Sài G̣n, những ngày cuối tháng Tư 1975
Nguyễn Mạnh Trinh

Tháng tư năm 1975 có lẽ là một thời điểm không thể nào quên của dân tộc
chúng ta. Ở ngày tàn của cuộc chiến, là của chia ly và mất mát. Bao nhiêu
người đă nằm xuống sau một cuộc chiến kéo dài hơn 20 năm. Tưởng đă ḥa
b́nh, đă hết những bi thảm nào ngờ bắt đầu từ lúc ấy lại kế tiếp hết những
bi thương này qua những bi thảm khác…
Với ngày lịch sử ấy, từ nhạc đến thơ, từ tiểu thuyết đến hồi kư, đă có
biết bao nhiêu tác phẩm ghi nhận lại những bi thảm nhưng hào hùng, những
mất mát đau xót không thể nào quên được trong tâm khảm những người Việt
Nam. Hôm nay, trong cái hồi tưởng để nhớ về những ngày đă qua ấy, chúng
tôi nhắc lại những tác phẩm đánh dấu một thời điểm quan trọng của lịch sử
Việt Nam, phản ánh tâm tư thời đại, và những nỗi niềm của những người bị
quay cuồng trong con lốc thời thế...
Là một người lớn lên và trưởng thành trong xă hôi miền Nam th́ thế hệ
chúng tôi có nhiều cái chung lắm. Cùng đi học, cùng đi lính, cùng vào tù,
cùng vượt biển hay đi định cư theo diện HO, cùng lưu lạc ở hải ngoại và
cùng chung những nỗi niềm, những tâm sự về ngày đổi đời bi đát của đất
nước này. Với những cái chung của nhiều người ấy đă thành một phận đời dù
có những nét tư riêng nhưng cũng phản ánh phần nào được xă hội mà chúng
tôi đă sống, đă buồn, đă vui, đă hy vọng và thất vọng theo mệnh nước nổi
trôi…
Nhiều nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ đă sáng tác rất nhiều về đề tài này. Đă là
nghệ sĩ, th́ làm sao tránh được cái nhạy cảm với thời thế, huống chi biến
cố ấy đă ảnh hưởng trực tiếp vào đời sống. Viết văn, làm thơ, đặt nhạc về
những ngày tháng ấy là một xu hướng biểu lộ chân thực nhất mà cảm xúc cũng
như kỷ niệm riêng của mỗi người đă ảnh hưởng làm cho văn chương sinh động
hơn và có hơi thở của cuộc sống thực hơn. Tôi thấy ḿnh cũng có những xu
hướng ấy và hơn nữa nó là một động lực để tôi đến với nghiệp cầm bút.
Trước 1975, tôi chỉ là một người lính yêu sách vở và đam mê văn chương.
Sau năm 1975, khi trải qua nhiều cảnh huống và tâm t́nh không thể nào quên
của cuộc đời ḿnh, tôi chập chững đi vào công việc cầm bút cho đến ngày
hôm nay. Có thể đó là một sự t́nh cờ, nhưng có khi trong thâm tâm tôi đó
là một sự trả nợ cho những người mà ḿnh phải mang ơn họ trong cuộc sống.
Có thể họ là bạn cùng trang lứa cùng đồng ngũ với tôi, hay những người đă
mất trong một cuộc chiến. V́ thế, nếu nói một cách bóng bẩy văn hoa th́
viết là một cách thế sống để ṣng phẳng với ḿnh và với cuộc đời...
Thật ra có rất nhiều tác phẩm văn chương và âm nhạc viết về ngày cuối
tháng tư đau đớn của lịch sử Việt Nam. Đáng kể như tập hồi kư “Tháng Ba
Gẫy Súng” của Cao Xuân Huy viết về những ngày tan hàng ở Quảng Trị và
Huế, như tác phẩm “Ngày N+” của Hoàng Khởi Phong viết về cuộc di
tản từ Pleiku đến Tuy Ḥa, hay như những kư sự của kư giả Nguyễn Tú, của
nhà văn Nguyên Vũ hay những đoản thiên của nhà văn Hải Quân Phan Lạc Tiếp,
của nhà văn Không Quân Đào Vũ Anh Hùng, viết về những cuộc di tản bằng
chiến hạm hoặc phi cơ ra biển Đông…
Về thi ca, th́ cũng có rất nhiều thi sĩ và nhiều bài thơ viết về những
ngày tháng Tư buồn thảm như thơ Cao Tần, Thanh Nam, Tô Thùy Yên... Những
bài thơ rất ngậm ngùi đầy tiếc nuối của những người đă trắng tay trong một
cuộc đổi dời của lịch sử.
Nhưng với tôi, th́ gây cảm xúc nhất lại là những bản nhạc. Những bản nhạc
nhắc lại Sài G̣n, nói đến những cuộc chia ly, tả về những tiếc thương cho
một thành phố bị xóa tên và nằm trong tay quân thù. Như bản nhạc “Sài
G̣n niềm nhớ không tên” của nhạc sĩ Nguyễn Đ́nh Toàn.
Bản nhạc ấy đă gây thật nhiều cảm xúc cho tôi v́ tôi nghe bản nhạc ấy lần
đầu tiên ở trại tù Long Khánh do một người bạn đồng tù hát. Nhạc đệm chỉ
là một cây đàn guitare tự chế bằng tôn nhôm và gỗ săn nhặt được và giây
đàn được làm bằng những sơi dây điện thoại tước ra từng sợi nhỏ tạo thành.
Cũng như ca sĩ là người chung cảnh ngộ hát bằng cả tấm ḷng và giọng hát
thầm th́ như của một người đang làm một công việc mạo hiểm, hát để cho vơi
tâm sự mặc kệ mọi sự cấm đoán đe dọa của hệ thống quản giáo cai tù đầy dẫy
ăng ten báo cáo. Tôi cũng chẳng hiểu làm sao mà những bản nhạc như thế lại
được hát và phổ biến ở trong tù như vậy. Chúng tôi xung quanh ngồi nghe
như uống từng nốt nhạc, như chắt từng câu ca. Sài G̣n xa rồi, bây giờ ở
ngoài ṿng rào kẽm gai mịt mùng. Sài G̣n, vẫn c̣n gần gũi những ngày mà
thành phố thảng thốt lọt vào tay giặc thù, những anh hồn liệt sĩ c̣n phảng
phất đâu đây từ những ngày bi thảm mà chúng tôi bị buông súng một cách tức
tưởi…
Lời nhạc lôi kéo chúng tôi, ngôn ngữ hiền từ tha thiết không kêu gọi máu
lửa nhưng sao lại lôi cuốn chúng tôi dường ấy:
“Sài G̣n ơi, ta mất người như người đă mất tên -
như ḍng sông nước quẩn quanh buồn - như người đi cách mặt xa ḷng - ta
hỏi thầm em có nhớ không… Sài G̣n ơi, đến những ngày ôi thành phố xôn
xao-trong niềm vui tiếng hỏi câu chào - sáng đời tươi thắm vạn sắc màu-
c̣n ǵ đâu...”
Lúc ấy, chúng tôi chưa biết bản nhạc ấy là của nhạc sĩ Nguyễn Đ́nh Toàn.
Tên nhạc sĩ tác giả là cả một huyền thoại đối với chúng tôi lúc đó. Có
người bảo đó là của nhạc sĩ P. hát bản nhạc ấy ở hải ngoại rồi cảm xúc đến
nỗi bị ngất xỉu ngay trên sân khấu. Có người bảo đó là một bản nhạc của
một nhạc sĩ đang bị giam ở khám Chí Ḥa truyền ra ngoài và phổ biến. Đến
măi về sau, khi đă qua Mỹ định cư tôi mới biết tác gỉa là người chủ trương
Chương tŕnh Nhạc Chủ Đề trên đài phát thanh Sài G̣n và là thi sĩ, văn sĩ
nổi tiếng của hai mươi năm văn học miền Nam…
Chương tŕnh Nhạc Chủ Đề do nhà văn Nguyễn Đ́nh Toàn thực hiện trên đài
phát thanh Sài G̣n vào buổi tối ngày thứ năm hàng tuần với mục đích giới
thiệu với thính giả những bản nhạc được lựa chọn và được viết với lời giới
thiệu và giọng đọc rất đặc biệt của người chủ trương. Theo như ư kiến của
nhiều người, những lời giới thiệu nhạc hay nhất trong lịch sử âm nhạc có
lẽ là bài viết và giọng đọc của nhà văn Mai Thảo và Nguyễn Đ́nh Toàn.
Những bài viết ấy đă mở ra những khung trời lăng mạn mà người nghe có cảm
giác như đă quên đi hiện tại để bồng bềnh trong mênh mang của chữ nghĩa và
âm nhạc…
Chương tŕnh Nhạc chủ đề ấy có những lời mở đầu như những cánh tay mở
khung cửa mơ mộng, để ở đó t́nh yêu trở nên mơ màng hơn, có chuốt lọc
nhưng lạ có những cảm giác nhẹ nhàng như tơ làm mềm ḷng những tuổi thanh
xuân đang hăm hở vào đời với sự tinh khôi trong sáng của những b́nh minh
hứa hẹn những giọt nắng thủy tinh ngời tin yêu nồng biếc.
Ai đă nghe qua những lời mở thế này mà không rung động? Nhất là những
chàng tuổi trẻ ngày xưa nay đă thành những ông già lăo nh́n lại quá khứ
ngày nào đă rất xa, thật xa mà sao lại c̣n rưng rưng nỗi niềm chia sẻ:
“T́nh ca - những tiếng nói thiết tha và tuyệt vời
nhất của một đời người - bao giờ cũng bắt đầu từ một nơi chốn nào đó, một
quê hương, một thành phố, nơi người ta đă yêu nhau... Tất cả mùa màng,
thời tiết, hoa lá, cỏ cây, của cái vùng đất thần tiên đó, kết hợp lại, làm
nên hạnh phúc, làm nên nỗi tiếc thương của chúng ta…”
Hay như một lời ngỏ khác, thầm th́, kêu gọi những bước trở về, đi ngược
lại ṿng quay vô t́nh của thời gian:
“Em đâu ngờ anh c̣n nghe vang tiếng em trong tất cả những tiếng động
ngù ngờ nhất của cái ngày sung sướng đó: tiếng gió may thổi trên những
cành liễu nhỏ, tiếng những giọt sương rơi trên mặt hồ, tiếng guốc khua
trên hè phố… Ngần ấy thứ tiếng động ngân nga trong trí tưởng anh một thuở
thanh b́nh nào, bây giờ đă gần im hơi, nhưng một đôi khi vẫn c̣n đủ sức
làm ran lên trong kư ức một mùa hè háo hức, một đêm mưa bỗng trở về, gió
cuốn từng cơn nhớ… Anh bỗng nhận ra anh vẫn c̣n yêu em, dù chúng ta đă xa
nhau như hia thành phố…”
Tôi thời c̣n là sinh viên đă rất mê chương tŕnh này. Có thể nói, đó là
một phần khá đẹp của cuộc sống tôi. Bây giờ, nghe lại CD của Nhạc Chủ Đề
cũ, tôi lại bồi hồi và một phần đời đă qua như hồi sinh lại.
Sau này, ở xứ Mỹ này, tôi có hỏi ông về trường hợp sáng tác bản nhạc này
như thế nào th́ ông chỉ nói qua với sự rất hờ hững coi như đó chỉ là một
trong những gần trăm bản nhạc ông đă sáng tác. Và ngay cả khi tôi hỏi về
cách ông thực hiện hàng trăm chương tŕnh nhạc làm say mê cả một thế hệ
trẻ trong thời kỳ ấy hoặc hỏi về mấy trăm bài thơ và mấy chục tác phẩm vừa
tiểu thuyết vừa tùy bút nổi danh một thời th́ cũng với vẻ hờ hững ấy, ông
cũng trả lời với vẻ thản nhiên của một người đă trải qua nhiều thay đổi và
hiểu được rằng có những điều không cần biện giải của cái tự nhiên đă có.
Cũng như, khi tôi hỏi về những khó khăn của cuộc sống hiện nay, ông cũng
trả lời chẳng có ǵ cực nhọc dù rằng tôi hiểu được đó là một sự thản nhiên
chấp nhận của một người đă trải qua nhiều mệt mỏi của cuộc đời.
Đó là những ca khúc mà ông gọi là viết trong những thời gian tăm tối nhất
của lịch sử và của chính cuộc sống ông. Nhưng đó lại là những lời kêu gọi
yêu thương mong con người trở về với t́nh tự dân tộc. Có những bài hát
trong tuyển tập nhạc “Hiên cúc vàng”, “Tôi muốn nói với em”
và
“Mưa trên cây hoàng lan”
đă chứng tỏ điều ấy. Chất nhân bản đă làm thành những ca từ đẹp và có sức
thuyết phục mạnh với thính giả và cũng chuyên chở một cách thâm trầm những
thông điệp gửi cho người cho đời những ước vọng và tâm sự.
Những lời nhạc như
“Tôi đă bám lấy đất nước tôi bằng sức người vô hạn. Bằng sức người đầu
đội trăm tấn bom. Tim mang ngh́n dấu đạn. Tôi đă đổ mồ hôi, đổ máu tươi.
Để mong ở lại đây. Nhưng đất đă đỏ v́ bị nung bằng những lời dối trá.
Người bám vào lửa đă đốt cháy tay. Lửa hờn căm, lửa hiểm thâm, lửa khốn
cùng cay đắng. Người lừa nhau trời đất c̣n bưng mặt thảm thương. Ba mươi
năm cuộc tương tàn chưa đủ? người giết người không kịp mở mắt trông. Ba
mươi năm mạng người như rác cỏ. Giây ḥa b́nh c̣n thắt cổ người tin…”
trong bản nhạc
“Tôi cố bám lấy đất nước tôi”
có phải là những lời chân thành dù trong cơn tuyệt vọng nhưng vẫn c̣n cố
gắng bám víu vào cuộc sống một ư nghĩ nào tích cực nhất?
Những lời ca viết cho thành phố Sài G̣n trong thời thế ấy bỗng dưng trở
thành những lời kêu gọi của một dân tộc đă chịu quá nhiều đau khổ. Hết rồi
những cơn mưa chiều cũ, mất rồi những buổi sáng rực rỡ xưa. Lời ca, ư nhạc
lôi kéo chúng ta trở về con hẻm nào của những hẹn ḥ, của nụ hôn môi tuyệt
vời, của hương tóc thề e ấp phả trong tà áo lụa xôn xao. Cái cảm giác ngày
nào như sống lại, làm gai gai trong da thịt nỗi ngây ngất thuở nào. Nghe
đâu đây như bước chân nào trở về đồng vọng...
Bản nhạc ấy là “Sài G̣n ơi vĩnh biệt” của nhạc sĩ Nam Lộc. Lại cũng
là tiếng gọi bi thiết nhưng tràn đầy thương yêu về thành phố mà có người
nói rằng đó là chỗ để người ta yêu nhau. Nhạc Nam Lộc gợi cho tôi những
nỗi niềm của một người mong nhớ với tâm trạng dằn vặt. Những lời ca thất
thanh của một người mất quê hương:
“Sài G̣n ơi tôi đă mất người trong cuộc đời. Sài G̣n ơi thôi đă hết
thời gian tuyệt vời. Giờ c̣n đây những kỷ niệm sống trong tôi. Những nụ
cười ngắt trên môi. Những giọt lệ ôi sầu đắng. Sài G̣n ơi nắng có c̣n
vương trên đường. Đường ngày xưa mưa có ướt ngập lối đường về. Rồi mùa thu
lá c̣n đổ xuống công viên. Bóng gầy c̣n bước nghiêng nghiêng. Hay đă khóc
thương cho người yêu…”
H́nh như, tôi thấy tôi đă kêu thất thanh như thế trong cuộc đời tôi...
Không phải tôi nói văn hoa đâu mà tôi đă nhiều lần kêu “thất thanh”như
thế! Như một lần trong ngày 30 tháng tư năm 1975 khi tôi từ Cần Thơ trở về
lại nhà ở Sài G̣n!
Trước ngày 30 tháng tư năm 1975, tôi chỉ đi học và đi lính, nhưng sau ngày
ấy th́ tôi đi tù v́ không di tản được. Mặc dù tôi ở trong Không quân và
ngày ấy đang làm việc ở phi trường Tân Sơn Nhứt.
Đơn vị của tôi là Đoàn phi đạo F5 thuộc Sư Đoàn 3 Không quân ở phi trường
Biên Ḥa sau ngày 20 tháng tư năm 1975 th́ một phần lớn phi cơ di chuyển
về phi trường Tân Sơn Nhứt. Ngày 30 tháng 3 đáng lẽ tôi phải biệt phái ra
Đà Nẵng để làm biệt đội trưởng kỹ thuật để bàn giao phi đạo cho Sư Đoàn I
Không Quân nhưng Đà Nẵng đă thất thủ. Trước ngày đó chúng tôi đă chở từ
Biên ḥa ra Đà Nẵng rất nhiều quân dụng và cơ phận thay thế của phi cơ trị
giá cả chục triêu đô la và lúc đó kể như thiệt hại hết. Một số nhân viên
biệt phái thoát về kể lại cảnh tượng ở Đà nẵng khiến người nghe phải rùng
ḿnh. Chiếc Boeing 727 thuê bao của Trung Hoa Quốc Gia cất cánh mà cửa
chân đáp không đóng được v́ một số hành khách đă ôm vào chân đáp nên phi
cơ phải bay từ từ về Sài G̣n trong khi những người bám vào chân đáp bị
rụng rớt v́ không chịu nổi áp lực của không khí chỉ c̣n vài người buộc
ḿnh vào phi cơ mới không rớt dù khi máy bay đáp xuống đă bất tỉnh. Ở trên
phi đạo Đà Nẵng là cả một rừng người và t́nh trạng lộn xộn khiến tất cả
các phi cơ vận tải không thể đáp xuống để bốc người không vận về Sài G̣n.
Chính ở Sư Đoàn 3 KQ cũng dự trù dùng phi cơ AD5 để bốc các chuyên viên kỹ
thuật biệt phái về nhưng không thực hiện được…
Rồi sau đó các căn cứ Pleiku, Phù Cát, Nha Trang, di tản rồi căn cứ Phan
Rang thất thủ.
Ỏ Tân Sơn Nhứt những ngày cuối tháng tư t́nh trạng khá hỗn loạn v́ các sư
đoàn KQ di tản về. Từ băi đậu phi cơ văng lai vào đến phi đạo bên trong
phi cơ đậu thành hàng đông nghẹt. Trực thăng, A37, phi cơ quan sát xếp xen
vào nhau thành ra vấn đề an toàn khá phức tạp. Ở khu huấn luyện sư đoàn
đầy nghẹt những quân nhân về tŕnh diện từ các đơn vị đă bị tan hàng, mọi
người đều linh cảm rằng một cơn địa chấn dữ dằn sẽ tới.
Gia đ́nh tôi th́ đă ra đi nên tôi làm việc và ở luôn trong phi trường.
Hàng đêm, chúng tôi lái xe ra băi đậu phi cơ xem những chuyến bay chở
người di tản. Nếu quyết định ra đi lúc đó th́ khá dễ dàng, chỉ cần thay
quân phục và mặc đồ dân sự là có thể leo lên phi cơ một cách dễ dàng.
Nhưng tôi vẫn nghĩ không thể nào thua trận mau chóng như vậy được và nghĩ
rằng đi lúc đó là quá sớm. Đến đêm 27 tháng tư, căn cứ Biên Ḥa di tản về
Tân Sơn Nhứt. Và lúc đó quả thực tôi bị chấn động và hiểu rằng ngày cuối
đă tới. Suốt đêm phi cơ bay đầy trời và chúng tôi đă phụ giúp để trang bị
rocket và đạn cho phi cơ trực thăng gunship bay yểm trợ trên các mặt trận
ven thành phố.
Chiều ngày 28, lúc TT Trần Văn Hương bàn giao cho tướng Dương Văn Minh ở
Dinh Độc Lập th́ năm phi cơ A37 oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhứt do tên
phản tặc Nguyễn Thành Trung dẫn về khi các phi tuần nghênh cản pḥng không
F5E chấm dứt túc trực. Lúc ấy, tôi đang tập họp biệt đội trong hangar th́
xảy ra biến cố ấy. Và sau đó đến bốn giờ sáng th́ các đợt pháo kích ác
liệt của Cộng quân vào phi trường. Trong phi trường khói lửa tùm lum, một
hỏa tiễn 122 ly rớt trúng phân đội nữ quân nhân. Lúc sáng sớm, tôi lái xe
qua khu vực ấy c̣n thấy những mảnh quần áo và cả da thịt vương văi trên
những tàng cây. Buổi sáng, tôi leo lên F5 rồi không đi. Kết quả là chiếc
phi cơ ấy bị rớt ở phi trường Utapao ở Thái lan hy sinh tất cả những người
trên phi cơ. Rồi tôi lên trực thăng xuống Cần Thơ và bị kẹt lại đến chiều
30 th́ xuống Rạch Giá kiếm đường vượt biển nhưng cũng không xong và ngày 1
tháng 5 th́ phải trở lại Sài G̣n…
Trên đường từ Cần Thơ trở về tôi đă nh́n thấy ở dọc đường quốc lộ số 4
những cảnh tượng mà tôi không thể nào quên. Hai bên đường những chiếc xe
tăng và những chiếc trực thăng nằm chỏng chơ và quần áo trận, nón sắt, dây
ba chạc, giày lính... vứt lộn xộn tạo ra một khung cảnh điêu tàn của một
trận chiến về chiều. Đi từng đoạn rồi cũng về tới Sài G̣n về nhà để thấy
căn nhà ḿnh ở bị niêm phong. Tôi vô nhà đại và mang vài vật dụng đi ra và
đau ḷng biết bao nhiêu khi nh́n thấy vật dụng hàng ngày của mẹ tôi và các
anh em tôi trong một căn nhà mà tôi bị đuổi ra v́ cả gia đ́nh đă di tản.
Tôi muốn khóc khi nh́n thấy ô trầu của mẹ, khi nh́n thấy đôi dép mẹ đi,
cái áo ấm mẹ mặc. Vật th́ c̣n nhưng người đă đi xa, biết đến bao giờ mới
gặp lại… Và không biết ở phương xa, có c̣n trầu cau để cho mẹ ăn không?
Buồn thật phải không? Quốc phá th́ gia vong. Người xưa đă nói th́ chẳng
sai chạy được…
Nguyễn Mạnh Trinh
|