của Hoa Kỳ.

 

Hậu quả của Hải chiến Hoàng Sa thật là lớn lao, nó đă dẫn đến t́nh trạng hỗn loạn tại Biển Đông. Khi biết chắc chắn rằng Hoa Kỳ đă quay lưng lại Biển Đông, Trung Quốc tự do tung hoành, dẫn đến t́nh trạng căng thẳng ngày nay.

 

Từ tung hoành tới lộng hành! Cái kẹt là sau khi lộng hành với các quốc gia sở tại th́ Trung Quốc lộng hành với chính nước Mỹ như đang diễn ra ở Biển Đông.

 

Sự kiên này giải thích tại sao Mỹ đă phải xoay trục về Á Châu và đang cố gắng để thắt cho thật chặt quan hệ ngoại giao và quân sự với các quốc gia trong vùng, nhất là đối với Việt Nam.

 

Việt Nam nên cân nhắc như thế nào?

 

BBC Tiếng Việt ngày 18/1/2024 có bài b́nh luận về “50 năm Hải chiến Hoàng Sa: 'Ukraine và Đài Loan là bài học cho Việt Nam'” trích dẫn Tiến sĩ William C. Chung, nhà nghiên cứu tại Viện Chính sách An ninh và Phát triển (Institute for Security and Development Policy), Phó Giáo sư Đại học Quốc pḥng Đài Loan, nói về trận Hải chiến Hoàng Sa năm 1974 và đưa ra nhận định của ông trong việc Việt Nam nên chọn cách thức giải quyết tranh chấp trên Biển Đông trong t́nh h́nh địa chính trị xoay chuyển như hiện nay.

 

Thật đúng là nếu không có Mỹ th́ Ukraine đă không thể đối đầu với cuộc tấn công của TT Vladimir Putin cho đến ngày nay. Nếu không có Mỹ th́ Đài Loan đă là một tỉnh lỵ của Trung Quốc theo tinh thần của Shanghai Communiqué (Thông Cáo Thượng Hải) giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc ngày 27/2/1972.

 

Tất cả cũng chỉ v́ quyền lợi. Mỹ giúp Ukraine v́ quốc gia này là lá chắn cho NATO. Mỹ bảo vệ Đài Loan v́ đây là lá chắn của Mỹ ở Đông Hải để bảo vệ Nhật Bản, đồng minh quan trọng nhất ở Á Châu.

 

Lịch sử đă chứng minh rằng Mỹ nhảy vào hay tháo chạy khỏi Miền Nam Việt Nam th́ cũng chỉ là trên căn bản quyền lợi. Mỹ đă phản bội VNCH trong Hải chiến Hoàng Sa chính v́ “quan toàn quyền Kissinger” cho rằng quyền lợi của Mỹ là Trung Quốc chứ không phải VNCH.

 

Ông đă từng biện luận cho việc mở cửa Bắc Kinh để đưa Trung Quốc thành bạn đồng phường: “Chúng ta cần Trung Quốc để tăng cường tính linh hoạt trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ... Sáng kiến này thu nhỏ Đông Dương lại, để nó quay về đúng cái quy mô của nó – quy mô của một bán đảo nhỏ bé trên một lục địa to lớn” (như được đề câp trong cuốn sách BTVNCH).

 

Tiến sĩ William C. Chung trong bài đề cập trên đây đă kết luận: Từ bài học Đài Loan và Ukraine, Việt Nam nên tham gia vào một hợp tác an ninh song phương để đối phó với Trung Quốc trên Biển Đông.”

 

Hiện nay Việt Nam có một cơ hội rất tốt, đó là trên căn bản quyền lợi, Mỹ đang rất cần Việt Nam.

 

Chúng tôi thấy rằng: dưới thời của 15 Tổng Thống Hoa Kỳ kể từ Franklin D. Roosevelt muốn giúp cho Việt Nam được độc lập năm 1945 cho tới Joe Biden nâng quan hệ Việt-Mỹ lên hàng đối tác chiến lược toàn diện năm 2023 – trừ Richard Nixon và Gerald Ford với sự kiện Henry Kissinger – các nhà chiến lược quân sự Mỹ ở Ngũ Giác Đài luôn đánh giá Việt Nam là địa điểm chiến lược quan trọng tại vùng Đông Nam Á Châu, là lá chắn Trung Quốc ở phía Nam.

 

Ngày 16/1/2024, BBC News Tiếng Việt trích dẫn bài của giáo sư Toshi Yoshihara từ Đại học Georgetown và nghiên cứu của ông về Hải chiến Hoàng Sa 1974 đă nhấn mạnh đến “vai tṛ của bên thứ ba” rằng các tài liệu gần đây của TQ cho thấy những người ra quyết định ở Bắc Kinh đă cân nhắc cẩn thận nguy cơ Mỹ can thiệp ở quần đảo Hoàng Sa bởi họ đă nghiền ngẫm từng động thái của Mỹ, giáo sư Toshi viết trong nghiên cứu và đưa ra Bài học ở đây là đánh giá của Bắc Kinh về can thiệp của bên thứ ba, đặc biệt là Mỹ, sẽ có ảnh hưởng lớn đến tính toán của họ trong các quyết định về việc sử dụng vũ lực.”

 

Theo kinh nghiệm Hoàng Sa, liệu Việt Nam có nên uyển chuyển hơn về chính sách ngoại giao bốn không để đi bước trước (preemtive move), thí dụ như t́m mọi cách để tăng cường sự răn đe ngay trong giai đoạn Trung Quốc c̣n đang tính toán về ‘sự can thiệp của bên thứ ba’ trước khi quyết định tiến chiếm Trường Sa Lớn? Nếu đợi tới lúc Bắc Kinh đă đi tới quyết định (v́ thấy rằng Mỹ không có những ràng buộc quân sự song phương với Việt Nam) và bất chợt dùng vũ lực áp đảo để tấn công th́ VN có thể sẽ bị đặt vào t́nh trạng của ‘sự đă rồi’.

 

Khi ấy, dù các quốc gia có đối tác chiến lược hay đối tác chiến lược toàn diện với VN phản đối gắt gao hay có động thái mạnh nào khác th́ Trung Quốc cũng chỉ chứng minh với “tài liệu lịch sử 2000 năm” là Trường Sa Lớn thuộc về Trung Quốc. Hoặc cùng lắm th́ cũng chỉ đề nghị “điều đ́nh” một giải pháp ḥa b́nh để xoa dịu chứ không rút quân ra khỏi Trường Sa Lớn.

 

Thế là xong. Chấm hết. Vài tháng sau th́ dư luận quốc tế sẽ chuyển sang những biến cố quan trọng khác.

 

 

Nguyễn Tiến Hưng

Cựu Tổng trưởng VNCH,

gửi tới BBC News Tiếng Việt từ Virginia, Hoa K

21 tháng 1 2024

 

Bài viết đưa ra quan điểm riêng của Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng. Sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, tác giả từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng ḥa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài G̣n. Ông là tác giả cuốn 'Khi Đồng minh Tháo chạy' và là đồng tác giả cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh Độc Lập, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh. Hiện ông định cư tại Virginia, Hoa Kỳ.

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính