Khi người lao công quét dọn thuyết tŕnh
Ngày ấy... năm 1994, TRW (Thompson Ramo Wooldridge, Inc.) với 8 hăng lớn khác trúng thầu của Bộ Năng Lượng (Department of Energy) về việc nghiên cứu thiết lập một “kho phế thải chứa đựng chất phóng xạ” (Radioactive Waste Management) trong ḷng núi Yucca Mountain cách thành phố Las Vegas, tiểu bang Nevada, khoảng 100 dặm về hướng Tây Bắc. Lúc bấy giờ tôi là trưởng toán kỹ thuật của TRW chịu trách nhiệm nối kết các hệ thống máy móc từ hiện trường (Yucca Mountain) về văn pḥng Bộ Năng Lượng ở Hoa Thịnh Đốn về trụ sở của 9 hăng xưởng rải rác trên khắp nước Mỹ nên “bị” chỉ định thuyết tŕnh phần “Systems Integration” trong cuộc họp “kick off”. Hiện diện trong cuộc họp này, ngoài ban quản trị và một số nhân viên kỳ cựu của các hăng trúng thầu, c̣n có đại diện chính chức của Bộ Năng Lượng, cùng những người rất quan tâm tới vấn đề bảo vệ môi sinh v́ lo sợ ảnh hưởng của chất phóng xạ trên vùng đất của họ như: Thống Đốc, Nghị sĩ và Dân Biểu của tiểu bang Nevada.
Sau khi nhận được tin, tôi đă lên gặp ông giám đốc lo về kỹ thuật của TRW để năn nỉ xin ông đổi người khác, hoặc chính ông ta thuyết tŕnh v́ tôi run lắm. Ông ta chẳng những không chấp thuận mà c̣n nhắc tôi rằng đây là “vinh dự” của hăng TRW nên phải cố gắng hết sức ḿnh làm cho tốt trước mặt “bá quan văn vơ” của chính phủ cũng như ban quản trị của các hăng khác. Tôi t́m gặp một vài người Việt Nam đă làm cho TRW lâu năm xin ư kiến, ai ai cũng sợ cho tôi, v́ tiên đoán tôi sẽ bị những chuyên viên của nhiều hăng khác bắt bẻ về kỹ thuật, và nhất là bị kỳ thị v́ giọng nói tiếng Anh không chuẩn. Tôi làm liều gọi cho “xếp lớn” của TRW xin ông can thiệp để thay đổi nhưng chính ông ta lại bảo tôi rằng đây là “ván bài định mệnh” và hăy dẹp hết những công việc khác, lo chuẩn bị kỹ lưỡng v́ ban giám đốc đă họp bàn nhiều lần trước khi quyết định đưa tôi ra làm người thuyết tŕnh về kỹ thuật...
Tôi đă “ăn không ngon, ngủ không yên” suốt hai tuần lễ chuẩn bị tài liệu thuyết tŕnh, và cuối cùng lại c̣n run sợ hơn nữa v́ cuộc họp được dời về trụ sở của hăng Booz, Allen & Hamilton (BAH) để tiện đường “Metro” (xe điện ngầm) cho những người tham dự, đặc biệt là nhân viên chính phủ đến từ Hoa Thịnh Đốn. Tôi chẳng xa lạ ǵ với hội trường của hăng BAH, v́ lúc mới qua Mỹ tôi vẫn tới nơi này mỗi tối để lau chùi quét dọn trong thời gian c̣n là sinh viên ở Virginia. Tôi lo sợ không biết những nhân viên và ban quản trị tại đây sẽ nghĩ ǵ về ḿnh khi nhận ra anh chàng “thuyết tŕnh viên” hôm đó xuất thân là người “lao công quét dọn” văn pḥng cho họ hơn 8 năm về trước. Tôi tâm sự với một số bạn bè người Việt trong sở về điều này và người nào cũng ưu tư lo lắng cho tôi. Đă tới đường cùng nên tôi chỉ biết liều ḿnh “nhắm mắt đưa chân” phó mặc cho số phận. Ngay từ đầu, cơ hội thành công của tôi chỉ như “sợi tóc treo mành” v́ tất cả những hăng đấu thầu đều muốn gạt TRW ra khỏi vị trí đứng đầu về kỹ thuật trong đề án mới; riêng cá nhân tôi chỉ là một người “thiểu số” nói tiếng Anh chưa rành... và bây giờ lại c̣n thêm mặc cảm là người “lao công quét dọn” ngay chính nơi ḿnh sẽ lên bục đứng thuyết tŕnh.
Buổi sáng hôm đó tôi tới “hiện trường” thật sớm nhưng đă có lác đác một số người đang xếp hàng trước pḥng tiếp tân để nhận tên và tài liệu. Theo chương tŕnh, tôi và 4 người thuyết tŕnh khác sẽ lên họp bàn với phát ngôn viên của Bộ Năng Lượng khoảng 30 phút trước khi bắt đầu, để làm quen và thống nhất chương tŕnh làm việc. Vừa bước vào văn pḥng phía sau hội trường, tôi đă đụng đầu ngay ông Sam, phó chủ tịch của hăng BAH, đang đứng tán gẫu với người điều khiển chương tŕnh hôm đó, bà Jeanette, phát ngôn viên của Bộ Năng Lượng. Sau khi bắt tay giới thiệu, ông ta quay sang hỏi tôi:
Tôi thấy anh quen lắm, không biết chúng ḿnh đă bao giờ gặp nhau chưa?
- Tôi đă nhận ra ông Sam chính là vị giám đốc đă từng nói chuyện và khích lệ tôi ngày trước, mỗi khi tôi đến hút bụi văn pḥng cho ông v́ hầu như tối nào ông ấy cũng ở lại rất trễ, nên nhỏ nhẹ trả lời:
- Gần 10 năm trước, tôi vẫn tới dọn dẹp văn pḥng cho ông mỗi tối.
- À ha. Anh chính là “người sinh viên trẻ” vừa đi học vừa làm lao công ban tối. Đúng rồi. Tôi đă nhớ ra rồi. Anh chỉ già dặn hơn một tư. Khâm phục... Khâm phục!
Tôi chỉ biết mỉm cười nói “cám ơn”, c̣n bà Jeanette th́ niềm nở:
- Hay quá! Nếu anh John không ngại, tôi sẽ dùng chi tiết này để giới thiệu về anh trước khi thuyết tŕnh. Sam nghĩ sao?
- Tôi cũng nghĩ vậy. Để xem... Từ hơn 8 năm nay, tôi không gặp lại John, và tôi cũng chưa bao giờ gặp một người lao công ham học như thế. Tôi c̣n nhớ John đă từng xin tôi những xấp giấy chi chít những “source code” nhân viên của tôi vất thùng rác để về nghiên cứu học hỏi thêm. Đáng lẽ ngày đó tôi nên nói chuyện với anh nhiều hơn và thuê anh vào làm trong hăng của tôi... Sau khi anh nghỉ làm ban đêm, tôi hỏi thăm mới biết anh đă ra trường và có việc làm tốt, nhưng tôi không ngờ “thuyết tŕnh viên kỹ thuật” hôm nay lại chính là anh. Anh xứng đáng làm thầy của chúng tôi!
Sau đó, bà Jeanette nhờ ông Sam ghi lại những chi tiết về cá nhân tôi trong khi bà tiếp tục gặp gỡ và nói chuyện với những thuyết tŕnh viên khác v́ đă có vài người tới pḥng họp. Sau mấy phút giới thiệu và họp bàn về buổi thuyết tŕnh, ai ai cũng vui vẻ khích lệ tôi... Theo chương tŕnh, bà Jeanette và ông Sam sẽ điều hợp chương tŕnh và năm chúng tôi sẽ ngồi trên “sân khấu”, quay mặt xuống hội trường với khoảng gần 400 người tham dự. Tôi sẽ là người thuyết tŕnh cuối cùng v́ trước đó, đại diện Bộ Năng Lượng sẽ nói sơ qua kế hoạch chung của quốc gia về vật liệu phế thải chất phóng xạ, một người sẽ nói về dự án “Yucca Moutain”, rồi các công ty trúng thầu, hăng nào lo phần nào cũng như kế hoạch nghiên cứu, quản lư tài chánh và cuối cùng là hệ thống thông tin, nối kết tất cả vào một mối do chính tôi tŕnh bầy.
Tôi mừng thầm trong bụng v́ bước đầu coi như thuận lợi. Trong nhóm thuyết tŕnh viên, ngoại trừ anh chàng giám đốc của hăng Duke Engineering có vẻ hơi “kỳ thị” v́ thường nhăn mặt hay nheo mắt mỗi khi nh́n tôi, c̣n những người khác đều rất vui vẻ ḥa đồng...
* * * * *
Tôi run run đứng dậy chuẩn bị lên bục thuyết tŕnh khi bà Jeanette giới thiệu:
- Để tiếp tục chương tŕnh, tôi xin nhường lời lại cho ông Sam, phó chủ tịch của BAH sẽ giới thiệu một thuyết tŕnh viên rất đặc biệt, đến từ hăng TRW sẽ tŕnh bầy với chúng ta về “systems integration” của dự án “ Yucca Mountain ”.
Ông Sam chờ tôi bước lên bục thuyết tŕnh và khi “ánh đèn sân khấu” đă rọi vào tôi, mới bắt đầu lên tiếng:
- Kính thưa quư vị, tôi rất hănh diện được bà phát ngôn viên của Bộ Năng Lượng uỷ thác cho việc giới thiệu anh John Nguyễn, một thuyền nhân Việt Nam đến Mỹ mới được 10 năm nay, và tôi đă có cơ may “quen biết” anh ta trong thời gian đó. Suốt hơn 2 năm trời, mỗi tối anh John vẫn tới lau chùi quét dọn văn pḥng cho chúng tôi trong lúc theo học đại học; kính thưa quư vị, chính cái hội trường này cũng đă từng được anh ta hút bụi, lau bàn ghế... Và hôm nay, 8 năm sau, anh John đă trở về, không phải để làm “custodian” buổi tối, nhưng là đứng trên “podium” sáng nay để làm “thầy” dẫn giải cho chúng ta về phương án nối kết tất cả hệ thống máy móc trong dự án này. Kính thưa quư vị, giọng nói của anh John có thể c̣n mang nặng âm hưởng Á Châu, nhưng đồ án anh ta đưa ra, tôi thiết nghĩ quư vị cũng sẽ đồng ư với chúng tôi là “không chê vào đâu được” v́ chính tôi và nhiều người đă xem qua và tất cả đều đồng ư như thế. Bây giờ, tôi xin được trân trọng giới thiệu anh John, một người đă rời bỏ “quê cha đất tổ” và gia đ́nh để bước xuống một chiếc thuyền tre nhỏ bé, cùng bạn bè vượt biển t́m tự do, một thân một ḿnh tới Mỹ, vừa tự mưu sinh vừa tiếp tục học để có được ngày hôm nay. Và đây, anh John Nguyễn, một thuyền nhân Việt Nam , một người lao công đă từng quét dọn nơi này, nhưng sáng hôm nay là thuyết tŕnh viên kỹ thuật của chúng ta.
Tôi bàng hoàng xúc động v́ những lời giới thiệu của ông Sam... Trong khi cả hội trường rền van tiếng vỗ tay cổ vơ, tim tôi đập mạnh, tâm trí tôi vượt thời gian t́m về dĩ văng của những ngày gian khổ ở quê nhà, những ngày lênh đênh trên biển, những ngày đợi chờ trong lo âu ở trại tỵ nạn Galang, và những ngày đầu bơ vơ lạc lơng nơi xứ lạ quê người. Khi tiếng vỗ tay vừa dứt, tôi nghẹn ngào run rẩy bắt đầu:
- Kính thưa quư vị, tôi xin chân thành cám ơn những lời giới thiệu chân t́nh của bà Jeanette và ông Sam. Tôi xin cám ơn những tràng pháo tay khích lệ của quư vị dành cho tôi, một người Việt Nam nói tiếng Mỹ chưa rành. Tôi xin cám ơn ban giám đốc TRW và toàn thể ban quản trị dự án “ Yucca Mountain ” đă tín nhiệm tôi... Từ chốn tận cùng của trái tim tôi, một niềm cảm xúc nghẹn ngào đang ào ạt dâng lên như sóng đại dương nên giọng nói của tôi lại càng khó nghe hơn lúc b́nh thường; tuy nhiên, tôi tin tưởng rằng tất cả quư vị sẽ thông cảm bỏ qua những sai lỗi của tôi trong cách phát âm tiếng Mỹ không chuẩn. Thêm vào đó, tôi cũng hy vọng rằng những sơ đồ minh họa trên màn ảnh sẽ thay tôi giải thích tất cả, v́ ai trong chúng ta cũng hiểu rằng một biểu đồ (diagram) c̣n có giá trị hơn cả ngàn lời giải thích loanh quanh...
Tôi thật sự choáng ngợp và bối rối v́ một tràng pháo tay lớn và rất dài vang lên từ khắp hội trường; tuy nhiên, tràng pháo tay đó cũng đă giúp tôi thêm ḷng tự tin và hoàn tất buổi thuyết tŕnh một cách tốt đẹp. Cũng có một vài câu hỏi có tính cách bắt bẻ, một vài ư kiến đề nghị thay đổi chỗ này chỗ kia, nhưng phần lớn đều đồng ư và tán thành đề án kỹ thuật của TRW do tôi tŕnh bầy.
Ngay khi chương tŕnh vừa chấm dứt, ông xếp của tôi chạy vội ra phía sau hội trường nắm chặt tay tôi khích lệ:
- John. Chúng tôi rất hănh diện v́ anh. Anh cứ ở đây gặp gỡ làm quen những người khác, hôm nay không cần về lại văn pḥng. Ngày mai chúng ta sẽ nói chuyện nhiều hơn. Cố gắng lên. Anh làm tốt lắm. Anh nói bằng con tim và trí óc chứ không phải bằng miệng lưỡi ... Đừng mang nặng mặc cảm về giọng nói của ḿnh nữa.
Tôi hớn hở bước ra hành lang phía trước hội trường, bắt tay tṛ chuyện với nhiều người thuộc nhiều hăng xưởng khác nhau. Người hỏi về chuyện vượt biên, “thuở hàn vi” ngày đi học tối làm lao công, kẻ hỏi về phương án làm việc và trao đổi “business card”... Tôi choáng ngợp v́ ân t́nh của bao nhiêu người xa lạ, có những người đă từng là “đối thủ” của tôi trong thời gian đấu thầu dự án Yucca Mountain... Giữa tiếng ồn ào náo nhiệt của bao nhiêu người vây quanh, tôi nghe vọng tới một giọng phụ nữ nói tiếng Việt:
- Anh Khanh ń... Ḿnh chờ một tư gặp anh John làm quen và mời anh ấy về Eden ăn trưa luôn cho vui.
- Đi thôi. Thằng chả chỉ gặp may chứ có hay ho ǵ hơn ai!
- Ḿnh cũng được hănh diện v́ là người Việt chứ anh.
- Nếu Thy mê nó th́ cứ ở lại chờ.
- Anh kỳ quá hà. Hơi một tư là ghen bậy ghen bạ. Đi th́ đi...
Tôi ngoái cổ nh́n chung quanh nhưng v́ chiều cao quá khiêm tốn của ḿnh nên không t́m được những người bạn “đồng hương yêu dấu” ấy... Tự nhiên tôi cảm thấy cô đơn lạc lơng giữa rừng người không cùng màu da, tiếng nói. Tôi được người ngoại quốc niềm nở tiếp đón và có vẻ thán phục, nhưng h́nh như, tôi không được một số “đồng bào” của tôi tiếp nhận! Tại sao?
Măi gần nửa giờ sau tôi mới một ḿnh lững thững lê bước ra băi đậu xe, ḷng buồn man mác nhớ lại câu ca dao tôi đă thuộc nằm ḷng từ thuở c̣n mài đũng quần trên ghế trường tiểu học ở Làng Ba, B́nh Giả:
Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Mẹ Việt Nam ơi, từng bước từng bước chúng con đang hội nhăp vào nền văn hóa mới, nhưng cũng từng bước từng bước chúng con đang quên dần t́nh nghĩa “đồng bào” theo truyền thuyết “con rồng cháu tiên” của hơn bốn ngàn năm văn hiến. Liệu rồi thế hệ con cháu người Việt đang lưu lạc khắp bốn phương trời có c̣n nhận nhau là anh chị em “máu đỏ da vàng” nữa không?
Nguyễn Duy-An