Cộng sản Việt Nam và văn hóa của dân tộc Việt
Nguyễn Lương Tuyền MD
- Chế độ cộng sản tại Việt Nam (CSVN) được Hồ Chí Minh (một cán bộ của
cộng sản Quốc Tế) và đám đệ tử trong Đông Dương Cộng Sản Đảng - cánh tay
nối dài của phong trào cộng sản quốc tế - du nhập vào Việt Nam vào những
năm 30's của thế kỷ 20. Với chiêu bài lường gạt “kháng chiến, dành độc
lập”, Hồ Chí Minh và các đồng chí của y đă đưa toàn thể dân tộc vào quĩ
đạo cộng sản sau 2 cuộc chiến tàn khốc: 1946-1954 ở Miền Bắc và 1959-1975
tại Miền Nam. Hơn 3 triệu người đă chết trong 2 cuộc chiến này; hàng triệu
người đă phải bỏ quê hương ra đi tỵ nạn tại hầu hết các nước tự do trên
thế giới. Đó là một cuộc lường gạt khổng lồ - lường gạt dân tộc Việt,
lường gạt cả thế giới - có một không hai trong lịch sử của loài người.
Cuộc lường gạt đó đă kéo dài gần một thế kỷ, đưa đến những tàn phá về tinh
thần và vật chất không bút nào tả xiết. Hậu quả của chủ nghĩa CS tại quê
hương Việt Nam là đất nước - sau 40 năm “Xă Hội Chủ Nghĩa” - vẫn là một
nước nghèo đói. Hơn bao giờ hết, quê hương đang bị đe dọa bởi viễn tượng
nô lệ Trung cộng mà kẻ bán đứng quê hương chính là đảng CSVN. Những hậu
duệ của Hồ Chí Minh trong đảng CSVN vẫn tiếp tục lường gạt dân tộc cho đến
ngày hôm nay.

Sau hơn 20 năm (1954-1975) ngự trị tại Miền Bắc, 40 năm (từ 1975 tới ngày
nay) trên toàn cơi đất Việt, Cộng sản chủ nghĩa đă thay đổi hoàn toàn tâm
hồn, suy tư cũng như tâm t́nh của người dân Việt sống dưới chế độ điên rồ
này. Hàng ngày những tin “xấu” về người Việt khi đi ra nước ngoài làm ta
cảm thấy đau ḷng và nhục nhă.
Hiện nay Malaysia, Singapore... đă từ chối không cho nhập cảnh vào nước
của họ hàng trăm cô gái Việt tuy rằng người Việt vào các nước này không
cần Visa. Lư do từ chối là các cô gái này chỉ muốn nhập cảnh các nước trên
để làm “nghề không vốn”. Người Việt ra nước ngoài bị khinh rẻ v́ nổi tiếng
là ăn cắp, buôn lậu. Mới đây đă có một số người Việt theo “tours” đi du
lịch ở Thụy Sĩ, hai người trẻ trong đoàn du lịch đă bị cảnh sát Thụy Sĩ
bắt v́ ăn cắp. Những hành vi nhục nhă, thực đáng xấu hổ do các người Việt
đi ra nước ngoài để du lịch, do các du học sinh Việt Nam gây ra khiến ta
bàng hoàng, đau buồn tuy không mấy ngạc nhiên v́ đó đích thực là
sản phẩm của “văn hóa xă hội chủ nghĩa”.
Việt Nam, hiện nay, là thế giới của ăn cắp, lừa đảo. Làm nhỏ ăn cắp nhỏ,
làm lớn ăn cắp lớn. Cả nước là địa bàn của những tên ăn cắp.

Văn Hóa của một dân tộc là ǵ?
Sau đây là định nghĩa, khái niệm về văn hoá của Tổ chức Văn Hóa Quốc tế
(UNESCO) trong Hội nghị về Văn hóa Quốc tế họp năm 1982 tại Mexico:
- Văn hoá là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật chất, trí
tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xă hội hay của một nhóm người
trong xă hội.
- Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ
bản của con người, những hệ thống giá trị, như tập tục tín ngưỡng...
Theo Việt Nam Văn hóa Sử cương (Đào Duy Anh): hai tiếng văn hóa chỉ chung
các sinh hoạt của loài người. Các dân tộc có sinh hoạt khác nhau nên văn
hóa của các dân tộc cũng khác nhau. V́ vậy văn hóa thay đổi khi cuộc sống
của con người biến thiên thay đổi. Văn hoá của chúng ta, ngày nay, có
những điểm khác với văn hóa của các thế hệ trước. Văn chương, chữ nghĩa,
âm nhạc... chỉ là một phần của văn hóa.
Đảng CSVN và Văn hóa Việt
Ngay từ những ngày chủ nghĩa Cộng Sản mới được đưa vào VN, Hồ Chí Minh và
đồng bọn đă chú trọng đặc biệt đến khía cạnh văn hóa của đất nước trong
tiến tŕnh “Cộng sản hóa quê hương “. Năm 1943, Trường Chinh (lư thuyết
gia của đảng) đă vạch ra những nét chính của chính sách văn hóa của đảng
CSVN trong Luận cương Đề cương Văn hóa.
- Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế và văn
hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động. Đảng không phải chỉ làm cách mạng
chính trị mà phải làm cách mạng văn hóa nữa. Người CS quan niệm có lănh
đạo được phong trào văn hóa, đảng mới có thể có được ảnh hưởng đến dư
luận, việc tuyên truyền cho chủ nghĩa cộng sản của đảng mới có hiệu quả.
- Cách mạng văn hóa ở VN phải dựa vào cách mạng giải phóng dân tộc mới có
điều kiện phát triển.
Năm 1948, trong kỳ đại hội đảng, Trường Chinh đă có bài tham luận: “Chủ
nghĩa Mác và Cách Mạng Việt Nam”, trong đó Trường Chinh nhấn mạnh về
lập trường văn hóa của đảng như sau:
- “về xă hội lấy giai cấp công nhân làm gốc;
- về độc lập lấy độc lập dân tộc, dân chủ nhân dân và chủ nghĩa xă hội làm
gốc;
- về tư tưởng lấy học thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm
gốc;
- về sáng tác văn nghệ lấy chủ nghĩa xă hội làm gốc”.
Trong một kỳ họp các người làm văn nghệ, báo chí, Trường Chinh đă tuyên
bố:
“Các đồng chí đă hiến dâng con tim cho cách mạng, cho đảng vậy các
đồng chí phải sáng tác theo những điều đă được đảng đề ra. Các đồng chí
phải sáng tác theo tinh thần xă hội chủ nghĩa”.
Các đại hội đảng kế tiếp đều xác định sự quan trọng của cách mạng văn hóa:
- Tranh đấu bảo vệ học thuyết tư tưởng; đề cao thuyết duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử. Đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á có
nhiều ảnh hưởng tai hại trên nước ta như Khổng Mạnh, Descartes, Bergson,
Kant, Nietzstche...
- Mục tiêu của cách mạng văn hoá là xây dựng “con người mới, con người xă
hội chủ nghĩa” như Hồ Chí Minh đă phác hoạ; “muốn có chủ nghĩa xă hội cần
phải có con người xă hội chủ nghĩa”;
- “Phải coi quá tŕnh xây dựng nền văn hóa mới là đấu tranh không khoan
nhượng, xóa bỏ và đẩy lùi các văn hóa phản động, đồi trụy do chủ nghĩa
thực dân mới của đế quốc Mỹ để lại hay do các âm mưu của các lực lượng
phản động;
- Nền văn hóa mới của ta xây dựng là nền văn hóa có nội dung xă hội chủ
nghĩa và tính chất dân tộc, có đảng tính, tính nhân dân sâu sắc”.
Đảng Cộng sản đă đưa ra các chỉ thị về đương lối sáng tác cho các văn nghệ
sĩ theo. Đó là “sáng tác để phục vụ đảng, phục vụ Xă Hội Chủ Nghĩa”. Những
ai sáng tác ra ngoài đường lối do đảng CS đưa ra sẽ bị loại trừ trừ không
nhân nhượng. Vụ Nhân Văn Giai phẩm tại Miền Bắc năm 1956 là thí dụ điển
h́nh về sự kiểm soát bằng bàn tay sắt của đảng đối với các văn nghệ sĩ của
Miền Bắc Xă Hội Chủ Nghĩa.
Trong quá tŕnh áp đặt chủ nghĩa cộng sản lên dân tộc, CSVN đă dùng mọi
phương tiện trong đó có bạo lực giết người, dối trá, lựng gạt, tuyên
truyền...
Chủ nghĩa xă hội hay đúng hơn văn hóa cộng sản đă biến đổi người Việt.
Hơn 20 năm Cộng Sản tại Miền Bắc, hơn 40 năm cộng sản hóa toàn nước Việt,
văn hóa cộng sản đă để lại những vết hằn xấu xa (cicatrices indélébiles)
trên người dân Việt
Chế độ CS đă làm thay đổi hoàn toàn con người Việt Nam. Sống ở VN xă hội
chủ nghĩa, phần lớn người Việt trở nên tàn bạo, tráo trở, vô cảm. Ta nhớ
lại những cuộc tàn sát không gớm tay, không c̣n mảy may nhân tính người
dân lành vô tội tại những nơi do họ kiểm soát. Thí dụ như cuộc tàn sát dân
lành ở Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968.
Khi chiếm được Miền Nam, CS đă lộ nguyên h́nh là những tên ăn cướp, ăn
cắp, nói dối không ngượng miệng. Tài sản của người dân Miền Nam bị họ
ngang nhiên chiếm đoạt, theo đúng khẩu hiệu 4V (vào, vơ vét, về). Chế
độ nào, văn hóa nào sẽ sinh ra các con người phản ảnh của nền văn hóa đó.
Chế độ CS nhằm triệt tiêu tất cả nhân tính của con người, biến họ thành
những con người tàn ác, tráo trở, gian xảo...
Gia đ́nh là nền tảng của xă hội trong khi đối với người CS nền tảng gia
đ́nh cũ phải bị hủy diệt v́ CS là vô gia đ́nh. Những giá trị, truyền thống
gia đ́nh từ ngàn xưa bị CS t́m mọi phương tiện để tiêu diệt thay vào đó là
nền văn hóa xă hội chủ nghĩa; nền văn hóa trong đó người trong cùng một
gia đ́nh tố cáo, nghi kỵ lẫn nhau. Người CS coi đạo hiếu là một xa xỉ phẩm
c̣n rơi lại của thời phong kiến. Người ta đă thấy cảnh con tố cha, vợ tố
chồng trong cuộc “cải cách ruộng đất long trời lở đất” của những năm
1954-1956 tại Miền Bắc nước Việt ngay sau khi CS kiểm soát toàn miền Bắc.
Tôn giáo ḥa đồng là một nét đặc thù của văn hóa Việt Nam. Cộng sản là vô
tôn giáo. Cộng sản coi tôn giáo là “thuốc phiện” cần phải loại trừ. CS t́m
đủ mọi cách để tiêu trừ ảnh hưởng của tôn giáo lên người dân. Các giáo hội
bị CS đàn áp, họ dùng đủ mọi cách để tiêu diệt bằng những hạn chế tu học,
những giáo hội quốc doanh... Tài sản của các giáo hội bị tịch thu để các
giáo hội không c̣n phương tiện để phát triển, giáo phẩm bị đàn áp, tù đầy.
Việc đào tạo những hàng giáo phẩm mới để thay thế những người quá già hay
bệnh hoạn cũng bị nhà nước cộng sản làm khó dễ, phải xin phép nhà cầm
quyền.
Ngay từ những năm 50's, các người làm nghệ thuật tại Miền Bắc hoàn toàn
khuất phục CS. Họ chỉ có một con đường sáng tác đó là phục vụ xă hội chủ
nghĩa, phục vụ đảng nếu muốn hiện hữu dưới ṿm trời xă hội chủ nghĩa. Các
thi sĩ lăng mạn nổi tiếng thời tiền chiến như Xuân Diệu, Huy Cận... dưới
sự “dẫn đạo, chỉ huy” của đảng, chỉ cho ra đời những “bài vè” sặc mùi
Bolchevik, tuyên truyền cho chế độ, ca tụng chế độ “cộng sản siêu việt, ca
tụng bác và đảng”. Các nhạc sĩ nổi tiếng lăng mạn thời tiền chiến như Văn
Cao, Nguyễn Văn Tư, Hoàng Giác... đă trở thành các nhạc sĩ cho loại nhạc
tuyên truyền cho chế độ. Họ không có một sáng tác nào - hay không được
phép sáng tác những bài nhạc t́nh cảm, lăng mạn như hồi chưa gia nhập hàng
ngũ những người cộng sản. Nhà thơ Hữu Loan, v́ làm bài thơ khóc vợ “Mầu
tím hoa sim” đă bị phê b́nh là “lăng mạn, thiếu chiến đấu tính, thiếu
“đảng tính”.
Các tác phẩm sáng tác đi ra ngoài đường hướng của đảng đều bị cấm lưu
hành, tác giả bị trù ểm, tù đày, cấm sáng tác, mất hộ khẩu. CS cai trị
bằng chế độ “hộ khẩu”, nghĩa là kiểm soát mọi người bằng cách kiểm soát
“bao tử của người dân”, nghĩa là kiểm soát khả năng sinh tồn (instinct de
survie) của con người. Đảng không bao giờ cho dân chúng ăn đủ no bằng chế
độ “hộ khẩu”. Không có “hộ khẩu” đồng nghĩa với “đói” v́ không hộ khẩu sẽ
không có ǵ để ăn. Người dân ở chế độ CS sợ nhất là bị “cắt hộ khẩu”.
Báo chí, sách vở, các phương tiện truyền thanh, truyền h́nh là những cái
loa của chế độ. Trong chế độ CS, không có báo tư nhân. Tất cả báo chí là
của chế độ. Nghệ thuật không được vị nghệ thuật, nghệ thuật cũng
không được vị nhân sinh mà chỉ để phục vụ đảng và phục vụ chế độ.
Khi chiếm được Miền Nam, cộng sản đă cho hơn 1 triệu người vào các nhà tù.
Tất cả các văn nghệ sĩ đều bị bắt, giam giữ. CS coi họ là những phần tử
nguy hiểm cho chế độ nên cần phải vô hiệu hóa hay loại trừ. Không ai được
phép sáng tác ở ngoài khuôn khổ được đảng và nhà nước cho phép. Có người
bị tù rất lâu như nhà thơ lăng mạn Cung Trầm Tưởng, thi sỹ Thanh Tâm Tuyền
Dư Văn Tâm, Ca sĩ Duy Trác... Nhiều người đă bỏ ḿnh trong trại tù như Thi
sĩ Vũ Hoàng Chương (chỉ được thả ra lúc đang hấp hối), các nhà văn, nhà
báo như Hiếu Chân, Nguyễn Mạnh Côn, Dương Hùng Cường, nhạc sĩ nổi tiếng
Minh Kỳ. Các bài nhạc lăng mạn của một thuở nhạc t́nh của Miền Nam bị CS
gọi là “nhạc vàng”' đều bị cấm đoán.
Kết luận
CS Việt Nam đă phá hủy nền văn hóa cổ truyền của dân tộc để thay bằng “văn
hóa” Mácxit-Lê nin lít. Người dân sống dưới chế độ cộng sản, hay được sinh
ra và lớn lên trong một môi trường cộng sản đă hoàn toàn thay đổi để trở
thành những tên ăn cắp, nói dối, lừa đảo, tàn bạo và vô cảm. Những người
lănh đạo đảng CSVN vẫn kềm kẹp dân tộc trong một thể chế đă lỗi thời, bị
thế giới từ bỏ. Dân Việt vẫn ỳ ạch lội ḍng nước ngược của tiến bộ văn
minh trong khi các nước khác ở trong vùng trở nên những cường quốc về mọi
phương diện, nhất là phương diện kinh tế. Việt Nam bây giờ rất nổi tiếng
về tham nhũng, nổi tiếng v́ các tệ đoan xă hội. Người dân các nước trong
vùng nh́n người Việt với con mắt khinh khi. Trước năm 1975, dù phải đối
phó với một cuộc chiến tàn khốc do cộng sản miền Bắc gây ra, Việt Nam Cộng
Ḥa vẫn có những tiến bộ về mọi phương diện vượt qua các nước khác ở Đông
Nam Á. Viễn tượng một cuộc đổi đời ở Việt Nam vẫn c̣n tối tăm, xa vời ngày
nào những người Cộng Sản c̣n ngự trị trên quê hương.
Ngày 9 tháng 8, trong “Đại Hội Báo Chí” số 10 ở Hà Nội, người đứng đầu
Đảng Cộng Sản Việt Nam, đă tuyên bố: “báo chí là vũ khí sắc bén, là
công cụ của Đảng trên mặt trận tư tưởng. Mỗi người làm báo là một chiến sĩ
cách mạng. Đảng lănh đạo tuyệt đối và toàn diện đối với báo chí”.
Phải vài thế hệ sau khi người Cộng Sản biến mất trên quê hương, quê hương
được hoàn toàn tự do, văn hóa Việt mới có thể thay đổi tận gốc để thăng
hoa.
Dân tộc chỉ tiến bộ, đất nước chỉ tiến
bộ trong một quê hương không bóng dáng người Cộng Sản..
12.08.2015
McGill University Montreal Canada
Nguyễn Lương Tuyền