Tôi Vượt Biển cùng với Tác giả “Đóa Hồng Gai”

 

Ngô Đông Cường

 


Vừa qua, tôi đă đọc thật kỹ về bài viết: Huyền Thoại “Hoạt Động T́nh Báo Phượng Hoàng” của Nguyễn Thanh Nga tác giả “Đóa Hồng Gai” của Nhà b́nh luận Mai Vĩnh Thăng.


Tôi cũng như ông Mai Vĩnh Thăng, đă từ lâu tôi không muốn viết lên sự thật; bởi nghĩ rằng: Dưới ánh sáng mặt trời th́ mọi sự không sớm th́ chầy nó cũng sẽ được phơi bày một cách rơ ràng, nên không muốn nhắc lại chuyện xưa.
 

Nhưng, đến nay th́ tôi tự thấy rằng ḿnh cần phải nói tất cả sự thật, để ông Mai Vĩnh Thăng và đồng bào hiểu thêm về tác giả “Đóa Hồng Gai” là bà Nguyễn Thị Sáu, tức Nguyễn Thị Liên và bây giờ là Nguyễn Thanh Nga.

 

Sau khi đọc cuốn “Hồi Kư Đóa Hồng Gai”; tôi bỗng giật ḿnh, bởi tôi nhớ lại những chương và những điều đă có ghi trong tập “Tài Liệu Tuyệt Mật” (bản photocopie) gồm 19 trang, đủ cả hai bản, một bản thảo viết tay và một bản đánh máy. Tôi vội vàng đem ra đọc lại; và bất ngờ tôi đă t́m ra đâu là sự thật.

 
Trước khi nói đến tập “Tài Liệu Tuyệt Mật” ấy. Trước hết, tôi xin tường thuật thật rơ ràng về chuyến vượt biển của tôi cùng bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga, tác giả “Đóa Hồng Gai” như sau:

 
 Chúng tôi bước lên tàu và rời Việt Nam vào lúc 23 giờ đêm 07/09/1977, tại băi Khánh Dương, Vĩnh Lộc, Thừa Thiên- Huế.

 
Chủ chiếc tàu này là ông Mai Văn Trúc, nhưng ông không đi vượt biển trong chuyến này, mà đă bán cho một người thân của gia đ́nh ông, và là một người bạn thân của tôi. Chúng tôi đă đóng góp vàng để mua chiếc tàu này, đồng thời chúng tôi cũng đă mời ông Mai Văn Tre là em ruột của ông Mai Văn Trúc làm tài công và cùng đi với chúng tôi. Hiện nay ông bà Mai Văn Trúc và ông bà Mai Văn Tre đang có mặt tại Cali, Hoa Kỳ.

 
Trở lại với chuyến vượt biển trên. Sau khi rời băi Khánh Dương, tàu bị lạc hướng và tấp vào đảo Trường Sa lúc 01 giờ sáng ngày 10/09/1977. Sau khi tát nước chúng tôi liền rời khỏi Trường Sa, định chạy về hướng HongKong; nhưng một lần nữa lại bị lạc vào đảo Hoàng Sa vào lúc 03 giờ sáng ngày 11/09/1977. Chúng tôi đă bị quân đội Trung cộng bắt giữ cho đến ngày 15/09/1977, lúc 16 giờ chiều, chúng tôi mới được cho đi. Chúng tôi liền rời Hoàng Sa để đi đến Hải Nam. Nhưng v́ gặp băo quá lớn nên tàu đă bị trôi dạt và tấp vào băi Thừa Lưu, Lang Cô, Thừa Thiên-Huế, và đă bị “Công an biên pḥng” Thừa Lưu bắt vào lúc 02 giờ sáng ngày 20/09/1977, tất cả những người đi trên tàu đều bị đưa về giam tại “đồn công an biên pḥng” Thừa Lưu.

 
 Đêm 22/09/1977, lúc 20 giờ, tất cả bị đưa về giam tại Lao Thừa Phủ, Huế. Ngày 30/09/1977, tất cả bị giải giao về Đà Nẵng. Trong số này bị chia ra và bị giam hai nơi, một số giam ở «Đồn Công An Thành Phố Đà Nẵng» ở
số 47, đường Trần Quốc Toản, Đà Nẵng. Một số giam ở nhà giam Kho đạn, chợ Cồn ở số 15, đường Đào Duy Từ Đà Nẵng.

 
 Sau khi kết cung, tất cả lần lượt bị đưa vào các nhà giam: Hội An, Tam Kỳ và cuối cùng là trại “cải tạo” Tiên Lănh, Tiên Phước, Quảng Nam.

 

Trên chuyến tàu vượt biển này gồm có tất cả là 26 (hai mươi sáu người). Trong đó có:

 

 Ông Nguyễn Văn Nhứt: Thuyền trưởng. (Là tên giả, ông khai khi bị Công an Việt cộng bắt, chứ khong phải tên thật).

 

 Ông Mai Văn Tre: Tài công (Hiện gia đ́nh ông Mai Văn Tre đang có mặt cùng gia đ́nh người anh ruột là Mai Văn Trúc tại Cali, Hoa Kỳ, như đă nói ở trên).

 

Ông Nguyễn Văn Bé: Thợ máy

 

Và các vị: Nguyễn Quang Mỹ cùng con trai là Nguyễn Quang Vui (Sinh viên)
 Ngô Đông Cường, Giáo sư-Thầy Sáu Trần Công Ngạn, Giáo sư Đào Nguyên Dương là Giáo sư Trường Trung Học Sao Mai, Đà Nẵng.

 

 Hồ Minh Trung và con trai tên Hồ Minh Trực 11 (mười một tuổi) Nguyễn Văn Tùng (Hiện đă định cư tại Cali, Hoa Kỳ- Nguyễn Văn Cẩm, Hạ sĩ quan Hải Quân...

 

Trong số này, phía người Hoa có hai thiếu nữ và bốn người nam, ông Lưu Khánh Trường làm thông ngôn Hoa-Việt. Phía nữ người Việt, có hai người là cô Quỳnh Nga (tức Café Quỳnh Nga) và người anh tên Dũng (sinh viên) và một thiếu phụ, đó là bà Nguyễn Thị Sáu tức Nguyễn Thị Liên, bà này là vợ bé của bạn tôi là ông thuyền trưởng; và bây giờ bỗng dưng trở thành Nguyễn Thanh Nga “tác giả Đóa Hồng Gai”. Nên biết, trong gia đ́nh của bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga, trừ hai người con đầu đă chết, chúng tôi không biết tên; c̣n tất cả đều mang tên theo thứ tự như: Nguyễn Thị Ba- Nguyễn Thị Bốn- Nguyễn Văn Năm và Nguyễn Thị Sáu.

 

Phía gia đ́nh của bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga gồm có năm người cùng đi trên chiếc tàu vượt biển này...

 

Có một điều nữa, nhân đây, tôi cũng xin minh xác để ông bà Mai Văn Trúc và ông bà Mai Văn Tre hiện đang có mặt tại Cali, Hoa Kỳ, hiểu được về số vàng 10 (mười) lượng đă không được trọn vẹn trước khi vượt biển. Số vàng ấy do chúng tôi đóng góp và chính tôi đă trao mười lượng vàng này cho bà Nguyễn Thị Sáu- Liên-Thanh Nga, và hai ngày sau cũng chính tôi đă cùng đi với bà Sáu-Liên-Thanh Nga đến gặp bà Mai Văn Trúc và người em chồng là ông ông Mai vănTre tại điểm hẹn. Và chính bà Nguyễn Thị Sáu-Liên- Thanh Nga đă cầm trên tay số vàng mười lượng này để tao tận tay của bà Mai Văn Trúc. Tôi tin tưởng bà Sáu-Liên-Thanh Nga, v́ bà là vợ bé của bạn tôi. Tôi cũng hiểu bà Mai Văn Trúc cũng đă tin tưởng bà Sáu-Liên-Thanh nga, v́ bà này là vợ bé của người thân của gia đ́nh họ Mai, nên bà đă không cần kiểm soát trước. C̣n một ân t́nh nữa mà chúng tôi không bao giờ quên được; là ông bà Mai Văn Trúc chỉ lấy tượng trưng có mười lượng vàng, rồi giao tàu cho chúng tôi vượt biển; chứ thực ra chiếc tàu ấy nếu bán cho đúng giá th́ ít nhất cũng phải gấp đôi hay gấp ba. Tuy nhiên, v́ biết chúng tôi không làm sao có đủ số vàng đó, nhưng lại muốn thoát thân, nên ông bà Mai Văn Trúc cảm thông mà giúp đỡ cho chúng tôi có được phương tiện để vượt biển, mà không tính toán ǵ cả. Nhưng chẳng may, chúng tôi cùng ông Mai Văn Tre và bà Sáu-Liên Thanh Nga và tất cả đều bị bắt và ở tù.

 

 Sau khi ra tù, tôi được biết bà Mai Văn Trúc có gặp chúng tôi. Theo bà Mai Văn Trúc kể, th́ sau khi chúng tôi vượt biển, bà đă đến một người bạn là thợ kim hoàn để kiểm tra số vàng mà do chính tay của bà Sáu-Liên-Thanh Nga đă trao tận tay cho bà Mai Văn Trúc. Nhưng sau khi kiểm chứng, th́ người bạn của bà Mai Văn Trúc cho biết là trong số mười lượng vàng đó, có hai lượng là vàng giả. Chúng tôi cũng biết mục đích của bà Mai Văn Trúc đến gặp chúng tôi, không phải để đ̣i chúng tôi phải trả thêm hai lượng vàng nữa, để cho đủ mười lượng; mà ư của bà Mai Văn Trúc là chỉ muốn cho chúng tôi biết là bà chỉ nhận có tám lượng vàng mà thôi.

 
 Nhân đây, chúng tôi những người đă gom góp số vàng trên. Trước hết, chúng tôi chân thành xin gửi đến ông bà Mai Văn Trúc và ông bà Mai Văn Tre với tất cả ḷng biết ơn sâu xa nhất. Chúng tôi cũng hiểu rằng, hiện nay hai gia đ́nh họ Mai đă định cư tại Hoa Kỳ rồi, th́ cả hai gia đ́nh ông bà Mai Văn Trúc và ông bà Mai Văn Tre cũng không cần đ̣i chúng tôi phải trả tiếp hai lượng vàng đó. Nhưng ngoài sự biết ơn, chúng tôi cũng muốn nói với bà Mai Văn Trúc là chúng tôi đều là những người chân thật, chúng tôi không bao giờ đem vàng giả để trao cho bà; bởi như thế là bất lương, là lường gạt. Nhưng chúng tôi có lỗi, v́ trong thời gian ấy, chúng tôi là những người đang sống trong lo sợ nên không dám giữ vàng trong người, chúng tôi v́ thiếu suy xét, nên đem ḷng tin cậy mà đă dại dột đem trao mười lượng vàng ấy cho bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga cất giữ cho đến ba ngày. Do đó, chúng tôi không hiểu bà Sáu-Liên-Thanh Nga đă làm những điều ǵ, mà từ mười lượng vàng thật sau đó nó chỉ c̣n tám lượng với hai lượng vàng giả.

 
Và v́ vậy, chúng tôi những kẻ đă thọ ân của hai gia đ́nh họ Mai. Chúng tôi xin thành thật xin lỗi ông bà Mai Văn Trúc và ông bà Mai Văn Tre. Mong hai gia đ́nh thông cảm những điều thiếu sót đă qua.

 

 Khi nhắc lại những điều này. Chúng tôi muốn nhắc nhở cho bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga rằng bà đă từng đă gây nên những sóng gió. Trong đó có chuyện trước khi vượt biển, giữa lúc mưa băo mà bà đă dựng chuyện rằng:

 

“Thằng Nguyễn VănTrường nó bị công an bắt rồi, nó đă khai hết tên họ của những người cùng đi với nó”.

 

Tôi cũng xin thưa cùng quư vị, suốt trong thời gian trước khi vượt biển, chúng tôi lúc nào cũng lo sợ sẽ bị công an đến bắt đi vào tù, nên không dám đi lại như những người b́nh thường. Chỉ có bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga ở trong khách sạn Tao Nhă và khách sạn Đông Kinh tại Đà Nẵng. Chủ của hai khách sạn này là bạn của bạn tôi. Bà là đàn bà con gái nên chúng tôi đă tin cậy mà giao hết mọi việc cho bà. Đến khi nghe bà Sáu-Liên-Thanh Nga nói như thế, chúng tôi hoảng hốt ai cũng đ̣i xuống tàu đi ngay. Ông Nguyễn Quang Mỹ c̣n nói:

“Thà chết dưới biển c̣n hơn là bị công an bắt bỏ tù”.

 

 Sau đó, đa số đă đồng t́nh đ̣i xuống tàu v́ sợ công an đến bắt. Khi chiếc tàu rời băi Khánh Dương th́ gặp băo, và khi thấy mạng sống của mọi người vô cùng mong manh, lúc ấy, bà Sáu-Liên-Thanh Nga mới nói thật với bạn tôi rằng:

 “Em xin lỗi anh, v́ nôn nóng muốn rời Việt Nam, nên em đă nói dối là thằng Trường nó đă bị công an bắt và đă khai hết những người cùng đi; chứ sự thật th́ thằng Trường nó không có bị bắt. Bây giờ, chắc chúng ta sẽ chết dưới đáy biển, nên em muốn nói thật với anh để xin lỗi anh và mong anh tha thứ”.

 Sau khi nghe những lời này, bạn tôi và chúng tôi nữa đă vô cùng hối hận v́ đă dại dột đặt ḷng tin cậy vào bà Sáu-Liên-Thanh Nga, để xảy ra nông nổi ấy. Để rồi tất cả phải vào tù của cộng sản.

 

Những ngày lênh đênh trên biển:

 

Chúng tôi không bao giờ quên được những ngày lênh đênh với sóng băo; khi tàu bị ngập nước bà Nguyễn Thị Sáu tức Liên-Thanh Nga đă ỷ lại là vợ bé của bạn tôi, là người đứng ra mua tàu vượt biển, nên bà đă nói như ra lệnh, mọi người phải tát nước, riêng bà và mấy đứa cháu của bà là không tát nước. Nghe bà Sáu-Liên-Thanh Nga nói như vậy, Giáo sư-Thấy SáuTrần Công Ngạn đă lên tiếng phân giải rằng:

“Nước đă tràn vào tàu nhiều quá, ai cũng phải góp một bàn tay tát nước, th́ nước mới cạn, chứ không th́ nếu chết th́ phải chết tất cả”.

 

Giáo sư Trần Công Ngạn chỉ nói chừng đó thôi, như thế mà bà Sáu-Liên-Thanh Nga đă nỗi Tam bành- Lục tặc lên bà la hét mọi người, bà c̣n mắng nhiếc cả Giáo sư Trần Công Ngạn; nhưng ông vốn là người tu hành nên ông chỉ chép miệng thở dài chứ không hề nói một lời nào cả. Giờ này, chúng tôi biết Giáo sư-Thấy SáuTrần Công Ngạn, Ông đang là Chủ Nhiệm của Báo Sao Mai, chắc một lần nữa ông cũng chỉ biết thở dài mà thôi.

 

 Ấy vậy mà trên sân khấu Thúy Nga ông Nguyễn Ngọc Ngạn đă ca “CÔ “Nguyễn Thị Thanh Nga” tức bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga như là một nữ thánh. Bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga c̣n nói là bà “... tôi không có cơ hội để lập gia đ́nh...” (bà c̣n con gái). Mà kể cũng lạ, Bởi trước đây cũng trên sân khấu Thúy Nga, ông Nguyễn Ngọc ngạn trong trái phá B.40, ông từng tuyên bố: “Cuộc chiến cũ đă đi vào tiền kiếp”.

 

Trong chúng ta, có ai là người nhớ đến «tiền kiếp» của ḿnh. Như thế, tại sao ông Ngạn c̣n nhớ và nhắc đến cái «tiền kiếp» vọng ngữ của bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga. Hay quả đúng như lời của cụ Gàn Bát Sách trước đây đă viết trên Văn Nghệ Tiền Phong: “Cái Tiền kiếp của Nguyễn Ngọc Ngạn, Tiền kiếp nghĩa là Kiếp làm tiền”.

 

Nếu chằng phải như thế, th́ hà cớ ông Ngạn phải cải danh, từ cái ruột “Làng Hồng” đỏ loét, trở thành cái vỏ “Làng Mai”?

 

 Nên biết, trong những cuốn «Niên giám» và tài liệu cũ mà nhiều người c̣n lưu giữ, th́ cái vỏ “Làng Mai” bây giờ nó đều ghi rơ ràng là “Làng Hồng”. Nhưng cho dù có thay đổi cách ǵ chăng nữa, th́ cái ruột của nó đời đời nó vẫn Đỏ loét. Hay Nguyễn Ngọc Ngạn cũng như Trịnh Công Sơn: “Ta thấy em trong tiền kiếp với mặt trời lẻ loi…”

 

 Trên đây, là những chuyện ông Nguyễn Ngọc Ngạn đă tững gắn bó với những người trong «tiền kiếp ». C̣n ở kiếp này, th́ ngoài công việc đứng trên sân khấu Nguyễn Ngọc Ngạn cũng là người đứng trên đài «Tiếng Nước Tôi» mà nếu ai muốn biết th́ xin hăy vào Diễn Đàn Mẫu Tâm (http://www.mautam.net). Mục «Tin Tức Văn Nghệ Sĩ Hải Ngoại»; sẽ thấy có người đưa lên diễn đàn cho biết « Nguyễn Ngọc Ngạn trên đài “Tiếng Nước Tôi”. Nhiều người bạn của tôi, khi thấy h́nh ảnh Nguyễn Ngọc Ngạn trên cái «đài » này họ đă nói: Tưởng là ai chứ Nguyễn Ngọc Ngạn, th́ bất kể thứ nước nào cha Ngạn này cũng chơi hết, chứ chẳng riêng ǵ cái nước tôi.

 

 Mà ai muốn nói đến Nguyễn Ngọc Ngạn th́ «Đánh chó cũng phải ngó chủ nhà »; Nghĩa là phải xem chừng đến «ông thầy” của Nguyễn Ngọc Ngạn là Nhất Hạnh. Trong trái phá B.40, Nguyễn Ngọc Ngạn đă cung kính gọi Nhất Hạnh là “Thầy”, và xưng “Con”. Vậy Nhất Hạnh là Thầy cũng là Sư Phụ của Nguyễn Ngọc Ngạn. V́ vậy, Nguyễn Ngọc Ngạn cũng có bà Sư Mẫu là Cao Ngọc Phượng, nên ai muốn “Đánh” … Nguyễn Ngọc Ngạn, th́ “cũng phải ngó chủ nhà” là “sư phụ và sư mẫu” Nhất Hạnh-Cao Ngọc Phượng.

 

 C̣n một điều nữa là bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga đă viết trong cuốn tạp nhạp “Đóa Hồng Gai” cũng như từng nói trên sân khấu Thúy Nga và nhà báo Vi Anh trên đài SBTN rằng “Công an Đà Nẵng đă vào Hố Nai bắt tôi vào năm 1976”. Trong khi sự thực th́ bà và chúng tôi đă bị “Công an biên pḥng” Thừa Lưu bắt vào lúc 02 giờ sáng ngày 20-9-1977, như đă nói ở trên. Điều này, chỉ đúng độc nhất là việc liên quan đến đứa con trai tên Dương của bà Sáu-Liên-Thanh Nga tại Hố Nai mà thôi. Chuyện liên quan này rất dài ḍng nên khó kể hết, tôi có thể kể ở những bài sau.

 

Chúng tôi cũng biết những kẻ đă đạo diễn và viết cho bà những điều bịa đặt ngu xuẩn ấy. V́ một khi đă bị công an Việt Nam bắt giam th́ phải viết “sơ yếu lư lịch- Bản Kkểm điểm…; và đều phải chụp h́nh với hai tay nâng cái tấm bảng màu đen, có số tù màu trắng trước ngực. Bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga cũng không ngoại lệ. Hiện nay, tất cả các tài liệu do chính tay bà Sáu-Liên-Thanh Nga viết và kư, cũng như những tấm h́nh chụp có mang số tù, chắc chắn đều c̣n lưu giữ trong “Hồ sơ phạm nhân”tại các cơ quan công an Thừa Lưu- Lang Cô, Thừa Thiên- Lao Thừa Phủ, Huế, Đà Nẵng, Tam Kỳ, Hội An – “Ty công an” Quảng Nam-Đà Nẵng và “trại cải tạo” Tiên Lănh, Tiên Phước, Quảng Nam, cũng như tất cả những tù nhân khác.

 
 Một lần nữa, chúng tôi khẳng định rằng bà Nguyễn Thị Sáu, tức Nguyễn Thị Liên, tức Nguyễn Thanh Nga, “tác giả Đóa Hồng Gai” đă cùng đi với người đàn ông, mà bà đă ăn ở như là vợ bé và cùng chúng tôi trên chuyến tàu vượt biển, trong đó có các vị mà tôi đă nói ở trên, đă rời Việt Nam vào lúc 23 giờ đêm tại băi Khánh Dương, Vĩnh Lộc, Thừa Thiên-Huế. Đă bị “Công an biên pḥng” Thừa Lưu bắt giam. Sau đó bị giam tại lao Thừa Phủ, Huế, rồi bị giải giao về Đà Nẵng. Cưối cùng là “Trại cải tạo” Tiên Lănh như đă kể ở trên. Chứ không hề có chuyện công an Đà Nẵng đă đi vào tận Hố Nai để bắt bà như những lời bịa đặt, dối trá của bà Sáu-Liên-Thanh Nga.

 
 Ngoài những chuyện đối trá đó, bà Sáu-Liên-Thanh Nga không bao giờ dám nhắc đến chuyến vượt biển cùng chúng tôi ngày nào. Bà cố t́m cách để giấu kỹ, v́ bà sợ mọi người sẽ biết là bà đă từng làm vợ bé. Nhưng tai hại thay, là chúng tôi những người cùng vượt biển, cùng bị “công an biên pḥng” Thừa Lưu bắt, tất cả hiện vẫn c̣n sống. Chúng tôi là những người bạn của người mà đă lấy bà làm vợ bé; đa số đang có mặt tại hải ngoại; đông nhất là tại Hoa Kỳ. Tất cả những người cùng đi trên chuyến tàu vượt biển ngày ấy, chúng tôi c̣n nhớ tên, c̣n liên lạc với nhau. Bây giờ biết được tin tức của bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga; chúng tôi cũng muốn mời bà cùng nhau ôn lại những ngày lênh đênh trên biển cả, cũng như những năm thàng bị đưa vào các nhà giam và tù “cải tạo”. Chúng tôi cũng nhớ đến nhiều người đă cùng đi trên chuyến tàu vượt biển, đă rời Việt Nam vào lúc 23 giờ đêm tại băi Khánh Dương, Họ chắc không quên những ǵ đă xăy ra trên chuyến đi đầy sóng gió này. Tôi cũng biết bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga suốt đời sẽ không bao giờ quên được những ǵ đă xăy ra trên chiếc tàu vượt biển năm xưa, cũng như vẫn không thể quên được cái tên Ngô Đông Cường này.

 
 Trở lại với cuốn “Hồi Kư Đóa Hồng Gai”. Sỡ dĩ tôi quả quyết là có những kẻ đạo diễn. Trong đó, có một “người thân” bên cạnh bà, là ông Nguyễn Cần, tức Lữ Giang, tức Tú Gàn đă viết theo lời kể dối trá của bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga, v́ tôi biết một cách chắc chắn là bà này không hề bước vào cái thềm của bậc Trung Học, chứ đừng nói đến Đệ Nhất Cấp hay Tú Tài. Tôi cam đoan, nếu bất ngờ, không có đạo diễn trước, mà có ai chỉ cần đọc cho bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga một đoản văn nào đó, chừng một trang giấy học tṛ, và bảo bà chép lại, th́ chắc chắn bà sẽ viết sai chính tả ít nhất cũng quá năm lỗ
i. Hoặc có ai bất ngờ hỏi bà về một môn nào đó của chương tŕnh Trung học, th́ tôi biết chắc bà sẽ kêu nhức đầu rồi xỉu cho qua ải.

 

C̣n một điều khác là trong cuốn “Đóa Hồng Gai” tác giả là người Quảng Nam, nói tiếng Quảng Nam đặc như mọi người đă nghe thấy. Như vậy mà những từ ngữ trong cuốn “Hồi Kư” th́ lại viết những từ rất Bắc như dùng từ buồng giam”, trong khi người Quảng Nam đều gọi là pḥng giam; về chế độ ăn uống của tù nhân bà đă viết: “…gồm một ít khoai, sắn, hay ngôChắc mọi người đều biết, là người Quảng Nam không bao giờ gọi là ngô mà gọi là bắp. Từ ngô là của người Bắc. Và trong cuốn “Hồi kư” này cũng đă viết từ Bố của người Bắc nhiều lần, trong khi người Quảng Nam ai cũng đều gọi đấng sinh thành của ḿnh là Cha hoặc Ba chứ không bao giờ gọi bằng Bố.

 

Chúng tôi vẫn nhớ rơ ràng lúc đi thẩm cung ở lao Thừa Phủ, Huế. Bà Nguyễn Thị Sáu tức Nguyễn Thị Liên tức Thanh Nga khi một “cán bộ chấp pháp” hỏi đến phần tŕnh độ học vấn bà đă nói nguyên văn là:

 

 “Dạ tui đă đậu Tú Từa Hưa”. (Tôi đă đậu Tú Tài hai).

 

Nhưng đến khi nộp “Bản tường thuật” th́ “cán Bộ chấp pháp” tay cầm “Bản tường thuật” miệng la lớn tiếng với bà mà ai cũng nghe cả, nguyên văn như sau:

“Chị tưởng cộng sản là ai cũng dốt hết phải không? Chị có biết tôi là ai không? Chị khai là đă đậu Tú tài 2, mà chị viết một bản tường thuật chỉ ba trang giấy mà đă sai chính tả hết hơn hai chục lỗi à. Chị nói đă đậu Tú tài 2, th́ tôi yêu cầu chị cho tôi biết là chị đă học ở Trường Trung Học nào, ban nào và các niên khóa, tên những ông Giáo sư chị đă học? Chị cũng phải khai rơ chị thi Tú tài ngày tháng nào và ở đâu?

 

Tôi cho chị biết tôi đă từng sống và đă dạy ở nhiều trường Trung Học tại Đà Nẵng, chị không biết tôi, nhưng nhiều học sinh Trung Học ở Đà Nẵng biết tôi đấy. Tôi cho chị biết, chị sẽ ở tù v́ cái tội phét lác của chị, chị hăy ghi nhớ lấy lời của tôi nói hôm nay đấy nhé”. (Có lẽ tên Công an này, là tên Việt cộng nằm vùng, có đi dạy ở một vài trường Trung học nào đó, tại Đà Nẵng)

 

 Mà quả đúng như vậy, Không phải chỉ với «công an chấp pháp» mà ngay cả bây giờ bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga cũng không trả lời được những câu hỏi ấy, v́ bà không hề bước vào bất cứ một ngôi trường Trung học nào hết!

 

 Bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga đă kể rằng, nhờ bà “có tiền đưa cho công an Đà Nẵng, nên bà đă sao lục lại được các giấy tờ”, th́ cũng có nghĩa là chính bà đă đưa tiền cho bọn Công an, để có được tờ giấy “chứng nhận” là “cựu tù chính trị”, để đi Mỹ, v́ sự thật, là bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga đă ở tù v́ tội vượt biển, và bà cũng phải biết, khi bà nói như vậy, th́ người khác, nếu họ có tiền, th́ họ cũng sao lục được những tài liệu của bà ở các “cơ quan” công an của Việt cộng vậy.

 

Tất cả những điều tôi đă viết ra đây, không phải chỉ những người trên chuyến tàu vượt biển ngày nào, mà cả trại cải tạo Tiên Lănh ai cũng biết bà Sáu-Liên-Thanh Nga đă từng làm vợ bé. Bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga có muốn chúng tôi viết lên những ǵ đă xảy ra tại Hố Nai và đứa con trai tên Dương của bà hay không?

 

Tôi vẫn nhớ, có một lần trong trại “cải tạo”, lúc tôi xuống trại 1, khi đội nhà 10 do Thiếu tá Trương Quang Dơng làm “đội trưởng” khi đi lao động ngang qua trại nữ, lúc đó bà Sáu-Liên-Thanh Nga đang nhóm rác ở tổ vệ sinh trước trại; và Thiếu tá Trương Quang Dơng đă bị bà Sáu-Liên-Thanh Nga chửi mắng và đ̣i tát vào mặt v́ cái “tội” nói bà là vợ bé của bạn tôi đến nỗi “cán bộ dẫn giải” phải đứng ra can thiệp. Tôi biết anh Trương Quang Dơng có vợ là chị Tuyết.

 

Tôi hiểu được tâm trạng đau khổ, hối hận của bạn tôi v́ đă trót lầm lỡ ăn ở với bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga. Bây giờ bạn tôi đă sống b́nh yên với con cháu, nên bạn tôi không muốn các con của ông biết đến chuyện sai lầm của cha ḿnh. Nhưng tôi nghĩ rằng các con của bạn tôi nay đă trưởng thành, th́ các cháu ấy sẽ không có sự trách móc ǵ đến chuyện sai lầm của cha ḿnh trong quá khứ.

Trong trại “cải tạo” ai cũng biết bà Sáu-Liên-Thanh Nga có biệt danh là “Con Liên Bẹc”, “Bẹc”là một tiếng lóng trong trại có nghĩa là láo-phét, để chỉ người hay nói phét. Chính trong cuốn “Đóa Hồng Gai” bà Sáu-Liên-Thanh Nga đă viết:

 

“Liên là tên thường gọi của tôi”. Và ông Phạm Hồng khi ngồi bên cạnh bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga trên đài SBTN để trả lời phỏng vấn của nhà báo Vi Anh, ông Phạm Hồng cũng xác nhận là:

 

“Tôi đă nghe những lời của công an trại nữ nói về cái con Liên- Liên, cái con Liên-Liên đó”.

 

Bà Sáu-Liên-Thanh Nga chắc không bao giờ quên được cái tên Nguyễn Thị Liên từ đâu mà có chứ???

 

 Cũng trong cuộc phỏng vấn này bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga đă nói với nhà báo Vi Anh:

 
 “Tôi làm cả Tham Mưu và cả Hành Chánh. Tôi có quyền quyết định tất cả mọi việc…”

 

Nghe những lời nói trên đây của bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga, có nhiều người bạn của tôi đă nói là chắc bà này hoặc là điên, hay là “điếc không sợ súng”. Bởi bà không biết một điều sơ đẳng nào cả, không biết Tham Mưu và Hành Chánh là như thế nào nên mới nói càn, nói ẩu, hoặc phát cơn điên, nổi cơn hứng mới dám phát biểu một cách lộng ngôn như vậy.

Chẳng những đại ngôn đâu, mà bà Sáu-Liên-Thanh Nga c̣n ḷi đến tận cùng của cái dốt khi lập đi, lâp lại với nhà báo Vi Anh rằng:

 

“Tôi muốn cuốn hồi kư (Đóa Hồng Gai) được quay thành PHIN…”.

 

Tôi nhớ hôm đó, có mấy người bạn tôi ngồi xem, đến khi bà cứ nói PHIN…PHIN …PHIN th́ ai cũng cười hết…

 

Những hành vi của Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga trong trại “cải tạo”:

 

Lúc c̣n ở trong trại “cải tạo”, có lần tôi bị bệnh được đưa về nằm tại bệnh xá Trại 1. Tôi có quen biết nhiều nữ tù; trong đó có cô Hoàng Thị Kư An, là Ái nữ của Trung Tá Hoàng Em Nguyên Chỉ huy trưởng Quân lao Quân Khu 1, ông cũng ở cùng trại tù với con gái ruột là cô Kư An; và tôi cũng thường gặp cô Kư An và nhiều nữ tù khác, mỗi lần họ vào bệnh xá trại nam để nhổ răng hay khám bệnh, v́ trại nữ không có Bác sĩ. V́ vậy, nên tôi đă biết nhiều về những việc làm bất nhân của bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga, kể ra th́ nhiều lắm nhưng tôi chỉ nói qua một số ít như sau:

 

 Phải nói cho đúng là trong thời gian đầu kể từ ngày bị bắt vào lúc 02 giờ sáng ngày 20/09/1977, tại đồn công an biên pḥng Thừa Lưu cho đến tháng 05 năm 1981, ở trong trại cải tạo bà Sáu-Liên-Thanh Nga vẫn được nhiều người trong trại thương mến.

 

Tại trại cải tạo hàng năm « Ban Giám Thị» đă nói có ba đợt tha tù đó là: « Sinh nhật Bác Hồ- Lễ Độc Lập 2-9 và tết Nguyên Đán, nếu ai học tập cải tạo tốt th́ sẽ được tha».

 

Bà Sáu-Liên-Thanh Nga, đă được tha vào dịp 19/05/1981. Bà đă vào hội trường trại nam cùng một số người khác “học tập nội quy” lần cuối, đă làm «tờ kiểm điểm » để xuất trại. Nhưng bất ngờ đến buổi sáng ngày ra trại khi bà cùng một số nữ tù ra cổng để báo cáo xuất trại th́ đă bị nghe đọc “Lệnh Câu Lưu Của Ban Giám Thị”.

 

Thực ra bà không có tội ǵ lớn mà phải bị câu lưu, mà đă v́ cái tội nói phét. Bà Sáu đă bị bà Nguyễn Thị Ngân một “cán bộ” Cộng sản can tội “tham ô” hại bà, v́ trong thời gian ở trại giam Tam Kỳ lúc đó bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga c̣n được gia đ́nh thăm nuôi, c̣n bà Ngân th́ không có ai thăm nuôi cả. V́ thế, bà Ngân v́ thiếu thốn nên hàng ngày phải múc nước cầu thay cho bà Sáu mỗi phiên vệ sinh, ngoài ra phải rữa chén, giặt áo quần cho bà Sáu-Liên-Thanh Nga. Bà Sáu-Liên-Thanh nga cũng cần một người như vậy, nên đồng ư cho bà Ngân ăn chung. Tại các trại tạm giam như Đà Nẵng-Hội An- Tam Kỳ th́ các “Phạm nhân” đều bị giam chung một pḥng. Nhưng khi bị giải giao lên trại cải tạo Tiên Lănh, th́ các tù nhân đều bị chia ra. Do đó, bà Sáu-Liên-Thanh Nga không ở chung pḥng với bà Ngân. Tại trại “cải tạo” ai cũng phải biết một trong “35 điều nội quy” của trại là: “Điều 27: Nghiêm cấm mọi trại viên không được bắt người khác phục vụ cho ḿnh”.

 

Biết “Nội quy” là như vậy, Mặc dù hai người ở riêng hai nhà, nhưng hàng ngày bà Ngân cứ đến xin thức ăn của bà Sáu-Liên-Thanh Nga. Lúc bấy giờ, thấy không thể bắt bà Ngân phục vụ cho ḿnh như trước nữa, v́ sợ “vi phạm nội quy” nên bà Sáu không chịu giúp đỡ bà Ngân. Chính v́ thế, bà Ngân đă làm một “tờ tŕnh” nghĩa là tố cáo bà Sáu-Liên-Thanh Nga lúc ở dưới trại tạm giam ở chung với nhau bà Sáu-Liên-Thanh Nga đă nói với bà rằng:

 

Ngày xưa tui làm lớn lắm, mỗi lần chính quyền ở quê tui mà bắt được Việt Cộng th́ họ phải trói lại để dưới gốc cây đa, rồi cho người mời tui về nh́n mặt rồi mới đem ra xử bắn”.

 

Những lời bà Ngân tố cáo này tôi nghĩ cho đến nay cũng c̣n lưu giữ tại trại cải tạo Tiên Lănh, hay “Ty công an Quảng Nam-Đà Nẵng”. Theo tôi, th́ bà Sáu-Liên-Thanh Nga chỉ nói phét, chứ không bao giờ có cái chuyện chính quyền nào mà có những việc làm như vậy. Vả lại, bà Sáu-Liên-Thanh Nga là cái thá ǵ mà quyền hành ghê gớm như thế?

 

Chính v́ vậy, mà bà bị «câu lưu để điều tr. Cái miệng nó hại cái thân, bà bị đi “thẩm cung” nhiều lần. Nhưng không hề bị cùm giờ nào cả. Nên biết, nhà cùm biệt giam ở bên trại nam, trại nữ không có nhà cùm, nhà cùm này nằm ngay cạnh nhà 12, góc Hội trường của trại, gần cổng trại nam nh́n xuống “nhà cấp dưỡng” (nhà bếp). Trừ những người cựu tù trong trại cải tạo này đă và đang là đồng “đảng” với bà Sáu-Liên-Thanh Nga, c̣n tất cả các vị khác đều công nhận những điều tôi nói là hoàn toàn đúng với sự thật. Cũng nên biết, mỗi lần đi thẩm cung, mọi người đều thấy bà Sáu-Liên-Thanh Nga, luôn luôn ngồi giữa thanh thiên bạch nhật trên chiếc ghế cạnh chiếc bàn được « Trật tự » trại đem kê sẵn ở ngay Hội trường, để bà Sáu-Liên-Thanh Nga ngối viết «tường thuật ». Nên biết là Hội trường trống trơn bà viết “tườngThuật » hoài mà «cán bộ an ninh» chẳng hiểu một điều ǵ; bởi vậy, nên bà cứ phải viết nhiều lần, chứ không có bị công an tra tấn, đánh đập ǵ cả. Nhưng bọn Công an tại trại chúng thường đánh những người “vị phạm nội quy” như: Trốn trại, không chịu lao động... Chúng có thể đánh người tù, từ bị thương cho tới chết. Riêng «cán bộ quản giáo» và «cán bộ trực trại» th́ chúng có quyền lập biên bản mỗi lần tù nhân có những lời nói “khinh thường các cán bộ» hay «nói xấu chế độ»... những «tội» này một khi bị lập biên bản và đưa lên «Ban giám thị» th́ chắc chắn sẽ bị vào nhà cùm hoặc bị «câu lưu». Thời gian «câu lưu» tùy theo mức độ «vi phạm».

 

 Sau một thời gian bị “thẩm cung”, có một lần bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga bị cúp thăm nuôi. Và từ đó, suốt thời gian bị câu lưu từ tháng 5 năm 1981, cho đến ngày bà rời trại “cải tạo”, không có ai đi thăm nuôi bà một lần nào nữa cả. Trong thời gian này, phải nói là bà sống trong cảnh rất thiếu thốn. Hàng ngày với phần ăn của tất cả tù cải tạo đều chỉ được chia cho một chén sắn độn cơm (loại chén nhôm mà ngày xưa bộ đội Việt cộng miền Bắc thường dùng, nó lớn bằng cái bát uống nước loại nhỏ) và một tô canh rau muống hoặc đậu, bí, bầu… do tù sản xuất. Chỉ đến các ngày lễ như: Lễ Độc Lập 2-9, hay Tết Nguyên Đán… th́ tù “cải tạo” mới được ăn «bồi dưỡng» bằng cơm trắng và mấy lát thịt heo.

 

Và cũng chính v́ những sự thiếu thốn, gia đ́nh không thăm nuôi v́ bà chị đi buôn Sài G̣n bị tai nạn găy tay. Cộng thêm với tánh t́nh và lời nói khiếm nhă, nên đă khiến các bạn tù mà từ lúc đầu mới nhập trại họ từng thương mến, nhưng sau đó họ bắt đầu xa lánh. Nên biết, có nhiều người trong trại không bao giờ có thăm nuôi, v́ gia đ́nh nghèo hoặc vợ đă bỏ đi lấy người khác, nhưng họ vẫn được các bạn tù san xẻ nên không quá thiếu thốn.

 

Riêng bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga, từ lúc bị câu lưu có thể v́ quá sợ nên quẩn trí, tinh thần của bà mỗi ngày càng khác lạ. Rồi đến một ngày bà nổi điên, bà không làm ăng-ten lén lút, mà bà công khai trước mắt mọi người, hễ thấy trong trại có chuyện ǵ được cho là «vi phạm Nội quy» là bà công khai gọi « cán bộ trực trại» đến để tŕnh; dù là chuyện nhỏ nhặt như đổi áo quần lấy quà thăm nuôi… bà tŕnh tuốt luốt. Tŕnh đến nỗi có những lần «Cán bộ trực trại» chán quá nên khi bà gọi: «Thưa cán bộ …Thưa cán bộ...» là «Cán bộ trực trại» đă giă vờ không thèm nghe và bỏ đi không quay nh́n lại. Bởi thế, nên suốt ngày, đêm; suốt những tháng năm cuối trong trại, bà Sáu-Liên-Thanh Nga đă bị các tù nhân đồng ḷng cô lập; không một ai nói chuyên với bà, dù chỉ một lời thôi. Tôi c̣n được các bạn trong trại đă kể nhiều chuyện lắm, như chuyện bà đă đem ḷng yêu say mê các Sĩ quan như anh Mai Chiến Hạ, Giáo sư Nguyễn Văn Phùng, anh Đỗ Phạm Hiển…trong khi họ chỉ xem bà như là bạn tù, chuyện đó dễ hiểu, bởi họ đều biết bà là vợ bé của bạn tôi và cũng là bạn tù của họ. Có lẽ sau khi đọc bài viết của tác giả Mai Vĩnh Thăng, tôi nghĩ rồi có thể có “ư kiến” của nhiều người cùng trại nữa, để mọi việc sẽ được rơ ràng hơn.

 

 Nhưng tôi biết chắc có một nạn nhân của bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga đă bị “Kỷ luật” nặng nhất đó là bà Nguyễn Thị Cương, bà là vợ của ông Đặng Chua; nhà ở Phường Thanh Bồ, Đà Nẵng. Bà can tội đưa người vượt biển, v́ bà đă đưa người em gái ruột cùng ba đứa con nhỏ đi vượt biển, để đoàn tụ với người chồng là một thông dịch viên ở trong quân đội Hoa Kỳ; ông đă di tản trước khi đất nước rơi vào tay của cộng sản. V́ vậy, mà bà đă bị kết án ba năm tù ở, khi vào trại bà Nguyễn Thị Cương cho bà Sáu-Liên-Thanh Nga ăn chung một thời gian. Nhưng không hiểu tại sao sau đó bà Cương không cho bà Sáu-Liên-Thanh Nga ăn chung nữa. Có người nói: Lư do là v́ bà Sáu-Liên-Thanh Nga không có thăm nuôi, cũng có người cho rằng cái tánh t́nh của bà Sáu “Ưa làm bà nội người ta” nên bà Cương không chịu nỗi, nên không cho ăn chung.

 

Nhưng dù v́ lư do nào đi nữa, th́ bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga cũng đă làm bà Cương phải bị câu lưu ba tháng. Đó là nhân ngày lễ giảm án hàng năm tại hội trường trại nam, vào tháng 5/1984. Bà Nguyễn Thị Cương đă được đọc tên là “trại viên được giảm án sáu tháng”. Nhưng đến ngày măn án, bà Cương chuẩn bị để ra trại, th́ bà Sáu-Liên-Thanh Nga đă làm “Tờ tŕnh” với “Ban Giám Thị” nội dung nói bà Cương đă kể với bà Sáu-Liên-Thanh Nga là do chồng bà Cương chạy vàng cho ṭa án nên bà được giảm án sáu tháng. Chuyện này hư thực ra sao, chồng bà Cương là ông Đặng Chua có chạy vàng hay không th́ chẳng ai biết. Nhưng “Ban giám thị” đă gọi cả hai người, cả bà Cương lẫn bà Sáu-Liên-Thanh Nga đều phải vào Hội trường trại nam để viết “Bản Tường Thuật”... Phần bà Cương đă viết là không hề nói chuyện đó với bà Sáu-Liên-Thanh nga; c̣n phía bà Sáu-Liên-Thanh Nga th́ lại khai là chính bà Cương đă kể chuyện đó. Nhưng ai cũng hiểu, cho dù ông Đặng Chua có chạy vàng cho vợ được giảm sáu tháng tù th́ cũng v́ ḷng thương vợ. Riêng về phía “Ban Giám Thị” cho dù có biết chuyện chạy vàng có thật, th́ cũng ở dưới Ṭa Án Thành Phố Đà nẵng, chứ công an tại trại cải tạo chắc chẳng có xơ múi ǵ. Nhưng “Ban Giám Thị” trại đă tuyên bố:

 

“Trại viên Nguyễn Thị Cương đă bôi bác chế độ, chứ nhà nước XHCN luôn luôn trong sạch không bao giờ nhận tiền, vàng hối lộ. V́ vậy, chúng tôi quyết định câu lưu trại viên Nguyễn Thị Cương ba tháng và chịu phạt lao động công ích một tháng”.

 

«Lao động công ích», nghĩa là phải lao đông 12 giờ một ngày, không được nghỉ trưa; và bà Nguyễn Thị Cương đă phải chịu đủ h́nh phạt ấy trước khi rời trại.

 

Sau khi ra tù v́ quen biết với ông Đặng Chua, tôi đă đến thăm viếng gia đ́nh ông bà; đến lúc tôi định chào ông bà xin cáo từ, th́ bỗng đâu có hai cháu, là con gái của ông bà xuất hiên trước mặt tôi, đó là cháu Đặng Thị Vinh và cháu Đặng Thị Hiển. Hai cháu đều nói với tôi: « Tụi con nghe nói bác cùng đi vượt biển với bà Liên, vậy tụi cháu xin bác chỉ cho tụi con biết cái mặt của bà Liên (tức Sáu- Thanh Nga) để tụi con coi thử cái mặt bả ra làm sao mà bả ác quá vậy? ».

 

Tôi chưa kịp trả lời hai cháu Vinh- Hiển, th́ bà Nguyễn Thị Cương liền kéo tay tôi ra hiên nhà nói nhỏ:

 

“Tui xin ông, ông đừng có chỉ cho hai đứa nó biết mặt con Liên, V́ tui sợ hai đứa nó tức giận, lỡ tụi nó đánh hay nó thuê người đánh con Liên là tui khổ lắm đó”.

 

Tôi hỏi: Sao chị lại khổ?

 

Bà Cương trả lời: “V́ nếu như vậy, công an mà bắt ra họ khai thác, họ sẽ biết hai đứa này là con gái của tui, th́ họ sẽ bắt tui, họ sẽ nói tui thù con Liên, nên tui trả thù, mà tui sợ ở tù lắm ông ơi! Một lần tui tởn tới chết. Vậy, tui xin ông đừng bao giờ chỉ cho tụi nó biết mặt con Liên nghe ông”.

 

Nghe những lời bà Cương nói như vậy, tôi đă hứa là không cho hai cháu Vinh-Hiển biết mặt bà Sáu-Liên-Thanh Nga; mặc dù lúc đó tôi cũng như nhiều người từng ở trong trại “cải tạo” Tiên Lănh, đang sống tại Đà Nẵng, đều biết hàng ngày bà Sáu-Liên-Thanh Nga vẫn đạp xe đạp đi đến ngồi bán thuốc lá lẽ ở ngă tư Chợ Cồn, Đà Nẵng.

 

Sau một thời gian, tôi lại nghe những người cựu tù nói lại là bà Sáu-Liên-Thanh Nga đă bị mấy người phụ nữ lạ mặt đánh cho một trận đ̣n chí tử, đi không nổi, phải ḅ, và phải bỏ đất Đà Nẵng ra đi. Không ai biết người nào đă đứng đàng sau mấy người phụ nữ lạ mặt đă đánh bà Sáu-Liên-Thanh Nga, v́ lúc ở trong tù, bà đă gây thù chuốc oán quá nhiều, kể cả bà Yến sau này. Tôi cũng có gặp cháu Si Tiểu Phượng, cháu ở tù chung pḥng với bà Nguyễn Thị Sáu, Liên-Thanh Nga v́ “tội vượt biển”. Tôi không rơ hết chuyện ǵ đă xảy ra, những cháu Si Tiểu Phượng nơi: “Cháu thù hận con Liên suốt đời, v́ nó hại cháu và d́ Khanh rất khổ sở trong tù”. “D́ Khanh” mà cháu Si Tiểu Phượng nói, là bà Lê Thị Khanh, từ Quảng Ngăi đi với đứa con trai ra Đà Nẵng ở nhà của cháu Si Tiểu Phượng, để cùng đi vượt biển, rồi hai mẹ con bà Khanh cùng bị Công an Việt cộng bắt bỏ tù tại trại Tiên Lănh.

 

Trong lần thăm viếng này tôi có hỏi lại chuyện chạy vàng cho ṭa án Việt cộng; th́ ông Đặng Chua trả lời: “Tôi chẳng có chạy vàng, tiền ǵ cả. Chỉ là bà vợ tôi, v́ thương em ruột của bả nên đă đưa mẹ con nó đi vượt biển, để cho vợ chồng con cái đoàn tụ, c̣n vợ tôi không có vượt biển mà phải ở tù, trong khi các con tôi gồm năm đứa, chỉ có cháu Vinh và Hiển là lớn, c̣n ba đứa sau c̣n nhỏ, từ bốn tuổi, năm tuổi và bảy tuổi, mà thiếu mẹ; nên tôi đă làm đơn xin cứu xét gửi đến “Ṭa Phúc Thẩm” Đà Nẵng. V́ thế, họ đă cứu xét và giảm án sáu tháng”.

 

Đó là chuyện thiên hạ sự. Hư thực như thế nào tôi cũng không cần biết. Chỉ thấy tội bà Cương phải bị câu lưu ba tháng tù, mà c̣n bị phạt «Lao đông công ích» nghĩa là phải lao động cả ngày không được nghỉ trưa.

 

Về những «Bản Tường Thuật» và những lời tố qua, tố lại do chính tay của hai người là bà Nguyễn Thị Cương và Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga đă viết và đă kư, tôi chắc hiện vẫn c̣n lưu giữ tại “trại cải tạo” Tiên Lănh.

 

Ngoài những chuyện này, tôi cũng biết và Sáu-Liên-Thanh Nga đă từng đến nhà ăn ở với một người đàn ông tên Hoạt, nhà ở kiệt 6, đường Trần Cao Vân, Đà Nẵng. Trước 1975, ông Hoạt có mở lớp dạy Anh văn. Ông Hoạt bị tù 03 năm ở phân trại Thôn 5, thuộc Tổng trại “cải tạo” Tiên Lănh, v́ “tội vượt biển”.

 

Sau khi ra tù, vợ ông mất, để lại sáu đứa con, ông phải thuê một chiếc xích-lô, để chở khách, kiếm tiền nuôi con, nhưng v́ xe thuê, không đủ tiền nuôi con, nên ông “cặp bồ” với một bà tên Yến, có sạp vải tại Chợ Cồn, Đà Nẵng. Bà Yến góa chồng, có tiền, mỗi lần đến ở với ông Hoạt, bà Yến đều tiếp tế cho ông Hoạt, thường xuyên một giỏ thức ăn, có khi một con cá thu thật lớn, hay một miếng thịt heo to, để cho ông Hoạt và sáu đứa con của ông ăn.

 

Phần ông Hoạt, cứ cố gắng hẹn làm sao để cả bà Yến và bà Nguyễn Thi Sáu-Liên-Thanh Nga không “đụng” mặt nhau.

 

Tuy vậy, nhưng vẫn có một lần, “hai bà” chạm mặt đến này lửa. Lần này, bà Yến đă nổi cơn ghen kinh khủng, đă chửi mắng bà Sáu-Liên-Thanh Nga một trận, rồi buộc ông Hoạt phải chọn một, nếu không bà Yến sẽ đoạn tuyệt. Đến nước này, th́ ông Hoạt đă chọn bà Yến, v́ một ḿnh ông không nuôi nổi sáu đứa con. Ông Hoạt cần bà Yến. C̣n bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga lúc này, sau nhiều lần căi nhau với con trai của bà chị ruột là bà Nguyễn Thị Ba, nhà ở phường Thanh B́nh, Đà Nẵng, không thể ở chung với bà Ba, nên phải xin ở nhờ nhà của bà Nguyễn Thị Chín, nhà cũng ở phường Thanh B́nh, Đà Nẵng, hàng ngày đi bán thuốc lá lẻ, thường ngồi trước một cái tù thuốc lá nhỏ ở ngă tư Chợ Cồn. Bà Nguyễn Thị Chín, trước kia cũng ở tù cùng trại Tiên Lănh v́ “tội” vượt biển.

 

Kể từ đó, bà Sáu-Liên-Thanh Nga lại có thêm một “kẻ thù sống chết” là bà Yến.

 

Theo tôi nghĩ, ông Hoạt dành t́nh cảm cho bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga nhiều hơn, v́ bà Yến lớn tuổi, nhưng ông Hoạt cần sự no ấm của sáu đứa con của ông, nên ông đành phải chọn bà Yến, và dứt t́nh với bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga.

 

Những Hoạt động trong Mặt Trận Hoàng Cơ Minh của “tác giả Đóa Hồng Gai”:

 

Từ trang số 216, bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga, đă kể rất nhiều về những hoạt động của bà và đă nhận tiền của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh (tức “Đảng” Việt Tân) khi c̣n ở trong nước vào tháng 4 năm 1991; nhưng v́ quá dài ḍng nên tôi không thể trích hết vào đây. Tuy nhiên, tôi cũng phải trích vài đoạn ngắn như sau:

 

«Về Sài G̣n được ít lâu, anh Nuôi đến tận Bàu Nai gặp tôi và hẹn tôi tới một tiệm ăn ở gần chợ Ḥa Hưng, để gặp một đại diện của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh mới ở Mỹ về.

Trước đây, tôi đă nghe tên Mặt Trận Hoàng Cơ Minh khi đài BBC và báo chí trong nước tường thuật về cái chết của Tướng Hoàng Cơ Minh… Tôi nghĩ rằng đây là một tổ chức dám làm nên rất phấn khới ( từ phấn khởi này sao nghe giống Việt Cộng quá vậy?) khi được gặp đại diện của Mặt Trận….Anh Nuôi giới thiệu với tôi người lạ mặt đó là ông Phạm Trung Bửu, (Bí danh) Tổng Vụ Phó Quốc Nội của Mặt Trận…

“Trong cuộc gặp gỡ lần thứ hai này, ngoài tôi, anh Nuôi và ông Bửu, c̣n có thêm anh Trung tá Tấn (hiện cũng đang ở Mỹ). Trong buổi cơm chiều hôm đó, ông Bửu đă tŕnh bày cho tôi biết sơ qua về tổ chức của Mặt Trận và mục tiêu mà Mặt Trận muốn đạt tới. Ông nói ông có nhiệm vụ thiết lập thêm nhiều cơ sở hoạt động ở trong nước và hướng dẫn tôi về các phương thức xây dựng các cơ sở hạ tầng tại địa phương. Sau đó ông tŕnh bày về các công tác mà Mặt Trận muốn giao cho tôi thực hiện. Ông hỏi tôi có thể đảm nhận những công tác đó không. Tôi bảo đảm với ông tôi thừa can đảm và kinh nghiệm để làm những chuyện đó. Ông liền giao cho tôi một số công tác để thử. Tôi đă hoàn thành không có ǵ khó khăn.

Một thời gian sau, Mặt Trận có giao cho tôi những công tác khác và gởi cho tôi một số tiền để thực hiện các công tác đó. Tôi cũng đă hoàn thành một cách tốt đẹp….

 

trang 232, “chương Chân Trời Mới- Ra Hải Ngoại”. Bà Nguyễn Thị Sáu-Liên-Thanh Nga viết:

 

“Khi tôi báo tin cho đại diện của Mặt Trận biết tôi được phái đoàn phỏng vấn… ông Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Quốc Nội đă yêu cầu tôi ở lại Việt Nam và hứa sẽ giúp tôi đầy đủ phương tiện để sinh sống và hoạt động, nhưng tôi từ chối, v́ muốn đến Hoa Kỳ để chữa bệnh… Tôi có hứa tôi sẽ hoạt động trở lại sau khi chữa bệnh xong.

… Mặt Trận cũng quan tâm đến tôi. Tôi mới đến Detroit mấy ngày đă nhận được thiệp chúc mừng của Vụ Tổ Chức và Huấn Luyện. Đại diện của các cơ sở Mặt Trận ở Canada và Chicago cũng đến thăm tôi. Cơ sở Chicago mua vé máy bay cho tôi đi Chicago ăn Tết. Tại đây, tôi được đón tiếp rất niềm nở. Cơ sở đă tổ chức một buổi tiệc tân niên lớn, có đông đủ đoàn viên đến tham dự. Trong buổi tiệc này, tôi được giới thiệu đứng lên kể lại cuộc sống trong trại tù cộng sản… Sau đó, Bác sĩ Trần Xuân Ninh, Tổng Vụ Phó Tổng Vụ Hải Ngoại, và phu nhân mời tôi dùng cơm riêng tại tư thất của ông bà… Sau đó, Giáo sư Vũ Quư Kỳ, Tổng Vụ Phó Tổng Vụ Hải Ngoại, và phu nhân đă mời tôi ăn cơm thân mật tại tư thất của ông bà…

Tôi rời Michigan để về Cali vào ngày 10.3.1993, khi đang có những trận băo tuyết dữ dội. Trên đường đi, máy bay phải đổi giờ bay hai ba lần. Măi đến hai giờ sáng, tôi mới tới phi trường Los Angeles. Người đón tôi tại phi trường là anh Đỗ Hoàng Điềm, Xứ Bộ Trưởng Nam Cali. Anh đưa tôi về nhà anh nghỉ qua đêm. Sáng hôm sau, anh Bùi Huy, Chi Bộ Trưởng, đến đưa tôi tới một căn pḥng ở trên đường Kedge mà họ đă thuê sẵn của một gia đ́nh người Việt Nam cho tôi ở, đông thời hướng dẫn tôi về cách sinh sống và di chuyển trong vùng. Tôi rất mừng v́ được sống trong một gia đ́nh Việt Nam…

Sau khi nơi cư trú của tôi tạm ổn định, những anh em trong Mặt Trận đưa tôi đến sinh hoạt với Tổ Chức Liên Minh Tự Do. Hàng tháng Mặt Trận có trợ cấp cho tôi một số tiền để mua sắm những vật dụng cần thiết…”

 

Như tôi đă nói ở trên, bà Nguyễn Thị Sáu tức Nguyễn Thị Liên tức Nguyễn Thanh Nga, đă kể lê thê về những hoạt đông của bà với Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, (Việt Tân) nếu phải trích, phải đọc cho hết, th́ chắc các con cháu tôi phải kêu xe cấp cứu của bệnh viện, v́ tưởng tôi bị bệnh thổ tả.

 

V́ vậy, tôi xin dừng lại nơi đây; để trích qua đôi điều trong cái tập “Tài Liệu Tuyệt Mật” gồm 19 trang ấy. Trong đó, có đầy đủ các phương thức trong toàn bộ sách lược hoạt động. Để mọi người thấy được phần nào về cái mặt thật của Tổ chức này và cũng từ đó cứ “Lấy trong ư tứ mà suy…” để hiểu thêm tại sao trong tổ chức này lại có vô số cái giả.

 

Tài liệu này cũng đă có ghi nhiều tên đảng viên cộng sản thuộc hàng cao cấp nhưng tôi chỉ nêu lên một số ít như sau:

 

Nguyễn Hộ- Hồ Hiếu-Dương Thu Hương…….

 

Đến đây, chúng tôi lại xin phép được ngưng trích, và xin nói thêm là cái tên của một người, mà tôi đành phải để ba chấm ở trên mà không thể nêu đích danh; mặc dù trong tập “Tài Liệu Tuyệt Mật” đă có ghi rơ họ tên. Chúng ta hăy chờ xem. Hỡi những kẻ bất nhân trong môt băng đảng gian manh, tàn ác, chắc các ngươi không thể nào ngờ được 19 trang của cái gọi là “Tài Liệu Tuyệt Mật” cùng toàn bộ sách lược đă nằm gọn trong tay của một người xa lạ???

 

Chúng tôi cũng thừa hiểu, khi biết chúng tôi đă có trong tay những tài liệu này, th́ những tên đầu đảng phải t́m hướng đi cho khác với những ǵ đă ghi trong cái “Tài Liệu Tuyệt Mật”. 

 

Nhưng cho dù có thay đổi bằng cách nào đi nữa, th́ những nhân sự đă ghi đầy đủ ấy, không sao thay đổi được. Chúng tôi cũng tiên liệu được mọi điều. V́ thế, chúng tôi không công bố sớm, v́ làm như vậy, chúng tôi xét thấy không có lợi. Nên cho đến bây giờ mới đem ra công bố một phần rất nhỏ để cho đồng bào được biết.

 

Và bây giờ, tôi xin trở lại với tác giả «Đóa Hồng Gai». Trong thời gian qua bà Nguyễn Thị Sáu tức Nguyễn Thị Liên tức Nguyễn Thanh Nga, đă được băng đảng này đưa đi diễn lắm tṛ, từ Mỹ, đến Úc, rồi sẽ đến Pháp và c̣n nhiều nơi nữa … Trước đây, tại Nam Cali bà ta đă lập ra cái gọi là “Hội Của Những Người Vợ Của Cựu Tù Trại Cải Tạo Tiên Lănh”. Bây giờ lại ḷi thêm ra một màn “Đoàn ngũ hóa nhân dân”. Mà có điều thật khôi hài, lố bịch là khi kéo nhau đi sinh hoạt, cho đến lúc đứng chụp h́nh chung với các bà trong cái hội này lại có “ông Nhạc sĩ” Hồ Văn Sinh. Và suốt trong buổi sinh hoạt đó Hồ Văn Sinh luôn có mặt bên cạnh bà Sáu-Liên-Thanh Nga “tác giả Đoá Hồng Gai”. Sao lạ vậy? Hội của các bà mà lại có “ông” Hồ văn Sinh? Sao không dám nói Hồ Văn Sinh là cố vấn hay đạo diễn.

 

Tôi biết đa số các bạn cựu tù của trại cải tạo Tiên Lănh đang có mặt ở hải ngoại. Tôi nghĩ dù không nhớ hết, nhưng ít ra cũng biết và nhớ đôi câu trong một bản nhạc do “Nhạc sĩ” Hồ Văn Sinh sáng tác. Tôi c̣n nhớ khi mới nhập trại, tôi gặp Hồ Văn Sinh làm “Kỹ thuật”.

 

Nên biết, Hồ Văn Sinh làm kỹ thuật tại trại cải tạo; nhưng không phải là làm kỹ thuật máy móc, điện tử… mà làm “kỹ thuật lao động”. Nghĩa là ngày đêm phải “nghiên cứu” tức là phải nghĩ ra những cách nào để bắt tù “cải tạo” phải “lao động cho đúng kỹ thuật”.

 

Thí dụ, khi nam tù nhân thay trâu cày, cuốc cho nữ cấy th́ phải đúng “kỹ thuât” là cày sâu, cuốc bẩm… C̣n nhiều thứ kỹ thuật lao động” lắm mà chẳng làm sao kể cho hết được. Ngoài ra, Hồ Văn Sinh c̣n kiêm chức “Thường Trực Thi Đua” của trại 1.

 

“Thường Trực Thi Đua”. Nghĩa là phải “khuyến khích” đội này “Thi đua” với đội khác. Đội nào kém hơn th́ khi họp đội phải bị ghi trong biên bản là “Lao động chây lười”; Mà trong những lần họp toàn trại “Ban giám thị” của trại luôn nói với tù cải tạo rằng:. ”Lao động là thước đo của thời gian cải tạo », th́ mọi người đă hiểu “Lao động chây lười” th́ cái thước đo ấy nó sẽ dài đến bao nhiêu? Sau đó, Hồ Văn Sinh được chuyễn lên phân trại Thôn 5 để phụ trách đội văn nghệ; th́ tôi cũng được chuyển lên phân trại Thôn 5 cùng trại với Hồ Văn Sinh.

 

Ngay thời gian đầu mới phụ trách phần văn nghệ của trại; Hồ Văn Sinh đă sáng tác ra liền được một bản nhạc để ca tụng Đảng-Bác- Ca tụng trại cải tạo và để khuyên tù cải tạo đừng trốn trại. Bản nhạc này đă được lệnh của “Ban Giám Thị Trại” bắt buộc tù cải tạo mỗi lần sinh hoạt đội, hoặc sinh hoạt toàn trại, tất cả tù nhân nam, nữ đều phải vừa vỗ tay vừa hát. Nếu ai không vỗ tay, không hát sẽ bị vào nhà cùm kỹ luật. Dù thay đổi bao nhiêu lần “Giám Thị Trưởng” cũng như cả “Ban Giám Thị” Nhưng lệnh này vẫn không thay đổi. Nhân đây, tôi xin chép lại để mọi người thấy “ông nhạc sỉ” Hồ Văn Sinh này c̣n vô liêm sĩ hơn cả Trịnh Công Sơn.

 

Trong cuốn “Hồi kư Đóa Hồng Gai” ở trang số 131, tác giả có kể:
“Sau những giờ lao động, tù nhân c̣n bị bắt buộc phải học tập chính trị, nghe đọc báo, tập hát…”


V́ vậy, tôi xin chép lại nguyên văn bản nhạc mà tất cả các tù nhân ở trại 1 cũng như các phân trại khác thuộc trại tù Tiên Lănh ai cũng bị bắt buộc «chấp hành mệnh lệnh của Ban Giám Thị» phải vừa vỗ tay, vừa hát, bài hát do “nhạc sĩ” Hồ Văn Sinh đă viết như sau đây:

 

Tiên Lănh hôm nay sao mà đẹp thay, từng đồng lúa chín thơm ngát vầng trời mây… Ai tham gia lao động trên đất nầy…Ôi vinh quang thay… người lao động hôm nay… Ai… đến nơi đây mà ḷng không thấy ngất ngây… Những cánh đồng thẳng cánh c̣ bay… những hương thơm cỏ cây ngan ngát… Nghe như chừng có Bác về đây… Ai biết chăng ai… ta hăy cùng nắm lấy bàn tay… quyết một ḷng thi đua xây đắp… trên vùng đất này… để ta cùng dâng lên Đảng- Bác… những tấm ḷng son sắt hôm nay.

…………….

Tiên Lănh mê say Thiên Đường là đây, từng đàn bướm trắng bay khắp từng ngàn cây... Ôi như mơ như mộng bao tháng ngày...Ta không ra đi... ta ở lại nơi đây… Ta … ngắm mây bay mà ḷng mê đắm ngất say… Những sớm chiều mây lững lờ bay… những nương khoai vườn rau xanh mát… Ôi bao đời mới có hôm nay…Mây biết chăng mây… ta đă t́m đến chốn nào đây… biết một lần muôn sau ôm ấp… trong ḷng rất đầy… để ta về đêm đêm tỉnh giấc… vẫn nhớ hoài năm tháng hôm nay”.

 

Đó là những lời nhạc của “nhạc sĩ” Hồ Văn Sinh người đă ở trong trại “cải tạo” v́ tội Vượt Biển và là người phụ trách “Kỹ Thuât kiêm Thường Trực Thi Đua” và là “Trưởng Ban Văn Nghệ” của trại tù Tiên Lănh.

 

Ngoài những điều đă nói ở trên, Hồ Văn Sinh c̣n là một đệ tử thân cận của ông Vơ Đại Tôn; mà trước đây từng tham gia trong cái gọi là «Hội Nghị Liên Kết Trong Ngoài». Tôi vẫn thuộc ḷng bốn câu thơ của cụ Gàn Bát Sách đă viết tặng cái «Hội Nghị» này, và một lần nữa tôi xin phép Cụ để trích lại bốn câu thơ đó để mọi người đọc cho vui lời thơ như sau:

 

“Chẳng thà nó nhỏ nó thong,

C̣n hơn nó lớn, nửa trong nửa ngoài.

Chẳng thà nó nhỏ nó dài,

C̣n hơn nó lớn, nửa ngoài nửa trong”.

 

Rồi cụ viết tiếp: “… Đă vào th́ phải vào tuốt ở trong, th́ mới đă. Bằng không th́ ở hẳn bên ngoài chứ cứ ở nửa trong nửa ngoài th́ đâu có sướng”. Đó là những lời của cụ Gàn Bát Sách, cụ c̣n viết nhiều lắm, mỗi khi có th́ giờ tôi lại lục tủ báo Văn Nghệ Tiền Phong, để đọc lại những bài viết vô cùng giá trị, của những cây bút đă từng nỗi tiếng mấy chục năm qua.

 

 

Cuối cùng, để thấy được mọi việc một cách rơ ràng hơn nữa. Chúng tôi xin gửi đến quư vị đồng hương một đoạn ở trong tập “Nội San Việt Tân” nơi trang 9, số 38, tháng 7-8/1999, nguyên văn như sau:

 

“Việt Tân xác nhận tính toàn dân của cuộc cách mạng tháng 8-1945 và tính tự chủ của chính quyền được h́nh thành vào tháng 9-1945-Hai đặc tính Cách Mạng và Dân Chủ của Đảng Việt Tân”.

 

Đến đây, tôi thấy không cần phải viết thêm một điều ǵ nữa. Bởi v́ chừng ấy thôi. Ngoại trừ những kẻ đang theo đuổi bả Lợi-Danh. C̣n đối với những người dân lương thiện, cho dù chỉ là một người dân quê ít học, với bộ óc b́nh thường nhất, họ cũng thấy rơ ràng cái bộ mặt thật của băng đảng này rồi. Chẳng có cách nào để biện minh cho những việc làm của đảng Việt Tân.

 

Cuối cùng, với bài viết này, chúng tôi xin đề nghị quư vị cựu tù tại Trại cải tạo Tiên Lănh; cả hai trại Nam và Nữ, ai c̣n nhớ về những bản nhạc của “ông Nhạc sĩ” Hồ Văn Sinh; cũng như những hành vi của hai Nhân-Vật nầy; nếu hiện nay không là đồng đảng với Hồ Văn Sinh và bà Nguyễn Thị Sáu, tức Nguyễn Thị Liên, tức Nguyễn Thanh Nga, “tác giả Đóa Hồng Gai” th́ xin hăy vui ḷng liên lạc với Tin Paris để bổ sung thêm những ǵ c̣n thiếu sót mà chúng tôi chưa ghi chép đầy đủ.

 

 

Ngô Đông Cường

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính