Thi Nhân & Danh Tướng

Đặng Dung mài kiếm dưới trăng

(1373 - 1414)

 

 

I - Lược s & Cảm Hoài:  Ô. Đặng Dung, người huyện Thiên Lộc, Nghệ An, con Ô. Đặng Tất. Hai cha con đều phò Nhà Hậu Trần Giản Định Đế.

 

Sau khi cha là Đặng Tất bị GĐĐ giết oan, Đặng Dung theo phò Trùng Quang Đế, lập được nhiều chiến công hiển hách.

 

Trận Thái Gia (Ái Tử, Quảng Trị), Ông đánh úp doanh trại giặc bng bộ binh và tượng binh, suýt bt sống được Trương Phụ; nhưng vì không biết mặt hn, nên Trương Phụ đã lẫn vào quân binh mà trốn thoát..!!

 

Cuối cùng vì binh ít thế cô, cả chúa tôi đều bị tướng gic Trương Phụ vây bắt.

 

Trên đường giải đi về Tàu, cả hai chúa tôi đều nhảy xuống biển tuẫn tiết..!! Có chỗ nói Ô. Đặng Dung bị tên Trương Phụ m lấy gan ăn (ghê qúa, dã man!!). Dưới đây là baì thơ CẢM HOÀI duy nhứt của Ông: 

 

         CẢM HOÀI

 

Thế sự du du nại lão hà

Vô cùng thiên địa nhập hàm ca

Thời lai đồ điếu* thành công dị

Vận khứ anh hùng ẩm hận đa

Trí chủ hữu hoài phù địa trục

Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà**

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch

Kỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma

                         

 ĐẶNG DUNG

 

  * Đồ: chàng bán thịt ( Phàn Khoái ). Điếu: chàng câu cá ( Hàn Tín ) đời Tây Hán Lưu Bang.                     

 ** Vãn thiên hà: Do điển thơ Đỗ Phủ:”An đắc tráng sĩ vãn Ngân Hà,Tịnh tẩy giáp binh trường bất dụng”( Ước gì có tráng sĩ kéo sông Ngân xuống, để rửa sạch giáp binh rồi cất đi lâu dài,vì không còn chiến tranh nữa..!! )

 

Bản dịch của Tản Đà

 

Việc đời man mác, tuổi già thôi!

Đất rộng trời cao chén ngậm ngùi.

Gặp gỡ thời cơ may những kẻ,

Tan tành sự thế luống cay ai!

Phò vua bụng những mong xoay đất,

Gột giáp sông kia khó vạch trời.

Đầu bạc giang san thù chửa trả,

Long tuyền mấy độ bóng trăng soi

 

 

Bản dịch của Phan Kế Bính

 

Việc đời bối rối tuổi già vay,

Trời đất vô cùng một cuộc say.

Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,

Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.

Vai khiêng trái đất mong phò chúa,

Giáp gột sông trời khó vạch mây.

Thù trả chưa xong đầu đã bạc,

Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày

 

  

Bản dịch của người biên soạn:

 

CẢM HOÀI

 

Sự thế miên man, tuổi hắt hiu

Đất trời lồng lộng hát ngao nghêu

Gặp thi đồ điếu nên công dễ

Lỡ vận anh hùng nuốt hận nhiều

Xoay trục phò vua mong chuyển hướng

Khơi sông gột giáp chẳng thông chiều                           

Bạc đầu thù nước buồn chưa tr

Mấy độ gươm mài dưới nguyệt xiêu..!!

 

Nguyễn Minh Thanh cẩn dịch

 

 

            CẢM HOÀI ( lục bát )

 

Việc đời dng dc, tuổi cao

Đất trời lồng lộng nghêu ngao giải sầu

Gặp thi toại chí chàng câu

Anh hùng lỡ vận ngẫm sâu đoạn trường

Phò vua vạch đất tầm phương

Khơi sông gột giáp không đường tiến lui

Bạc đầu thù nước nào nguôi

Dưới trăng mài kiếm ngậm ngùi non sông..!!

 

Nguyễn Minh Thanh cẩn dịch

 

II -  Bài thơ ĐNG DUNG MÀI KIẾM DƯỚI TRĂNG; Cảm cảnh người Anh Hùng Tóc Bạc dưới trăng nhọc nhằn mài kiếm mong khôi phục giang sơn cho nòi giống Lạc Hồng. Nhưng tri bất tùy người, cam đành thúc thủ...!! Người biên soạn có bài thơ cảm khái:

 

Đặng Dung Mài Kiếm DướiTrăng

          

Mài gươm cm cụi dưới trăng ngàn

Tuổi đã vào chiều việc ngổn ngang

Tóc bạc phất phơ soi kiếm bạc

Áo lam dầu dãi đẫm sương lam

Thái Gia* Trương Phụ kinh hồn phách

Mô Độ* Quân Minh loạn ngũ hàng

Dốc chí phò vua mưu phục quốc

Sa cơ tuẫn tiết hận ngùi mang..!!

 

Nguyễn MinhThanh cẩn tác

 

* Địa danh chiến trường.

 

 III - Phần kết : Qua bài thơ CẢM HOÀI của Ông Đặng Dung, chúng ta thấy: lời thơ, ý thơ, âm điệu thơ rất bi, hùng, tráng, làm cho ngưòi đọc cảm thông sâu sắc tình cảnh của tác gỉa, của anh hùng bất phùng thời. Đem chiếu rọi công nghiệp của Ông với li thơ Cảm Hoài, y như Hình vi Bóng.

Trước thế cuộc bi đát lòng Ông vô cùng bi phẫn.Tuy nhiên không vì bi phẫn mà trầm mình vào hồ rượu như Phạm Thái; hay phát cuồng chiều chiều vác kiếm chém đá nhưTôn Thất Thuyết.

 

Mà trái lại, lúc nào cũng mưu đồ khôi phục giang sơn cho dù tuổi đã già,vẫn mài kiếm dưới trăng “Quốc thù vị báo đầu tiên bạch, Kỷ độ Long Tuyền Đái nguyệt ma” (Bạc đầu thù nước nào nguôi,Dưới trăng mài kiếm ngậm ngùi non sông!).

 

Lý T Tấn, học giả đời Hậu Lê nhận xét về Cảm Hoài như sau: “Phi hào kiệt chi sĩ bất năng” (Nếu không phải là kẻ sĩ, hào kiệt không thể làm được bài thơ nầy” 

 

      Về Tâm Sự: xét thấy Tâm sự của ông Đặng Dung không khác mấy “Tâm Sự” hiện nay của nguời Việt dù trong hay ngoài nước..!!

 

      Về Bối Cảnh LỊCH SỬ: thi kỳ của Ô. so với hiện tình cũng gần giống.Tổ Quốc VN đã, đang bị họa xâm lăng t phương Bc..Vì vậy,người biên soạn khúc bi sử này rất mong Ý CHÍ ĐNG DUNG được truyền đạt đến bốn phương và nht là đàn em hậu tấn.Trân trọng.

 

Lời phụ bàn: có người nó̉i như vầy: - Ông Đặng Dung sống vào thế kỷ xv ( 15 ), thế thì làm sao Ông biết trái đất có trục xoay qua câu thơ: “Trí chủ hữu hoài phù điạ trục”?

 

Nguyễn Minh Thanh  biên soạn  

 

Nguồn: TN ĐT & DN TĐ, gs Trịnh Vân Thanh

Wikipedia, Đặng Dung

 

 

 

 

Trang Chính     Tin Tức - Bình Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Phỏng Vấn     Văn Học Nghệ Thuật     Tham Khảo