Gian lao của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm khi đẩy người Pháp ra khỏi miền Nam

 

 

Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm và nội các ngày 10 - 5 - 1955 tại Sài G̣n. 

(H́nh: Fernand Jentile/Intercontinentale/AFP via Getty Images)

 

Nguyễn Tiến Hưng

 

Tiếng hát của ca đoàn vang vang trong thánh đường buổi sáng hôm ấy. Nhà thờ Chính Ṭa Sài G̣n (c̣n gọi là nhà thờ Đức Bà) đă chật ních những giáo dân. Bầu không khí thật trang ngiêm, long trọng. Đă từ mấy tuần rồi, ca đoàn phải tập dượt cho thật kỹ một số nhạc khúc chọn lọc để hát vào một dịp lễ đặc biệt. Lần đầu tiên, một hồng y Mỹ nổi tiếng, ông Francis Spellman, tới thăm viếng Việt Nam. Ông là thượng khách của tân thủ tướng chính phủ. Phần đông ca đoàn là những thanh niên vừa được tàu Mỹ chuyên chở từ miền Bắc di cư vào Nam mùa Hè 1954, trong đó có tác giả.

 

Từ nơi băo lụt triền miên, chiến tranh loạn lạc, nay được hưởng bầu không khí thanh b́nh của miền Nam trù phú, chúng tôi hết sức lên tinh thần. Thành phố Sài G̣n văn minh, tráng lệ, đúng là “Viên Ngọc Trân Châu của Á Đông.” Hằng ngày đài phát thanh nói đến nhà chí sĩ Ngô Đ́nh Diệm từ Mỹ trở về. Bây giờ lại có hồng y Tổng Giáo Phận New York tới thăm. Thấy vậy, nhóm thanh niên chúng tôi tràn đầy hứng khởi.

 

Suy nghĩ của tuổi trẻ đơn sơ là như vậy. Có ngờ đâu vào vào thời gian ấy, những sự sắp xếp trên bàn cờ chính trị tại miền Nam thật là rối ren, nguy hiểm. Trông gương mặt của Thủ Tướng Diệm, thấy ông lầm lầm, ĺ ĺ, ít cười nhưng b́nh tĩnh, khó ai biết được những khó khăn mà ông và trên thực tế, cả miền Nam, đang gặp phải.

 

Ư định “từ quan” không thành

 

Trong quá văng, Quốc Trưởng Bảo Đại đă mời ông Diệm làm thủ tướng tới ba lần. Lần thứ tư ông mới chấp nhận. Lần thứ nhất là vào năm 1949, sau khi ông Diệm đóng góp vào việc đưa ông Bảo Đại từ Hồng Kông về làm quốc trưởng, ông được mời làm thủ tướng. Hai lần sau là vào năm 1951 khi ông Diệm c̣n đang ở Mỹ. Cả ba lần ông Diệm đều từ chối v́ cho rằng ông không thể làm được việc ǵ khi người Pháp c̣n dính líu vào chính trị Việt Nam. Tới năm 1954, sau khi Quốc Hội Pháp thông qua Hiệp Ước Độc Lập (Treaty of Independence) ngày 4 Tháng Sáu, 1954, ông Diệm mới chấp nhận lời mời của ông Bảo Đại.

 

Ngày 16 Tháng Sáu, 1954 khi chỉ định ông Diệm, thoạt đầu ông từ chối. Trong cuốn hồi kư “Con Rồng Việt Nam” (1990), ông Bảo Đại ghi lại câu chuyện này như sau:

 

“Cứ mỗi khi mà tôi cần thay đổi chính phủ, tôi lại phải gọi đến ông. Ông th́ lúc nào cũng từ chối. Nay t́nh thế rất bi đát, đất nước có thể bị chia cắt làm đôi. Ông cần phải lănh đạo chính phủ,” Quốc Trưởng Bảo Đại nói với ông Ngô Đ́nh Diệm.

“Thưa hoàng thượng, không thể được ạ. Tôi xin tŕnh ngài là sau nhiều năm suy nghĩ, tôi đă quyết định. Tôi định đi tu…,” ông Ngô Đ́nh Diệm đáp.

 

“Tôi kính trọng ư định của ông. Nhưng hiện nay, tôi kêu gọi đến ḷng ái quốc của ông. Ông không có quyền từ chối trách nhiệm của ḿnh. Sự tồn vong của Việt Nam buộc ông như vậy.”

 

Sau một hồi yên lặng, cuối cùng ông Diệm đáp:

“Thưa hoàng thượng, trong trường hợp đó, tôi xin nhận sứ mạng ngài trao phó.”

Như vậy, giây phút ấy ­­­- ngày 16 Tháng Sáu, 1954 – là giây phút quyết định số mệnh của ông Ngô Đ́nh Diệm. Ông muốn từ quan – không phải là để “lên non t́m động hoa vàng” – nhưng là… để đi tu. Khi Quốc Trưởng Bảo Đại nại đến sự tồn vong của đất nước và không cho ông được phép từ quan, ông Diệm mới lĩnh nhận sứ mạng, một sứ mạng đă đưa đến cho ông bao nhiêu nguy hiểm, gian lao ngay từ đầu, để rồi tiếp tục cuộc hành tŕnh chông gai đi tới cuối đường, nơi tử thần đứng sẵn chờ đợi ông.

 

Bước gian truân ban đu

 

Khi chỉ định ông Diệm, Quốc Trưởng Bảo Đại chỉ hỏi ư kiến Ngoại Trưởng Foster Dulles của Mỹ, chứ không phải là “Mỹ đưa ông Diệm về Việt Nam làm thủ tướng” như dư luận hay nói đến. V́ biết rơ uy tín của ông Diệm ở Việt Nam nên Mỹ rất ủng hộ ư kiến của ông Bảo Đại.

 

Nhưng sự ủng hộ cũng không kéo dài được bao lâu. Chỉ nội trong 10 tháng, Thủ Tướng Diệm cố gắng thành lập một chính phủ trong hoàn cảnh rối ren 1954 của Sài G̣n, Mỹ đă muốn thay thế ông. Lư do chính yếu là sự vận động thành công của Pháp để loại trừ ông v́ biết thành tích chống Pháp của gia đ́nh Ngô Đ́nh Khả.

 

Mỹ đă nghe những lời khuyến dụ của Tướng Paul Ely (tư lệnh Pháp ở Đông Dương) đánh giá ông Diệm không đủ khả năng lănh đạo và không được dân chúng miền Nam ủng hộ. Ông Ely lại là bạn đồng liêu của Tướng John Collins của Mỹ trong Thế Chiến 2. Bây giờ ông Collins là đặc ủy (rồi đại sứ) của Tổng Thống Dwight Eisenhower tại miền Nam. Đầu Tháng Tư, 1955, Tướng Collins đề nghị rơ ràng về năm bước để loại bỏ ông Diệm (xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào, Chương 11).

 

Và ông Collins đă thành công. Cuối Tháng Tư, 1955, Washington có chỉ thị tối mật, đó là thay thế Thủ Tướng Diệm. Nhưng nhờ cơ may, ông Diệm lật ngược được thế cờ trong khoảnh khắc và Washington đă hủy mật lệnh này như chúng tôi đă đề cập trong cuốn sách “Khi Đồng Minh Nhảy Vào.”

 

Với cái thế mạnh sau Tháng Tư, 1955, Thủ Tướng Diệm đă đẩy được người Pháp ra khỏi Việt Nam, thu hồi được độc lập cả về chính trị, quân sự lẫn kinh tế, tài chánh, hoàn thành được giấc mộng mà gia đ́nh Ngô Đ́nh Khả nuôi dưỡng từ khi c̣n làm quan triều Nguyễn.

 

Hiệp Định Geneva (Tháng Bảy, 1954) chỉ là để phân chia ranh giới rút quân. Quân đội Liên Hiệp Pháp rút về bên dưới vĩ tuyến 17 chứ không phải là rút khỏi Việt Nam.

 

Ngày 20 Tháng Năm, 1955 là cái mốc lịch sử v́ hôm đó quân đội Pháp rút khỏi khu vực Sài G̣n – Chợ Lớn. Tới Tháng Bảy, số quân đội Pháp từ 175,000 xuống chỉ c̣n 30,000. Ông Diệm yêu cầu là cả quân đội lẫn huấn luyện viên người Pháp đều bắt buộc phải rời khỏi miền Nam vào mùa Xuân, 1956.

 

Ông Diệm đă thật vất vả và chấp nhận nhiều nguy hiểm khi đi tới quyết định này. Sau cùng, vào Tháng Tám, 1955, Pháp đồng ư đóng cửa cơ quan quản lư thuộc địa, gọi là “Bộ Các Quốc Gia Liên Kết.”

 

Về phía Mỹ, Đại Sứ Collins, người nghe lời Tướng Paul Ely, vốn đă muốn lật đổ Thủ Tướng Diệm, cũng bị thuyên chuyển. Ngày 14 Tháng Năm, 1955, ông rời Việt Nam sang nhận trách nhiệm mới tại NATO. Đại Sứ G. Frederick Reinhardt sang thay Collins. Tân đại sứ liền tuyên bố ngày 27 Tháng Năm:

“Tôi tới đây với chỉ thị là thi hành chính sách của Hoa Kỳ ủng hộ chính phủ hợp pháp của Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm.”

 

Sang mùa Thu 1955, uy tín của Thủ Tướng Diệm lên cao. Đối nội, ông nối kết lại được một quốc gia đang bị phân tán nặng nề, khuất phục được sự chống đối của Tướng Nguyễn Văn Hinh, tổng tham mưu trưởng quân đội (thân Pháp), chấm dứt được sự đe dọa của cảnh sát, quân đội quốc gia đă tuân lệnh ông quét sạch lực lượng B́nh Xuyên rồi được đại hội các đoàn thể chính đảng nhất mực ủng hộ. Thêm nữa, ông có hậu thuẫn mạnh mẽ của gần 1 triệu người di cư.

 

Đối ngoại th́ ông Diệm đă cương quyết chống trả và khuất phục được mưu đồ của Pháp và kế hoạch dẹp tiệm của cặp Ely-Collins, bây giờ lại được Washington nhất mực ủng hộ. Nhiều nhà quan sát quốc tế b́nh luận: “Ông Diệm đă làm được những việc như phép lạ.”

 

Với cái thế ấy, ngày 26 Tháng Mười, 1955, Thủ Tướng Diệm tuyên bố thành lập chế độ Cộng Ḥa và trở thành tổng thống đầu tiên. Tên chính thức của nước Việt Nam đổi từ “Quốc Gia Việt Nam” sang “Việt Nam Cộng Ḥa,” nhưng bài quốc ca và quốc kỳ không thay đổi.

 

Quốc Hội đầu tiên, Tháng Ba, 1956

 

Ngày 4 Tháng Ba, 1956, cột trụ của chính thể cộng ḥa được xây dựng. Nhân dân miền Nam đi bầu một quốc hội lập hiến. Với một dân số là 12 triệu người, gần 80% số người được đi bầu đă thực sự tham gia để chọn 123 dân biểu trong số 405 ứng cử viên. Dù tới gần một phần ba số ứng cử viên được chính phủ đề cử đă không trúng cử, đa số những người được bầu là thân chính.

 

Tuy không phải là một cuộc bầu cử lư tưởng, v́ chắc chắn đă có những vận động, sắp xếp không chính đáng, hoặc gian lận, như các phe đối lập tố cáo, nó cũng là bước đi đầu tiên của một hành tŕnh lâu dài để xây dựng nền cộng ḥa. “Res Publica,” quan niệm của nhà triết học Plato từ thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên, có nghĩa là “sự việc hay cơ chế của nhân dân,” chúng ta dịch là “Cộng Ḥa.” Ṇng cốt của cơ chế này là một thể chế đại diện cho nhân dân để làm ra luật pháp. Mục đích của Quốc Hội năm 1956 là soạn thảo một hiến pháp. Với sự cố vấn của ông J.A.C. Grant, một chuyên gia hiến pháp người Mỹ, một hiến pháp thành h́nh, đặt nặng nguyên tắc phân quyền giữa hành pháp, lập pháp, và tư pháp giống như Hiến Pháp Hoa Kỳ, ít nhất là về mặt lư thuyết.

 

Bầu xong Quốc Hội Lập Hiến, vào mùa Hè 1956, bộ trưởng Quốc Pḥng Hoa Kỳ gửi một Bản Ghi Nhớ cho tổng tham mưu trưởng quân đội thông báo “ư định của Tổng Thống Dwight Eisenhower, các cơ quan có thẩm quyền về quân sự phải cổ vơ giới quân sự Việt Nam để làm một kế hoạch song song và phù hợp với kế hoạch dựa trên căn bản chính sách của Hoa Kỳ để đối phó với những tấn công của Cộng Sản. Và một cách kín đáo, phải thông báo cho họ biết rằng Hoa Kỳ sẽ yểm trợ nước Việt Nam tự do để đương đầu với bất cứ sự tấn công nào từ bên ngoài vào.”

 

Tổng Thống Eisenhower hết mực ủng hộ. Riêng đối với Ngoại Trưởng Dulles th́ sau chuyến viếng thăm Tổng Thống Diệm vào ngày 14 Tháng Năm, 1956, ông lại càng thêm tin tưởng. Điều trần tại một ủy ban Thượng Viện Hoa Kỳ sau ngày trưng cầu dân ư, ông Dulles khẳng định:

 

“Ông Diệm đă làm được một việc quá tốt đẹp, dĩ nhiên là với sự yểm trợ của chúng ta, là quét sạch được các lực lượng phe phái…và quyền bính của ông bây giờ được đại chúng chấp nhận. Ông đă được Hoa Kỳ yểm trợ để đào tạo và vơ trang một quân đội quốc gia, và quân đội ấy đă chiến đấu một cách trung thành và hữu hiệu, mang được quyền bính của trung ương tới mọi nơi trong nước tới mức độ thật ngạc nhiên…”

 

“Nhân dân miền Nam có được một cuộc trưng cầu dân ư khoáng đại. Ngày tôi rời Việt Nam, họ bắt đầu có những cuộc họp để sửa soạn bầu một quốc hội đầu tiên, như vậy nền móng đă được đặt xuống để xây dựng một chính phủ đại diện cho quốc dân.”

 

“Ông Bảo Đại đă bị loại bỏ đi rồi và nhân dân Việt Nam hiện có khả năng xây dựng một chính thể chống Cộng mạnh mẽ và hữu hiệu tại một nơi mà đă có lúc coi như sắp bị tan ră v́ hai lư do: Hậu quả của việc Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ, và những điều khoản bất lợi của một hiệp định đ́nh chiến (Hiệp Định Geneva).”

Ngày 26 Tháng Mười, 1956, Quốc Hội Lập Hiến trở thành Quốc Hội Lập Pháp sau khi Hiến Pháp được ban hành (và năm 1959, Quốc Hội được bầu lại lần thứ hai).

 

“Một quốc gia tự do vừa ra đời”

 

Tháng Năm, 1957, Tổng Thống Eisenhower mời tân tổng thống nước Cộng Ḥa Việt Nam sang thăm Hoa Kỳ ba tuần. Ông gửi máy bay riêng Columbine III sang tận Honolulu, Hawaii, để chở Tổng Thống Diệm tới Washington DC, một hành động rất hăn hữu. Khi máy bay hạ cánh xuống phi trường National (bây giờ là phi trường Ronald Reagan Washington National Airport) th́ chính Tổng Thống Eisenhower đă có mặt để đón chào. Đây là lần thứ hai trong suốt hai nhiệm kỳ tổng thống mà ông Eisenhower đích thân ra tận phi trường để đón quốc khách. Lần đầu là đón Quốc Vương Saud bin Abdulaziz Al Saud của Saudi Arabia.

 

Sau khi trao đổi với Tổng Thống Eisenhower và Ngoại Trưởng Dulles tại Ṭa Bạch Ốc, Tổng Thống Diệm được cả Thượng Viện và Hạ Viện Hoa Kỳ mời tới Quốc Hội để diễn thuyết. Các thượng nghị sĩ và dân biểu lưỡng đảng đều có mặt đầy đủ. Cho tới lúc ấy th́ chưa có lănh đạo Á Đông nào có cái vinh dự này. Những tràng pháo tay nổ ran khi ông Diệm nói tới “ước nguyện của nhân dân Việt Nam chỉ là được sống trong ḥa b́nh, tự do và họ sẵn sàng hy sinh xương máu để bảo vệ tự do và độc lập của ḿnh, chỉ yêu cầu nhân dân và chính phủ Hoa Kỳ hỗ trợ cho họ về phương tiện và vật chất.” Một cách gián tiếp, ông muốn gửi thông điệp là chúng tôi chỉ cần sự yểm trợ vật chất, các ông chớ có mang quân vào Việt Nam.

Rồi ông nhấn mạnh đến quyền lợi hỗ tương của cả hai nước dựa trên căn bản miền Nam là tiền đồn của thế giới tự do. Ông nói thẳng bằng tiếng Anh chứ không qua thông dịch viên. Theo một người bạn chúng tôi lúc ấy làm ở đài VOA (bác Trịnh Văn Chẩn) được cử đi làm phóng sự, ông Diệm nói với âm hưởng Huế, có câu các dân biểu, thượng nghị sĩ không hiểu rơ, nhưng cứ đứng lên vỗ tay vang vang thật lâu, và đứng lên nhiều lần.

 

Tại New York, Thị Trưởng Robert F. Wagner tổ chức một cuộc diễn hành để chào mừng vị tổng thống đầu tiên của Việt Nam. Ít quốc khách nào được đón tiếp như vậy. Dù ít người ở thành phố này biết ông Diệm, nhưng dân chúng đổ xô ra đường phố để hoan hô. Từ các cao ốc, những cánh hoa đủ mầu sắc được rắc xuống chiếc xe limousine mui trần chở ông Diệm đi qua. Báo chí đồng loạt ca tụng, nói đến “Một quốc gia tự do vừa ra đời.” Nhật báo The New York Times gọi Tổng Thống Diệm là “một người giải phóng Á Châu.” Tuần báo Life: “Con người cứng rắn và như phép lạ của Việt Nam” (A tough miracle man of Vietnam). Sau này Phó Tổng thống Lyndon Johnson (thời Tổng Thống John Kennedy) c̣n gọi ông Diệm là “Churchill của Á Châu.”

 

Phản ứng tại Quốc Hội Mỹ hết sức thuận lợi. Các thượng nghị sĩ, dân biểu thay nhau khen ngợi. Thượng Nghị Sĩ Jacob Javits (Cộng Ḥa-New York) tuyên bố: “Ông là một trong những anh hùng của thế giới tự do.” Thượng Nghị sĩ Mike Mansfield (Dân Chủ-Montana), người ủng hộ ông Diệm trong những giờ phút nguy hiểm, giờ đây hết sức vui mừng, ca ngợi Tổng Thống Diệm là con người có quyết tâm, can đảm, trong sạch và chính trực, “một người đă chứng tỏ khả năng rất cao trước những khó khăn thật là to lớn.” Thượng Nghị Sĩ John Kennedy (Dân Chủ-Massachusetts), sau này làm tổng thống, c̣n tuyên dương Việt Nam dưới sự lănh đạo của ông Diệm: “Việt Nam là nền tảng của thế giới tự do ở Đông Nam Á, là đỉnh ṿm của ṿng cung (keystone to the arch), là ngón tay trên con đê (finger in the dyke).”

 

Cuối màu Hè 1957, những h́nh ảnh tiếp đón Tổng Thống Diệm linh đ́nh tại thành phố New York và thủ đô Washington DC được chiếu thật lớn trên màn ảnh tại các rạp chiếu phim ở Sài G̣n cũng như các đô thị, sau phần tin tức nhộn nhịp về thể thao. Bầu không khí lúc ấy thật là phấn khởi. Sinh viên, học sinh chúng tôi hết sức vui vẻ “xuống đường” liên tục, chăng biểu ngữ đi biểu t́nh để “chào mừng tổng thống đầu tiên, ủng hộ Quốc Hội Lập Hiến.”

 

Mỗi buổi sáng, tiếng kèn trống của ban quân nhạc oang oang trên đài phát thanh cử hành lễ chào cờ, tiếp theo là bài tung hô Ngô Tổng Thống: “Bao nhiêu năm từng lê gót nơi quê người…”

 

Ngày 28 Tháng Tư, 1956, những người lính Pháp cuối cùng rời Việt Nam.

 

Sự chiếm đóng của quân lực Pháp từ Hiệp Ước Patenôtre do triều đ́nh Huế kư với Pháp năm 1884 tới đây đă hoàn toàn chấm dứt trên thực tế.

 

Buổi b́nh minh của nền Cộng Ḥa thực là huy hoàng rực rỡ.

 

 

Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Gửi đến BBC từ Virginia, Hoa Kỳ) - 31/10/2022

 

Bài viết này thể hiện quan điểm riêng của tác giả, tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, Cựu Tổng trưởng Kế hoạch VN CH (1973-1975), phụ tá về tái thiết của TT Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đă xuất bản các cuốn sách Khi Đồng Minh tháo chạy (2005) và Khi Đồng Minh nhảy vào (2016).

 

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính