TƯ TƯỞNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ H̀NH THỨC
Loại trừ chủ nghĩa cộng sản ra khỏi cơ thể của Cộng Đồng Quốc Gia, có nghĩa là loại trừ tư tưởng cộng sản, phương pháp cộng sản, và h́nh thức cộng sản ra ngoài mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống quốc gia. Đối với tư tưởng cộng sản, sự ngộ nhận khó có dịp xảy ra, bởi v́, chẳng những tư tưởng đó có đặc tính rất riêng biệt, mà lại ngôn ngữ dùng để diễn tả các tư tưởng cũng rất đặc biệt, cũng như lối biện luận rất đặc biệt của biện chứng pháp duy vật. Nhưng sự ngộ nhận thường xảy ra đối vớ các phương pháp cộng sản và h́nh thức cộng sản, v́ những nguyên nhân sau đây.
Lư do sâu xa đă làm cho nước Nga thâu nhận thuyết cộng sản làm lợi khí tranh đấu như chúng ta đă biết, là ư chí thực hiện công cuộc Phát Triển Dân Tộc Nga bằng cách Tây Phương Hóa. V́ vậy cho nên tất cả kỹ thuật của Tây phương đều được Nga thâu nhận làm của ḿnh. Khoa học của Tây phương là khoa học của Nga, phương pháp khoa học của Tây phương, trong mọi lĩnh vực là phương pháp khoa học của Nga, trong mọi lĩnh vực. Nhiều lần, v́ tự ty mặc cảm đối với sự lệ thuộc kỹ thuật đó, Nga Sô, muốn biểu lộ sự độc lập của duy vật biện chứng pháp đối với lối suy luận ‘’tư bản’’ của Tây phương, đă đưa ra những thuyết khoa học ly kỳ như thuyết Lisenko (1) trong ngành sinh học. Mặc dù đă cẩn thận, thay v́ một ngành như toán học trong đó sự sưu tầm đă bao quát, lựa chọn một ngành như sinh học trong đó sự khảo cứu c̣n thiếu sót, sự không thành thật của Lisenko lâu ngày cũng bộc lộ. Và sau khi mục đích phát triển kỹ thuật đă đạt, sau khi Nga Sô đă chứng minh khả năng thật sự của ḿnh về khoa học, tự ty mặc cảm không c̣n nữa, th́ chính các nhà bác học Nga Sô đă bác bỏ thuyết Lisenko. Khi c̣n ở trong một giai đoạn ấu trĩ của công cuộc Tây Phương Hóa, người Nhật cũng lầm những lỗi tương tự như Nga. Các sự kiện trên lại chứng minh tính cách quốc tế và nhân loại của khoa học.
Nhưng cũng v́ các sự kiện đó mà có sự lầm lẫn giữa phương pháp cộng sản và phương pháp Tây phương, h́nh thức tổ chức cộng sản và h́nh thức tổ chức Tây phương. Ở Việt Nam, sự lầm lẫn c̣n trầm trọng hơn nữa, v́ một lư do lịch sử.
Sau tám mươi năm bị loại ra khỏi các trách nhiệm lănh đạo quốc gia, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhiều người Việt Nam đă làm quen trở lại với các vấn đề lănh đạo, nhưng dưới sự chi phối của đảng cộng sản. V́ vậy cho nên, tất cả các kỹ thuật trong mọi lĩnh vực, mà cộng sản học được của Tây phương và mang ra thực hành ở Việt Nam, đều bị ngộ nhận là sáng kiến độc quyền của cộng sản. Ví dụ, ngày nay, nhiều người vẫn xem lối làm việc tập thể hay công cuộc tổ chức quần chúng là những sáng kiến của cộng sản, và không biết rằng, thật ra, chính lối làm việc tập thể và sự tổ chức tinh vi trong mọi lĩnh vực của đời sống là nguồn gốc sinh lực của Tây phương.
Bộ máy lănh đạo.
Bộ máy lănh đạo của cộng sản tổ chức theo lối độc tài đảng trị cũng là một bộ máy lănh đạo do Tây phương tạo ra đồng thời với thuyết cộng sản. Chỉ có khác ở chỗ Tây phương đă loại bỏ thuyết cộng sản đồng thời với phương pháp lănh đạo cộng sản.
Đối với các quốc gia cộng sản, thâu nhận phương
pháp lănh đạo cộng sản, là thực hiện một bộ phận, bộ phận của
lĩnh vực lănh đạo trong công cuộc Tây Phương Hóa toàn diện, theo
đường lối cộng sản.
Nếu chúng ta loại trừ lư thuyết cộng sản ra ngoài mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống quốc gia, đương nhiên chúng ta cũng loại trừ phương pháp lănh đạo cộng sản.
Nhưng công cuộc Tây Phương Hóa bộ máy lănh đạo của chúng ta vẫn là một phần thiết yếu trong công cuộc Tây Phương Hóa toàn diện mà chúng ta chủ trương.
Như thế, bộ máy lănh đạo của quốc gia sẽ được chúng ta quan niệm như thế nào ? Có phải chúng ta chỉ cần thâu nhận bộ máy lănh đạo của một quốc gia Tây phương là đủ không ?
Và, trong trường hợp đó, v́ lâu nay chúng ta rất quen thuộc với các kỹ thuật của người Pháp, th́ sự tiện lợi cho chúng ta trong lĩnh vực lănh đạo không phải là thâu nhận bộ máy lănh đạo của người Pháp sao ? Nếu, v́ một lư do nào, chúng ta không thể tổ chức bộ máy lănh đạo của chúng ta theo kiểu bộ máy lănh đạo của người Pháp, th́ chúng ta có thể tổ chức bộ máy lănh đạo của chúng ta theo kiểu quân chủ lập hiến của người Anh hoặc theo kiểu Tổng Thống Chế của người Mỹ không ?
Thật ra vấn đề đặt ra cho chúng ta trong lĩnh vực lănh đạo không phải như vậy, và trong thực tế rất phức tạp hơn nhiều.
Chúng ta c̣n nhớ, công cuộc Tây Phương Hóa, không
đường hướng và không mục đích, dưới thời Pháp thuộc đă lưu lại
cho Dân Tộc nhiều hậu quả tai hại. Trong công cuộc Tây Phương
Hóa đó, không toàn diện và không đến mức độ đủ cao, chỉ có h́nh
thức bề ngoài được chú trọng và các tinh túy đựng trong h́nh
thức hoàn toàn không được biết đến.
Trái lại, trong công cuộc Tây Phương Hóa có đường hướng, có mục đích mà chúng ta chủ trương, tuy tính cách đáng chú ư của h́nh thức không bị phủ nhận, nhưng chỉ có cái tinh túy đựng bên trong h́nh thức mới là quan trọng.
Trong phạm vi của sự Tây Phương Hóa bộ máy lănh đạo của quốc gia, chúng ta sẽ t́m nhận thức các nguyên tắc ngự trị quan niệm lănh đạo của Tây phương. Sau đó chúng ta sẽ cụ thể hóa những nguyên tắc bằng một h́nh thức của bộ máy lănh đạo. Nhưng h́nh thức này, chẳng những phải thỏa măn các nguyên tắc căn bản nói trên, mà c̣n phải được kiến trúc bằng vật liệu địa phương và phải được thích nghi với hoàn cảnh địa phương.
Dưới đây, chúng ta sẽ không đi sâu vào chi tiết
của một bản hiến pháp, thẩm quyền của các nhà soạn thảo hiến
pháp.
Tuy nhiên chúng ta sẽ nhận thức các nguyên tắc mà
một bộ máy lănh đạo, vừa được Tây Phương Hóa, vừa được thích
nghi hóa với hoàn cảnh địa phương của chúng ta, cần phải tôn
trọng.
Trong nhiều đoạn, ở rải rác trong các trang trên, mặc dầu không liên quan trực tiếp đến vấn đề bộ máy lănh đạo, nhưng v́ sự sáng tỏ của vấn đề tŕnh bày, chúng ta cũng đă đề cập đến những nguyên tắc mà một bộ máy lănh đạo, theo quan niệm của Tây phương, cần phải tôn trọng. Thừa hưởng văn minh cổ Hy Lạp và La Mă, sau hơn một ngàn năm kinh nghiệm với các vấn đề lănh đạo, đức tính chính xác về lư trí và minh bạch và ngăn nắp trong tổ chức của Tây phương, đă góp vào di sản văn minh nhân loại một h́nh thức của bộ máy lănh đạo, h́nh thức Dân Chủ Pháp Trị, có nhiều khả năng duy tŕ và phát triển trạng thái thăng bằng động tiến của Cộng Đồng.
H́nh thức của bộ máy lănh đạo, hiện nay của Tây
phương, phải thỏa măn những điều kiện nhắc lại dưới đây:
1.- H́nh thức của bộ máy lănh đạo phải bảo đảm được sự liên tục lănh đạo quốc gia.
2.- H́nh thức của bộ máy lănh đạo phải bảo đảm
được sự chuyển quyền một cách ḥa b́nh từ lớp người lănh đạo
trước cho lớp người lănh đạo sau.
3.- H́nh thức của bộ máy lănh đạo phải bảo đảm được sự thay đổi người lănh đạo.
4.- H́nh thức của bộ máy lănh đạo phải bảo đảm
được sự áp dụng nguyên tắc thăng bằng động tiến giữa quyền lợi
cá nhân và quyền lợi của tập thể.
Ngoài bốn điều kiện trên, bảo đảm tinh thần trường cửu của bộ máy lănh đạo, ba điều kiện dưới đây bảo đảm sự điều hành thiết thực và ngắn hạn của bộ máy lănh đạo.
5.- H́nh thức bộ máy lănh đạo phải bảo đảm một sự
lănh đạo quốc gia mở rộng, mục đích đào tạo nhiều người lănh
đạo.
6.- H́nh thức bộ máy lănh đạo phải bảo đảm sự kiểm soát người cầm quyền.
7.- H́nh thức bộ máy lănh đạo phải bảo đảm sự hữu hiệu của chính quyền.
Áp dụng vào Việt Nam.
Chúng ta đă biết rằng nguồn gốc chính của sức mạnh của các cường quốc, như Anh hay Mỹ, là sự thành công của họ trong việc thực hiện sự liên tục lănh đạo quốc gia trong nhiều Thế Kỷ. Tất cả các kinh nghiệm lănh đạo, trong nhiều thế hệ, c̣n giữ nguyên vẹn, kỹ thuật lănh đạo nhờ đó mà càng ngày càng tinh vi. Các bí mật quốc gia được truyền lại toàn vẹn, tất cả các kho tàng của dĩ văng được xếp vào văn khố và có người biết sử dụng văn khố. Ngày nay một nhà lănh đạo Anh đứng lên, đương nhiên sau lưng có một hậu thuẫn 400 năm dĩ văng, một di sản vô cùng quư báu tạo ra cho họ một sức mạnh phi thường. Bởi v́, với hậu thuẫn hiếm có đó, một nhà lănh đạo Anh có thể ứng phó và giải quyết những vấn đề vượt hẳn khả năng của những người, dầu tài ba đến đâu nhưng lại thiếu hậu thuẫn của dĩ văng.
Muốn thực hiện được sự liên tục lănh đạo quốc gia
nói trên, một bộ máy lănh đạo phải thỏa măn ba điều kiện.
Trước hết phải chấp nhận nguyên tắc thay đổi người lănh đạo lúc cần, và cả lúc b́nh thường miễn là những thay đổi không quá nhặt trong thời gian để cho sự thay đổi không có thể biến thành hỗn loạn. Điều thứ hai, bộ máy lănh đạo phải được quan niệm như thế nào để cho sự chuyển quyền lúc nào cũng thực hiện được một cách b́nh thường trong êm ái và ḥa b́nh, giữa người lănh đạo măn nhiệm và người lănh đạo mới thọ nhiệm. Điều thứ ba, là bộ máy lănh đạo phải có một h́nh thức tổ chức vừa tượng trưng cho sự liên tục lănh đạo quốc gia, vừa thể hiện cho sự liên tục đó trong thực tế.
Để thỏa măn điều kiện thứ ba, các chính thể trên thế giới áp dụng nhiều h́nh thức khác nhau nhưng chung qui thuộc về bốn loại. Ở Pháp, Quốc Trưởng là Tổng Thống tượng trưng cho sự liên tục lănh đạo quốc gia. Ở Mỹ, tổ chức Tối Cao Pháp Đ́nh. Ở Nga, đảng cộng sản. Ở các nước Quân Chủ, có Vua và Hoàng Gia.
Chức vụ Tổng Thống ở Pháp không hoàn toàn thỏa
măn được sự tượng trưng cho sự liên tức lănh đạo quốc gia, bởi
v́ óc sợ độc tài của người Pháp giới hạn nhiệm kỳ Tổng Thống là
5 năm hay 7 năm. Chẳng những thế, sự tranh chấp giữa các đảng
chính trị, mọc ra như nấm, thường tạo ra cho các cuộc bầu cử
Tổng Thống một không khí trả giá, làm giảm uy nghiêm của người
Quốc Trưởng.
Các giới lănh đạo trong các lĩnh vực của đời sống quốc gia phải có một tinh thần trách nhiệm và tự giác rất cao và một kinh nghiệm lănh đạo trưởng thành mới đưa một tổ chức như Tối Cao Pháp Đ́nh ở Mỹ lên bằng một tượng trưng sự liên tục lănh đạo quốc gia.
Trong các h́nh thức nêu ra trên đây, h́nh thức
đảng cộng sản ở Nga là một h́nh thức kém hơn cả, bởi v́, trong
thực tế, đảng cộng sản hoàn toàn thất bại trong việc thực hiện
sự liên tục lănh đạo quốc gia. Chế độ cộng sản không chấp nhận
sự thay đổi lănh đạo và khi lănh đạo từ trần hay cần phải thay
đổi sự tranh cướp chính quyền thường thường diễn ra một cách đẫm
máu. Đây là một trong các nhược điểm của chế độ cộng sản.
Cho đến ngày nay, h́nh thức thỏa măn nhất điều kiện bảo đảm sự liên tục lănh đạo quốc gia là h́nh thức Hoàng Gia của các chế độ có Vua như ở Anh và ở Nhật. V́ thế cho nên, sau khi chiến bại, mặc dù áp lực mạnh bạo và hành vi người chiến thắng của Quân Đội Mỹ đối với Thiên Hoàng, các nhà lănh đạo Nhật Bản, một lần nữa đă tỏ ra vô cùng sáng suốt, khi mang hết nỗ lực để bảo vệ Hoàng Gia Nhật. Hoàng Gia là biểu hiện cho sự liên tục lănh đạo quốc gia. Nhà Vua thể hiện sự liên tục lănh đạo quốc gia và đóng vai tṛ người thác thụ các bí mật quốc gia.
Nhân vấn đề này, một lần nữa, chúng ta lại nhận thức rằng sự lỡ cơ hội phát triển của chúng ta, Thế Kỷ vừa qua, đối với Dân Tộc chúng ta, là một tai hại vô cùng to tát. Nếu Nhà Nguyễn đă thực hiện được công cuộc duy tân, như Vua Duy Tân đă có ư định th́ ngày nay, có lẽ, ngoài sự Phát Triển Dân Tộc đă thực hiện được, chúng ta đă thừa hưởng một chính thể có những nền tảng vững chắc vào bậc nhất trong thế giới.
Trong bốn h́nh thức trên đây, không có h́nh thức
nào áp dụng cho chúng ta được, v́ những lư do mà mọi người đều
đoán biết. H́nh thức đảng cộng sản không thể chấp nhận được v́
chúng ta đă đặt vấn đề tiên quyết loại trừ chủ nghĩa cộng sản,
và v́ h́nh thức đó không có khả năng thỏa măn điều kiện bảo đảm
sự liên tục lănh đạo quốc gia. H́nh thức chức vụ Tổng Thống ở
Pháp cũng không hoàn toàn bảo đảm sự liên tục lănh đạo quốc gia.
Nhà Nguyễn đă bỏ lỡ cơ hội áp dụng h́nh thức Hoàng Gia. H́nh
thức tối cao Pháp Đ́nh ở Mỹ không thể áp dụng được v́ kinh
nghiệm lănh đạo của chúng ta c̣n ấu trĩ, trong mọi lĩnh vực của
đời sống quốc gia. Chúng ta phải t́m một h́nh thức tương tự như
h́nh thức thứ tư trên đây, nhưng để được thích nghi hóa với hoàn
cảnh địa phương của chúng ta, không đ̣i hỏi một kinh nghiệm lănh
đạo mà chúng ta c̣n thiếu, và một tinh thần trách nhiệm cao độ
chỉ t́m được ở một số ít người.
Chúng ta có thể đặt ra một Thượng Hội Đồng Quốc Gia, gồm những người có công trạng với tổ quốc và thấu triệt các vấn đề lănh đạo quốc gia, mà số lượng sẽ phù hợp với hoàn cảnh. Số người này sẽ được thay đổi một bách phân, trong một định kỳ, theo những thể thức thích nghi với điều kiện nội bộ của chính trường Việt Nam. Và trong một chu kỳ nhất định, Thượng Hội Đồng sẽ bầu một Quốc Trưởng, trong hay ở ngoài, hàng ngũ của ḿnh.
Thượng Hội Đồng sẽ tượng trưng cho sự lănh đạo
liên tục quốc gia, riêng biệt với nhiệm vụ Quốc Trưởng. Quốc
Trưởng thể hiện cho sự liên tục đó trong thực tế và đồng thời là
người thụ thác các bí mật quốc gia.
Điều kiện thay đổi người lănh đạo có thể thực hiện được bằng cách giao quyền hành pháp cho một người Thủ Tướng, chọn trong những người lănh đạo của hai đảng chính trị sẽ nói đến dưới đây. Thủ Tướng sẽ do Quốc Trưởng bổ nhiệm với sự đồng ư của tổ chức tượng trưng cho sự lănh đạo liên tục của quốc gia. Để tránh các sự lạm dụng có thể xảy ra, các nhà soạn hiến pháp có thể đặt ra những cơ thức kiểm soát giản dị và hữu hiệu.
Hai khuynh hướng.
Hai yếu tố chính, trong trạng thái thăng bằng
động tiến của một quốc gia, là quyền lợi ngắn hạn của cá nhân
của các phần tử trong tập thể và quyền lợi dài hạn của tập thể.
Nếu chúng ta đặt nặng về quyền lợi cá nhân và bỏ quyền lợi của
tập thể, tập thể suy đồi rồi quyền lợi cá nhân cũng mất, v́
không được bảo vệ bởi tập thể. Nhưng nếu chúng ta chỉ chú trọng
đến quyền lợi tập thể và hy sinh tất cả quyền lợi của cá nhân,
th́ các phần tử của tập thể không c̣n lư do sống nữa, và chính
mục đích của tập thể, là bảo vệ đời sống cho cá nhân, cũng sẽ
phá sản và do đó tập thể không c̣n lư do tồn tại nữa.
V́ vậy cho nên, sự giữ một trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi của tập thể là điều chính yếu trong sự lănh đạo quốc gia.
Đă nhận thức như vậy rồi th́ biện pháp hữu hiệu để cụ thể hóa việc nuôi dưỡng trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi tập thể, là thu họp hai xu hướng tự nhiên phải có ở mỗi phần tử của tập thể vào hai nguồn tư tưởng chính trị. Một bên nặng v́ tập thể và một bên nặng về cá nhân. Trong thực tế hai đảng chính trị tự đặt cho ḿnh, một bên, một mục đích bảo vệ quyền lợi tập thể, và một bên, mục đích bảo vệ quyền lợi cá nhân, thay nhau mà lănh đạo quốc gia dưới sự kiểm soát tương phản. Các nhà lănh đạo của hai đảng thay nhau nắm quyền hành pháp đương nhiên được quốc gia cung cấp phương tiện hoạt động và đảng nắm quyền đối lập cũng phải được quốc gia cung cấp phương tiện hoạt động.
Đại diện của hai đảng thi hành nhiệm vụ của ḿnh ở nghị trường. Và nhiệm vụ đó là lập pháp và kiểm soát hành pháp.
Dưới các chế độ độc đảng, như các chế độ độc tài
hay cộng sản, sự kiểm soát hành pháp hoặc không có hoặc thi hành
một cách tương đối. Sở dĩ, dưới chế độ cộng sản sự tự phê b́nh
và tự kiểm thảo đă được phát huy là v́ chế độ độc đảng của họ
không chấp nhận một sự kiểm soát từ ngoài đưa đến, cho nên bắt
buộc phải tổ chức một sự tự kiểm soát trong nội bộ. Nhưng một sự
tự kiểm soát trong nội bộ không bao giờ chu đáo được, bởi v́,
dầu mà các người tự phê b́nh, tự kiểm thảo trong nội bộ có đủ
thành thật đi nữa, một điều rất ít có, th́ họ vẫn có thể thành
thật mà lầm lẫn. Trong khi đó, một sự kiểm soát từ bên ngoài đưa
đến, đương nhiên không mù quáng trước các lầm lẫn của đối
phương.
Nhiệm vụ lập pháp không thể hoàn toàn giao phó cho tổ chức nghị trường được. Trong tŕnh độ dân trí hiện nay của xă hội chúng ta, tính cách đại diện sâu rộng cho nhân dân không thích hợp với khả năng chuyên môn mà công cuộc lập pháp đ̣i hỏi. Nhiệm vụ lập pháp cần giao cho một tổ chức lập pháp chuyên môn, gồm những nhà luật học về hiến pháp và luật pháp. Tổ chức nghị trường có thể đề nghị dự án luật, phản đối hay chấp nhận dự án luật.
Hai đảng chính trị có nhiệm vụ mở rộng vấn đề lănh đạo và đào tạo nhiều người lănh đạo. Dưới bộ máy lănh đạo, có bộ máy hành chính, bộ máy quân sự và bộ máy tổ chức quần chúng. Bộ máy lănh đạo là cái năo, bộ máy hành chính và bộ máy quân sự là chân tay, và bộ máy tổ chức quần chúng là cái vận tống để đưa bộ máy lănh đạo đến nhân dân và đưa nhân dân đến bộ máy lănh đạo.
Như thế, xây dựng một bộ máy lănh đạo Tây Phương Hóa không phải là đặt ra những bộ phận hành pháp, lập pháp, tư pháp…giống như những bộ phận tương tự nhận thấy ở các bộ máy lănh đạo của các nước Tây phương, hoặc dịch những danh từ của họ đă dùng để đặt cho các bộ phận của chúng ta đă tạo ra một cách miễn cưỡng. V́ như thế là chúng ta lại mắc vào cái bệnh h́nh thức. Bệnhh́nh thức ở đây cũng như ở các lĩnh vực khác của đời sống quốc gia, là di sản của thời kỳ Tây Phương Hóa không mục đích và không đường hướng thời Pháp thuộc.
Xây dựng một bộ máy lănh đạo Tây Phương Hóa, là trước hết t́m hiểu bản chất của bộ máy đó, là phân tích các nguyên tắc ngự trị của bản chất đó, và nhận thức các h́nh thức dùng để cụ thể hóa các nguyên tắc trên.
Sau đó, với những vật liệu địa phương, được sử dụng trong hoàn cảnh địa phương, chúng ta xây dựng một bộ máy lănh đạo thích nghi và hữu hiệu cho chúng ta, với những h́nh thức cố nhiên phải uốn nắn theo những điều kiện mà chúng ta đă nhận thức.
Nói một cách khác, làm thế là chúng ta đă Tây Phương Hóa có đường hướng bộ máy lănh đạo của chúng ta. Sau khi phân tích và nhận thức các nguyên tắc ngự trị bộ máy lănh đạo Tây phương, chúng ta xây dựng với những vật liệu của Dân Tộc và được sử dụng trong hoàn cảnh hiện tại của Dân Tộc, một bộmáy lănh đạo thích nghi với hoàn cảnh của chúng ta nhưng vẫn tôn trọng những nguyên tắc ngự trị bộ máy lănh đạo của Tây phương. Những nguyên tắc đó không khác những nguyên tắc ngự trị khả năng sáng tạo khoa học mà chúng ta đă biết. Trong trường hợp này, là tính cách ngăn nắp của các bộ phận của bộ máy lănh đạo.Tính cách phân minh của sự phân chia trách nhiệm và quan niệm chính xác về sự liên hệ giữa các trách nhiệm.
Kỷ luật quốc gia.
Giả sử chúng ta có thành công trong công cuộc tổ
chức bộ máy lănh đạo quốc gia, th́ sự thành công của bộ máy đó,
trong công việc lănh đạo quốc gia, lại tùy thuộc ở yếu tố nhân
sự. Bộ máy lănh đạo quốc gia sẽ thành công trong công việc lănh
đạo quốc gia, nếu các nhân sự có trách nhiệm trong mỗi bộ phận
của bộ máy, hiểu rơ phạm vi và giới hạn của trách nhiệm, quả
quyết thi hành trách nhiệm và có đủ khả năng đảm đương trách
nhiệm. Và nhân dân, mặc dù không ư thức một cách sung măn các
vấn đề lănh đạo, nhưng cũng phải được trang bị đủ kiến thức để ư
thức vấn đề cần phải giải quyết của Dân Tộc và chấp nhận hay
phản đối một sự lănh đạo có lợi hay có hại cho vấn đề này.
Do đó, vấn đề tổ chức quần chúng là một vấn đề
chính yếu trong đời sống quốc gia, như chúng ta sẽ thấy với chi
tiết ở một đoạn dưới đây.
Các yếu tố nhân sự kể trên đây thuộc vào một biểu lộ tinh thần chung: Tinh thần kỷ luật quốc gia. Tinh thần kỷ luật là một sự kiện thiết yếu cho mọi tập thể. Có tập thể là có kỷ luật. Có kỷ luật tập thể mới tồn tại. Tập thể càng lớn, kỷ luật càng thiết yếu, càng phức tạp và vô h́nh. Tập thể quốc gia là một tập thể lớn nhất của một Dân Tộc v́ Thế Kỷ luật quốc gia thiết yếu nhất cho Dân Tộc.
Có thể quan niệm kỷ luật quốc gia dưới hai h́nh thức, kỷ luật quốc gia tự do ưng thuận, và kỷ luật quốc gia cưỡng bách. Nếu mỗi người của chúng ta ư thức được tính cách thiết yếu của kỷ luật quốc gia và tự qui phục kỷ luật đó, th́ chúng ta áp dụng một kỷ luật quốc gia tự do ưng thuận. Dân Tộc càng có tính khí, kỷ luật quốc gia càng được tự do ưng thuận. Nếu chúng ta không tự qui phục kỷ luật quốc gia, th́ sự sống c̣n của tập thể chúng ta sẽ bị cưỡng bách đặt ḿnh vào kỷ luật quốc gia….
Tuy nhiên, vấn đề kỷ luật quốc gia, cũng như tất cả các vấn đề liên quan đời sống của một Cộng Đồng, vô cùng phức tạp. Từ thái độ cực đoan cưỡng bách của phương pháp độc tài đảng trị của cộng sản đến thái độ cực đoan tự do đến hỗn loạn, c̣n có một loạt trạng thái thăng bằng, như một quang phổ, ḥa hợp tự do và cưỡng bách. Thả lỏng cho tự do hoành hành đến hỗn loạn, hay đặt thành nguyên tắc cực đoan cưỡng bách theo phương pháp độc tài đảng trị của cộng sản, đều là những thái độ chọn một thăng bằng chết, là chọn một con đường dễ.
Trong khi đó đời sống, cũng như việc lănh đạo quốc gia, trước hết là duy tŕ và phát triển một trạng thái thăng bằng động tiến giữa hai lực lượng tương phản.
Trong trường hợp kỷ luật quốc gia, thực hiện trạng thái thăng bằng động tiến có nghĩa, cho các quốc gia ở trong khối tự do, là đặt nguyên tắc tôn trọng tự do nhưng chế ngự bằng một định phân cưỡng bách cần thiết để bồi dưỡng và phát triển thăng bằng. Định phân cưỡng bách lớn hay nhỏ tùy theo tŕnh độ tự giác của các phần tử trong tập thể đối với tính cách thiết yếu của kỷ luật Cộng Đồng. Nếu tŕnh độ tự giác cao, định phân cưỡng bách nhỏ, và nếu tŕnh độ tự giác thấp, quyền lợi của Cộng Đồng đ̣i hỏi một định phân cưỡng bách cao. Định luật của xă hội là như vậy: Nếu tinh thần tự chủ cao, th́ tŕnh độ tự giác sẽ cao, phân định cưỡng bách sẽ thấp, và chế độ sẽ là một chế độ có nhiều tự do, và mỗi phần tử trong Cộng Đồng sẽ tự ḿnh làm chủ ḿnh. Nếu tinh thần tự chủ kém, tŕnh độ tự giác sẽ thấp, phân định cưỡng bách sẽ cao và chế độ sẽ là một chế độ từ do hạn chế và mỗi phần tử trong Cộng Đồng sẽ nhường một phần lớn, quyền làm chủ ḿnh, cho Cộng Đồng.
Nếu tŕnh độ tự giác vô cùng nghèo nàn, th́ thăng bằng sẽ bị phá vỡ, theo một trong hai cơ thức, tuy có khác nhau nhưng đương nhiên sẽ dẫn dắt đến cùng một kết quả.
Nếu tŕnh độ tự giác vô cùng nghèo nàn, sự thực hiện một kỷ luật quốc gia, nhân danh quyền lợi của Cộng Đồng, sẽ đ̣i hỏi định phân cưỡng bách cao độ. Các nhà lănh đạo trong hoàn cảnh đó, dễ bị các phương pháp độc tài cám dỗ.
Riêng đối với chúng ta, chúng ta đă biết một chế độ độc tài sẽ mở cửa cho ngoại xâm của Tàu và cho đời sống nô lệ trong nhiều thế hệ.
Nên, trong trường hợp một tŕnh độ tự giác nghèo nàn, nhưng các nhà lănh đạo không v́ quyền lợi của Cộng Đồng mà đ̣i hỏi một định phân cưỡng bách cao độ, sự hỗn loạn sẽ hoành hành và đương nhiên cũng mở cửa cho ngoại xâm, bằng cách làm tan ră Cộng Đồng…
Như thế vấn đề đă rơ. Nếu chúng ta muốn làm chủ chúng ta, nghĩa là làm chủ vận mạng quốc gia của chúng ta, chúng ta phải cố gắng tạo cho chúng ta một tŕnh độ tự giác cao đối với kỷ luật quốc gia. Nếu không người khác sẽ làm chủ vận mạng chúng ta.
Bộ máy quần chúng.
Như chúng ta đă thấy, trong một phần trên đây, một đặc tính của sự tan ră của xă hội chúng ta là sự mất tín hiệu tập hợp đối với các phần tử trong Cộng Đồng quốc gia.
Ở trong một Cộng Đồng, tín hiệu tập hợp quan
trọng ở chỗ, nếu có tín hiệu tập hợp, th́ sự huy động các phần
tử của Cộng Đồng để theo đuổi một công cuộc chung mới có thể
thực hiện được.
Nước Nhật, khi bắt đầu công cuộc Tây Phương Hóa,
lợi khí sắc bén nhất của họ là tổ chức xă hội c̣n nguyên vẹn, và
sự tin tưởng vào Thiên Hoàng. Các nhà lănh đạo Nhật đă dùng sự
tin tưởng vào Thiên Hoàng làm một tín hiệu tập hợp để huy động
quần chúng thực hiện công cuộc Phát Triển Dân Tộc. Chúng ta đă
biết sự thành công của họ. Giả sử chúng ta bắt đầu công cuộc Tây
Phương Hóa đồng thời với Nhật, nghĩa là khi Tây phương mới tấn
công, lúc mà xă hội chúng ta chưa bị tan ră, th́ chắc chắn những
giá trị tiêu chuẩn lúc bấy giờ của xă hội có thể dùng làm những
tín hiệu tập hợp rất hiệu quả. Và sự huy động toàn dân vào công
cuộc Phát Triển Dân Tộc có nhiều ưu thế hơn ngày nay.
Xă hội chúng ta ngày nay, sau thời Pháp thuộc, bị tan ră. Các tín hiệu tập hợp không c̣n. Các nhà lănh đạo, để qui tụ quần chúng, hoặc khai thác mê tín, ở đâu cũng có, của quần chúng, hoặc áp dụng một chính sách độc tài cưỡng bách.
Khai thác mê tín, sẽ dẫn dắt đến một ngơ không
lối thoát v́ hai lư do. Trước nhất, chính người lănh đạo cũng mê
tín, th́ sẽ đưa đám người tin tưởng ở ḿnh vào những con đường
phiêu lưu không thiết thực và nhất là không thích nghi với những
vấn đề chính của Dân Tộc. Nếu người lănh đạo chính ḿnh không mê
tín, nhưng đám người mê tín theo họ sẽ không sống trong thực tế
nữa. Và nếu họ đă không sống trong thực tế, th́ không làm sao
dẫn dắt đám người mê tín này vào con đường Tây Phương Hóa. Không
làm sao mang các lư luận xác thực của khoa học thay thế vào các
sự huyền bí và hoang đường trong năo của họ.
Đối với một chính sách độc tài cưỡng bách, chúng
ta đă biết hoàn cảnh lịch sử và vị trí địa dư của chúng ta không
cho phép chúng ta áp dụng, nếu chúng ta không muốn đưa Dân Tộc
trở vào ṿng nô lệ.
Trong một xă hội mà tổ chức không bị tan ră, tín hiệu tập hợp c̣n giữ nguyên giá trị, các tổ chức quần chúng không thiết yếu cho công cuộc lănh đạo bằng trong một xă hội mà tín hiệu tập hợp không c̣n.
Và xă hội của chúng ta ngày nay ở trong t́nh trạng thứ nh́, v́ thế cho nên tổ chức quần chúng đối với chúng ta vô cùng cần thiết.
Xă hội không tổ chức.
Chúng ta đă thấy, trong một đoạn trên, xă hội của chúng ta ngày nay hoàn toàn vô tổ chức. Sự vô tổ chức đă bắt đầu từ ngày, trong công cuộc Nam tiến, sự chiếm đóng các đất mới đă không được thi hành đúng theo nguyên tắc tổ chức hạ tầng của xă hội chúng ta, lúc nguyên khởi. Các làng mạc ở Nam miền Trung và miền Nam mất dần h́nh thức chặt chẽ và trù mật cần thiết cho một cuộc sống tập thể. V́ vậy cho nên, cùng với sự mất h́nh thức trù mật của hạ tầng, tổ chức xă hội hạ tầng cũng mất.
Thời kỳ Pháp thống trị đă làm cho sự tan ră đó càng thêm trầm trọng. Đối với nơi nào mà các tổ chức hạ tầng đă hư hỏng th́ sự thống trị của Pháp càng làm cho sự hư hỏng tăng thêm nhiều lên. Bởi v́, như chúng ta đă biết, bản chất của nền cai trị thực dân là không thiết ǵ đến tương lai của dân bị trị. Nhiệm vụ của nó chỉ giữ trị an. Và v́ vậy cho nên tổ chức quần chúng của chúng ta đối với người Pháp, là không quan hệ, ngược lại, nó c̣n là một trở lực cho công cuộc trị an. Người Pháp chỉ chú trọng đến một bộ máy hành chính chuyên giữ trị an để phục vụ quyền lợi kinh tế của người thống trị. Và như vậy th́ sự giữ cho dân chúng sống rời rạc là một yếu tố quyết định cho sự thành công của chính sách thực dân.
Đối với những vùng mà tổ chức hạ tầng của chúng ta c̣n tương đối chặt chẽ, như ở miền Trung và miền Bắc, th́ người Pháp cũng đă làm vỡ tung các tổ chức xă hội hạ tầng của chúng ta. Trước hết, họ đă mang vào nước chúng ta một hệ thống kinh tế, mà tầm hoạt động bao trùm hết lănh thổ Đông Dương thuộc quyền của họ, để thay thế một hệ thống kinh tế đặt trên căn bản tổ chức làng mạc xưa của chúng ta. Kế đó là sự đặt ra chính sách thuế vụ trực tiếp với người dân để thay thế cho chính sách thuế vụ cũ đặt qua trung gian làng mạc, kể như là những đơn vị xă hội, sau gia đ́nh.
Dù mà các tổ chức hạ tầng của chúng ta có bền
chặt đến đâu, những biện pháp trên cũng làm vỡ tung ra được.
Hậu quả của những sự kiện trên, là sự vô tổ chức
của xă hội chúng ta ngày nay. Nếu những tín hiệu tập hợp của
chúng ta c̣n nguyên giá trị, th́ ảnh hưởng của sự vô tổ chức này
sẽ bớt tai hại. Nhưng chính tín hiệu tập hợp của chúng ta lại
cũng mất đi v́ thời gian thống trị của thực dân Pháp.
V́ vậy cho nên, sự vô tổ chức ngày nay là một t́nh trạng không thể nào để vậy được nếu chúng ta muốn dẫn dắt Cộng Đồng Dân Tộc vào con đường thực hiện những công tŕnh vĩ đại như công cuộc phát triển mà chúng ta phải đạt cho kỳ được trong giai đoạn này.
Tŕnh độ vô tổ chức.
Chúng ta phải ư thức rằng, sự vô tổ chức của xă hội chúng ta ngày nay ở vào một tŕnh độ rất trầm trọng. Bởi v́ chúng ta đă loại trừ chủ nghĩa cộng sản, th́ đương nhiên, khi nhận xét rằng xă hội chúng ta vô tổ chức, chúng ta không hề lấy sự quân đội hóa quần chúng trong xă hội cộng sản làm tiêu chuẩn. Nhưng, sự kiện mà chúng ta muốn nêu lên, là chính những tổ chức quần chúng của các quốc gia Tây phương, đặt sự tôn trọng tự do cá nhân làm một nghiêm luật của văn minh, chúng ta cũng không có.
Giả sử có ba nhóm người, một nhóm người của chế độ cộng sản, một nhóm của chế độ tự do Tây phương và một nhóm người Việt Nam. Cả ba nhóm đều đứng trước một thử thách chung: Phải vượt qua một đoạn đường dài có nhiều trở lực thiên nhiên bất ngờ, để di chuyển từ một địa điểm A đến một địa điểm B. Hành động của ba nhóm người sẽ ra sao ?
Trước hết, trong nhóm người của chế độ cộng sản, theo lệnh của người chỉ huy, tất cả đều vào hàng ngũ đă có của ḿnh. Có từng đội nhỏ, dưới sự chỉ huy nghiêm khắc của một đội trưởng.
Tất cả các đội họp lại thành đoàn, đặt dưới quyền của một người chỉ huy. Các đội trưởng, súng cầm tay, đạn chuẩn bị, lúc nào cũng sẵn sàng nổ súng, mọi người đều khiếp sợ và nghiêm chỉnh thi hành thượng lệnh. Lănh tụ giải thích rằng, v́ quyền lợi của giai cấp vô sản, đảng và lănh tụ nhận định sự di chuyển cần phải được thực hiện theo một lộ tŕnh duy nhất mà lănh tụ đă biết. Tất cả đều vừa đồng loạt hoan hô vừa nh́n ṇng súng sâu thẳm đang chĩa vào người.
Và cả nhóm tiến lên theo nhịp chân đi của quân đội. Dọc đường gặp trở lực thiên nhiên, cả nhóm người, v́ lănh tụ đă có chủ định và dưới áp lực của ṇng súng, vẫn tiến tới để ngă lần v́ kiệt sức và trở lực không vượt nổi.
Cuối cùng, nhóm người, sau khi tiêu hao sinh lực,
phải dừng lại đợi thượng lệnh thay đổi lộ tŕnh. Lệnh xuống, mọi
người lại vừa nh́n ṇng súng, vừa hoan hô và tất cả lại lên
đường theo một lộ tŕnh mới, dẫn dắt đến một trở lực mới. Phong
trào nhân dân công xă của Trung Cộng cũng thể hiện trường hợp
trên đây.
Nhóm người của khối tự do sẽ thực hiện cuộc di
chuyển một cách khác. Những người ngày tự chia làm những nhóm
nhỏ. Mỗi nhóm không có người chỉ huy, nhưng có một người được
nhóm giao cho trách nhiệm phối hợp các ư kiến chung về cuộc hành
tŕnh. Các người trách nhiệm lại hợp nhau, phối hợp hướng đi và
tốc độ của các nhóm, để cho sự vận chuyển của toàn thể được điều
ḥa dưới sự trách nhiệm của một người mà phần đông đều đồng ư
trao cho nhiệm vụ lănh đạo. Theo lệnh của người này, tất cả đều
lên đường, mỗi người tuy không thấu triệt, nhưng ư thức lư do
hành động của Cộng Đồng và lộ tŕnh trong hiện tại. Mặc dầu
không có hoan hô rầm rộ, nhưng có sự cương quyết tiến tới và sự
nhận thức các trở lực thiên nhiên đang đợi chờ. Dọc đường gặp
trở lực thiên nhiên, nhờ không có một chủ định cứng rắn về lộ
tŕnh, tất cả đều ngừng lại và lấy kỹ thuật khoa học nhận định
thực tế để t́m cách vượt qua. Nhờ vậy mà Tây phương đă t́m được
giải pháp cho các vấn đề xă hội cuối Thế Kỷ 19.
Sau cùng, nhóm người Việt Nam, sẽ thực hiện cuộc hành tŕnh như sau. Một người đứng lên, với sự ủng hộ của một vài người khác, giải thích sự cần thiết của cuộc di chuyển và đề nghị một lộ tŕnh. Nhưng chung quanh, kẻ đứng người ngồi, có người lắng tai nghe, có người đang tính việc riêng, có người đang giải trí, có người đang làm việc. Nh́n chung, một cảnh tượng vô cùng hỗn loạn.
Lúc người chỉ huy ra lệnh, một số bước lên đường, nhưng tốc độ không đều, người mau, người chậm. Số c̣n lại ngồi ngơ ngác không biết phải làm ǵ. Đi một đỗi, số người đi trước phải trở lại t́m cách thuyết phục những người chưa quyết định.
Dằng co, đi, ở không ngă ngũ. Thời giờ qua mà cuộc hành tŕnh chưa bắt đầu, chỉ v́ nhóm người của chúng ta chưa có tổ chức. Do đó, chúng ta bất lực khi cần phải thực hiện một công cuộc cần có sự góp phần của toàn thể Cộng Đồng.
Tác dụng
của tổ chức quần chúng.
Sự thể đă như vậy, nếu chúng ta muốn thực hiện một công tŕnh của tập thể, điều trước tiên, mà chúng ta phải làm, là tổ chức quần chúng của chúng ta.
Nhưng vấn đề quan hệ hơn nữa. Bởi v́ nếu chúng ta không tổ chức quần chúng của chúng ta, cố nhiên chúng ta không thực hiện được những công cuộc mà chúng ta trù tính.
Nhưng t́nh thế không phải chỉ đến đó mà thôi, bởi
v́, nếu chúng ta không dẫn dắt được đoàn người trên thực hiện
cuộc hành tŕnh dự tính, th́ người khác sẽ đến tổ chức họ và dẫn
dắt họ đi. Trong giai đoạn hiện tại của quốc gia, nếu chúng ta
không tổ chức được quần chúng và giải quyết các vấn đề hiện tại
của Cộng Đồng th́ các nhà lănh đạo cộng sản sẽ tổ chức quần
chúng và giải quyết các vấn đề hiện tại của Cộng Đồng theo quan
điểm cộng sản. Nhưng chúng ta đă biết giải pháp cộng sản sẽ di
hại như thế nào cho Dân Tộc.
Trong thực tế, các nhà lănh đạo cộng sản Bắc
Việt, thừa hưởng sự nghiệp nghiên cứu của cộng sản quốc tế, đă ư
thức sự kiện trên, nên từ lâu đă chú trọng rất nhiều đến việc tổ
chức quần chúng. Và chính sức mạnh của họ lâu nay nằm ở chỗ kỹ
thuật tổ chức quần chúng, của cộng sản quốc tế, được đặc biệt
nghiên cứu và áp dụng. Và một khi đă tổ chức được quần chúng rồi
th́ họ lại nắm được trong tay một lợi khí sắc bén mà chúng ta
chưa có.
Do đó, sự tổ chức quần chúng, đối với chúng ta là một yếu tố vô cùng cần thiết, chẳng những để thực hiện bất cứ công cuộc nào của Cộng Đồng, trong đó công cuộc phát triển là quan hệ nhất, mà đồng thời lại là một lợi khí để chặn đứng các sự phá hoại của du kích quân miền Bắc, đang hoạt động tại miền Nam.
Một lần nữa, chúng ta phải nhận thức rơ ràng rằng
một bộ máy hành chính dù có tinh vi đến đâu, một ḿnh cũng không
đủ để giải quyết các vấn đề hiện tại của Dân Tộc. Bởi v́ một bộ
máy hành chính không có một máy tổ chức quần chúng, sẽ không huy
động được toàn dân. Sở dĩ có quan niệm sai lầm về vai tṛ tự măn
của bộ máy hành chính là v́ kư ức của thời kỳ Pháp thuộc c̣n rất
mới. Và trong thời kỳ này, thật sự bộ máy hành chính của Pháp
rất là hiệu quả. Nhưng lúc bấy giờ những mục tiêu của người Pháp
không phải là những mục tiêu của chúng ta hiện nay. Hai điều này
chúng ta đă thấy rơ ở một đoạn trên.
Sau hết, lư do quan hệ nhất để chứng minh tính cách thiết yếu của sự tổ chức quần chúng, chính là công cuộc Tây Phương Hóa mà chúng ta phải thực hiện cho kỳ được.
Trong một đoạn ở trên, chúng ta đă thấy rằng công
cuộc Tây Phương Hóa phải toàn diện, nghĩa là phải được thực hiện
trong mọi lĩnh vực của đời sống, và phải ăn sâu và lan rộng
trong nhân dân. Nếu công cuộc Tây Phương Hóa chỉ giới hạn trong
một nhóm người lănh đạo, như trường hợp đă xảy ra cho một số
quốc gia ở Cận Đông, th́ sớm hay muộn quần chúng sẽ ly khai với
nhóm người lănh đạo và t́nh trạng xă hội sẽ chín mùi cho một
cuộc cách mạng lật đổ những người lănh đạo đă Tây Phương Hóa.
Một công cuộc Tây Phương Hóa nếu muốn có kết quả mong mỏi th́
phải ăn sâu và lan rộng trong nhân dân.
Một công cuộc Tây Phương Hóa ăn sâu và lan rộng trong nhân dân, có nghĩa là người chủ trương công cuộc Tây Phương Hóa phải làm thế nào để cho quần chúng, từ thành thị đến thôn quê, chấp nhận nhiều tập quán mới, theo một lối sống mới và hoạt động theo những tiêu chuẩn mới. Một công cuộc vĩ đại như vậy không thể do một bộ máy hành chính, dù có tinh vi đến đâu, nhưng chỉ một ḿnh, thực hiện được Và một công cuộc vĩ đại như vậy, nếu không có sự tham gia thật sự của quần chúng, sẽ thất bại chắc chắn v́ lực lượng thụ động của khối người đă quen sống theo những nề nếp, mà công cuộc Tây Phương Hóa đặt cho ḿnh mục tiêu phải thay đổi.
Đă như thế th́, thực hiện công cuộc Tây Phương Hóa có nghĩa là trước hết phải hướng dẫn nhân dân ư thức tính cách cần thiết của công cuộc Tây Phương Hóa và làm thế nào để Tây Phương Hóa. Sau đó phải dẫn dắt nhân dân đến chỗ hợp tác, với các nhà lănh đạo, để thực hiện những công tác cần thiết cho công cuộc Tây Phương Hóa.
Và những hoạt động có tính cách ăn sâu và lan
rộng trong quần chúng như trên, không thể thực hiện được trong
t́nh trạng vô tổ chức của nhân dân ngày nay, trong xă hội của
chúng ta. Điều kiện thiết yếu và tiên quyết cho những hoạt động
trên là sự tổ chức quần chúng. Và xuyên qua các tổ chức quần
chúng đó, những hoạt động trên mới có thể nảy nở được và mới có
thể đưa quần chúng đến sự hợp tác, trong công cuộc Tây Phương
Hóa, với các nhà lănh đạo.
Tóm lại, các đoạn trên đây, chúng ta nhận thức:
Trong t́nh trạng b́nh thường, các tổ chức quần
chúng đă là một yếu tố thiết yếu cho đời sống của một quốc gia
độc lập.
Trong một t́nh trạng quyết liệt như t́nh trạng
hiện nay, của các quốc gia đang t́m phát triển như chúng ta, các
tổ chức quần chúng là một yếu tố c̣n thiết yếu hơn nữa cho đời
sống của quốc gia.
Trong hiện tại chính trị của miền Nam ngày nay,
sự tổ chức quần chúng lại là một khí giới để chặn đứng các sự
phá hoại của du kích quân miền Bắc. Nhưng quần chúng của chúng
ta hiện nay hoàn toàn không có tổ chức. Chúng ta quen sống trong
một t́nh trạng hỗn loạn mà chúng ta lầm là cho là một t́nh trạng
tự do. Thật sự, trở lại vấn đề thăng bằng động tiến cần thiết
cho mọi Cộng Đồng giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi Cộng Đồng,
xă hội của chúng ta ngày nay là một xă hội sắp mất thăng bằng
nói trên, và chúng ta đang sống trong một hoàn cảnh mà quyền lợi
của Cộng Đồng bị hy sinh cho quyền lợi của cá nhân. Do đó, sự tổ
chức quần chúng và các tổ chức quần chúng, đối với chúng ta, trở
thành một yếu tố quyết định cho sự mất c̣n của Cộng Đồng.
Tổ chức quần chúng như thế nào
Dưới một chế độ độc tài đảng trị, cũng như dưới một chế độ Dân Chủ Pháp Trị, tổ chức quần chúng đều cần thiết v́ những lư do mà chúng ta đă phân tích. Tuy nhiên, quan niệm tổ chức, mục đích của các tổ chức và h́nh thức của các tổ chức đều khác nhau dưới hai chế độ.
Phương pháp lănh đạo của một chế độ độc tài đảng trị là cưỡng bách dưới mọi h́nh thức và với mọi tŕnh độ, với mục đích biến cá nhân thành những bộ phận dễ uốn nắn và dễ điều khiển của một bộ máy chung, mà tất cả giềng mối đều nằm trong tay nhóm người lănh đạo. V́ vậy cho nên, ngoài những tác dụng của những tổ chức quần chúng mà chúng ta đă biết, tổ chức quần chúng của một chế độ độc tài đảng trị c̣n có tác dụng uốn nắn cá nhân. Và v́ vậy mà h́nh thức của các tổ chức quần chúng trong chế độ này được trù liệu để chặt đứt hết các dây liên hệ của cá nhân với Cộng Đồng, dù là các dây liên hệ gia đ́nh, tôn giáo, văn hóa, kinh tế hay xă hội và thay vào bằng dây liên hệ duy nhất giữa cá nhân và đảng nắm chính quyền.
V́ quan niệm đó mà các tổ chức quần chúng trong một chế độ độc tài đảng trị đều là những tổ chức do chính quyền chủ trương, chính quyền điều khiển, chính quyền kiểm soát hoạt động và quản trị tài chính. Sự gia nhập vào tổ chức, cũng như sự tham gia vào hoạt động của tổ chức đều là cưỡng bách. Tính cách cưỡng bách, đương nhiên, sẽ tạo ra một sự tham gia lấy lệ của cá nhân. Lúc bấy giờ, thích nghi với nguyên tắc cưỡng bách, một sự khủng bố khéo léo hoặc công khai nhưng đúng mức, sẽ được thi hành để tích cực hóa sự tham gia của cá nhân đến một mức độ cần thiết cho sinh hoạt và sinh lực của tổ chức.
Phương pháp lănh đạo của một chế độ Dân Chủ Pháp Trị là một phân định cưỡng bách pháp luật ḥa hợp với tŕnh độ tự giác của cá nhân về nhiệm vụ đối với Cộng Đồng. Tổ chức quần chúng của một chế độ Dân Chủ Pháp Trị, ngoài những tác dụng thông thường c̣n có tác dụng phát huy ư thức Cộng Đồng của cá nhân. V́ vậy cho nên, tổ chức quần chúng có một h́nh thức trù liệu để thêm dây liên hệ giữa cá nhân và Cộng Đồng trong mọi lĩnh vực, gia đ́nh, tôn giáo, văn hóa, kinh tế và xă hội.
Do đó, các tổ chức quần chúng, trong một chế độ Dân Chủ Pháp Trị, sẽ do sáng kiến tư nhân chủ trương, tổ chức, điều khiển sinh hoạt và quản trị tài chính, dưới sự kiểm soát của chính quyền. Sự gia nhập của cá nhân vào tổ chức hoàn toàn tự ư, hay nếu cần được khuyến khích bằng những đặc quyền, ngoài quyền công dân thông thường, dành cho nhân viên của một tổ chức quần chúng.
Những cơ hội hoạt động để phát triển khả năng, t́m thấy ở các tổ chức quần chúng, cũng là một yếu tố khuyến khích sự gia nhập. Nhưng, dù trong trường hợp nào, sự gia nhập cũng hoàn toàn tự ư, và v́ vậy sự tham gia vào sinh hoạt của tổ chức, đương nhiên, rất tích cực, sinh lực của tổ chức tự nhiên dồi dào.
Chúng ta đă loại trừ chủ nghĩa cộng sản, th́
chúng ta cũng không thể chọn h́nh thức tổ chức quần chúng của
chế độ độc tài đảng trị, nếu không, th́ lư do loại trừ chủ nghĩa
cộng sản của chúng ta cũng không tồn tại.
Nhưng, giả sử chúng ta vượt qua quan điểm lư
thuyết trên, và v́ sự cám dỗ của phương pháp độc tài, chúng ta
chọn h́nh thức tổ chức quần chúng của chế độ độc tài đảng trị,
th́ theo một cơ thức giản dị, chúng ta sẽ đi đến một t́nh trạng
không có lối ra. Nếu đă chọn h́nh thức tổ chức quần chúng của
chế độ độc tài đảng trị, th́ chính quyền sẽ tổ chức, điều khiển
và quản trị các tổ chức quần chúng. Lúc bấy giờ, v́ một lư do dễ
hiểu, sự gia nhập vào tổ chức cũng như sự tham gia vào hoạt động
của các tổ chức sẽ không c̣n tự ư và tích cực nữa. Trong trường
hợp đó, chính quyền tiến thoái lưỡng nan. Nếu giữ nguyên t́nh
trạng th́ các tổ chức quần chúng, v́ thiếu sự tham gia tích cực
của cá nhân, sẽ không có đủ sinh lực để có tác dụng mong mỏi.
Nếu dùng biện pháp cưỡng bách để tích cực hóa sự tham gia của cá
nhân, th́ chính quyền, v́ không phải là một chính quyền độc tài
đảng trị, sẽ không làm sao sử dụng được những biện pháp độc tài
đảng trị mà không tạo ra một cuộc khủng hoảng trầm trọng cho
chính thể. Vả lại, chính quyền cũng không có đủ những biện pháp
cưỡng bách như trong một chế độ độc tài đảng trị để khắc phục
được t́nh thế.
V́ vậy cho nên, chúng ta không thể áp dụng một h́nh thức tổ chức quần chúng của chế độ độc tài đảng trị. Tuy nhiên, nếu chúng ta áp dụng h́nh thức tổ chức quần chúng, của chế độ Dân Chủ Pháp Trị nói trên đây, chúng ta sẽ phải gặp một trở lực, đặc biệt cho các quốc gia chậm tiến như quốc gia Việt Nam.
Trong hoàn cảnh xă hội của chúng ta hiện nay, ư thức tập thể của quần chúng rất yếu kém và kinh nghiệm tổ chức, điều khiên và quản trị các tổ chức quần chúng rất nghèo nàn.
Sự đóng góp tài chính của cá nhân, đương nhiên sẽ
rất giới hạn. V́ vậy sáng kiến tổ chức quần chúng không thể hoàn
toàn phát xuất từ trong nhân dân được. Chính quyền ngoài nhiệm
vụ kiểm soát đương nhiên phải đảm trách nhiệm vụ hướng dẫn sự tổ
chức, hướng dẫn sự đào tạo người điều khiển hoạt động, và quản
trị tài chính cho tổ chức. Điều thiết yếu là nhiệm vụ hướng dẫn
phải được minh định và không để cho nó sự lầm lẫn với vai tṛ
trực tiếp tổ chức, trực tiếp điều khiển và quản trị của chính
quyền như trong một chế độ độc tài đảng trị.
Trong trường hợp mà chúng ta đă có sẵn những tổ
chức quần chúng đă trưởng thành, và có nhiều cán bộ đă được
trang bị với những kinh nghiệm chuyên môn, về vấn đề tổ chức
quần chúng, th́ chẳng những vai tṛ hướng dẫn của chính quyền sẽ
không cần thiết, mà chúng ta nhờ cái vốn tổ chức quần chúng sẵn
có, c̣n có thể tránh được những lỗi lầm mà một sự hướng dẫn, vô
t́nh không đúng mức, có thể gây ra cho hệ thống tổ chức quần
chúng của chúng ta.
Tổ chức
quần chúng và tổ chức chính trị.
Thường thường hay có sự lầm lẫn giữa các tổ chức
chính trị và các tổ chức quần chúng. Nhiều người, vô t́nh, tưởng
các tổ chức quần chúng là tổ chức chính trị và nh́n thấy ảnh
hưởng chính trị của các tổ chức quần chúng. Nhưng cũng có nhiều
người, cố t́nh, gây sự lầm lẫn v́ muốn lợi dụng ảnh hưởng chính
trị của các tổ chức quần chúng để hậu thuẫn cho một vận động
chính trị.
Riêng ở Việt Nam, sự ngộ nhận một tổ chức quần chúng ra một tổ chức chính trị, thường hay xảy ra v́ một nguyên nhân lịch sử mà chúng ta đă có đề cập đến trong một đoạn trên. Sau hơn tám mươi năm bị loại ra ngoài ṿng các vấn đề liên quan đến sự lănh đạo quốc gia, một số đông người Việt Nam đă nối trở lại với các vấn đề lănh đạo trong thời kỳ kháng Pháp. Nhưng lúc bấy giờ cộng sản chi phối t́nh thế, nên các biện pháp lănh đạo được áp dụng lại được xem như là những sáng kiến độc quyền của cộng sản, hay là những biện pháp chính trị mà chế độ nào cũng phải áp dụng. Và trong chế độ độc tài đảng trị của cộng sản, các tổ chức quần chúng, là những công cụ chính trị của chế độ. V́ những lư do trên, mà nhiều người vẫn tin rằng, trong mọi chế độ, tổ chức quần chúng là tổ chức chính trị.
Ngoài ra, trong những quốc gia, như quốc gia Việt Nam hiện nay, đang bị nạn đột nhập xâm lăng của cộng sản, th́ các tổ chức quần chúng lại bị cộng sản dùng làm b́nh phong để che đậy những hoạt động chính trị bí mật. Hoặc cộng sản lợi dụng các tổ chức quần chúng như là một lực lượng chính trị áp đảo chính quyền quốc gia.
Các sự kiện trên tạo một hoàn cảnh thuận lợi để cho sự lầm lẫn dễ xảy ra giữa các tổ chức chính trị và tổ chức quần chúng. Tuy nhiên, nguyên do chính của sự lầm lẫn vẫn là ảnh hưởng chính trị của các tổ chức quần chúng.
Chính trường của một Cộng Đồng quốc gia là trường hoạt động chung của tất cả các phần tử của Cộng Đồng. V́ vậy cho nên, trên nguyên tắc, mỗi cá nhân đều có ảnh hưởng đến chính sự của Cộng Đồng. Tuy nhiên ảnh hưởng chính trị của cá nhân rất giới hạn, trừ ra trường hợp hoặc cá nhân đóng một vai tṛ quan trọng trong bộ máy quốc gia, hoặc nhiều cá nhân tập hợp lại thành một khối có một lực lượng đáng kể.
Nguồn gốc của ảnh hưởng chính trị của các tổ chức quần chúng là sự kiện trên đây.
Nhưng điều cần thiết cho chúng ta là phải nhận thức rằng, trong một chế độ Dân Chủ Pháp Trị, sự khác nhau, giữa hai tổ chức chính trị và tổ chức quần chúng rất rơ ràng, về mục đích cũng như h́nh thức tổ chức và phương pháp hoạt động.
Một tổ chức chính trị gồm những người cùng tin tưởng vào một đường lối chính trị, nghĩa là một toàn bộ giải pháp đối với các vấn đề của Cộng Đồng quốc gia, trong mọi lĩnh vực của đời sống. Mục đích tranh đấu của một tổ chức chính trị, nghĩa là của một chính đảng, là nắm chính quyền để mang các giải pháp mà chính đảng chủ trương áp dụng vào các vấn đề của Cộng Đồng. Trong chế độ Dân Chủ Pháp Trị, các tổ chức chính trị hoạt động công khai và là một bộ phận của bộ máy lănh đạo. Tổ chức chính trị có một hệ thống tổ chức địa dư như một hệ thống hành chánh.
Một tổ chức quần chúng gồm những người cùng làm
một nghề, hoặc cùng có những quyền lợi kinh tế tương đồng, hoặc
cùng theo đuổi một mục đích tôn giáo, hay một công cuộc xă hội,
văn hóa, đức dục hay thể dục. Mục đích của các tổ chức quần
chúng là bảo vệ quyền lợi chuyên nghiệp, kinh tế, văn hóa hay xă
hội của các nhân viên của tổ chức, hoặc bảo vệ một tín ngưỡng,
hoặc phát triển một công cuộc xă hội hay văn hóa. Hoạt động của
các tổ chức quần chúng do mục đích ấn định và không có lúc nào
trực tiếp đi vào lĩnh vực chính trị, nghĩa là vào lĩnh vực của
bộ máy lănh đạo. Ảnh hưởng chính trị của một tổ chức quần chúng
sẽ giới hạn trong việc ủng hộ hay không ủng hộ một đường lối
chính trị, khi cơ hội đưa đến, ví dụ trong một chiến dịch tuyển
cử, v́ đường lối đó có lợi hay không có lợi cho mục đích riêng
của tổ chức quần chúng.
V́ những sự kiện vừa phân tích trên đây mà trong một chế độ Dân Chủ Pháp Trị, sự lầm lẫn giữa hai tổ chức chính trị và tổ chức quần chúng, sẽ mang đến nhiều hậu quả bất lợi cho Cộng Đồng. Trước hết sự lầm lẫn sẽ mang đến một sự hỗn loạn trong tổ chức của bộ máy quốc gia và gây một hoàn cảnh thuận lợi cho sự đột nhập của cộng sản. Nếu chúng ta tôn trọng các tiêu chuẩn phân biệt tổ chức chính trị và tổ chức quần chúng, th́ các tổ chức quần chúng nào, lấy quần chúng của ḿnh để hậu thuẫn cho một vận động chính trị, đương nhiên sẽ là một tổ chức quần chúng đă bị sự đột nhập của cộng sản. Kinh nghiệm chỉ rằng sự kiện trên đây rất chính xác.
Ngoài ra, sự cố t́nh lầm lẫn giữa một tổ chức quần chúng và một tổ chức chính trị v́ một nguyên nhân chính trị, sẽ mang đến cho tổ chức quần chúng một cuộc khủng hoảng nội bộ trầm trọng, v́ mục đích của tổ chức đă bị xâm phạm. Cuộc khủng hoảng có thể mang đến sự tan ră của tổ chức.
Các tổ chức quần chúng công nhân và nông dân
Trong xă hội của chúng ta ngày nay, sự phân chia dân số theo ngành hoạt động kinh tế, ấn định hai loại tổ chức quần chúng quan trọng hơn hết về số lượng. Loại thứ nhất gồm các tổ chức quần chúng công nhân trong các xí nghiệp kỹ nghệ hay canh nông và thương măi, nghĩa là các nghiệp đoàn. Loại thứ hai gồm các tổ chức nông dân, như chúng ta sẽ thấy trong một đoạn sau, thích hợp nhất trong hoàn cảnh hiện nay ở thôn quê là h́nh thức hợp tác xă nông nghiệp, bảo vệ quyền lợi kinh tế của người nông dân. Hai loại tổ chức quần chúng trên đây thâu gồm đến chín mươi phần trăm dân số hoạt động và v́ những liên hệ gia đ́nh, sẽ ảnh hưởng đến chín mươi phần trăm dân số toàn quốc. Xét các bách phân dân số trên đây, chúng ta nhận thức vai tṛ quan trọng của các tổ chức nghiệp đoàn, và các tổ chức hợp tác xă nông nghiệp, trong đời sống quốc gia. V́ vậy cho nên, các nỗ lực tổ chức quần chúng của chúng ta phải tập trung về hai lĩnh vực nghiệp đoàn và hợp tác xă nông nghiệp.
Hợp tác xă nông nghiệp lại gồm từ bảy đến tám mươi phần trăm dân số. Nghiệp đoàn từ mười đến mười lăm phần trăm. Bộ máy quần chúng của chúng ta gần như là bộ máy hợp tác xă nông nghiệp. Nông thôn đóng một vai tṛ quyết định trong công cuộc tổ chức quần chúng và trong các công cuộc khác của quốc gia, bởi v́ như chúng ta đă thấy, tổ chức quần chúng là một lợi khí để chúng ta thực hiện các công cuộc dự tính của Cộng Đồng.
Thành phần dân số c̣n lại ở các đô thị, tuy nhẹ về số lượng, nhưng lại vô cùng quan trọng về phẩm chất và tính của chất hoạt động của họ, bởi v́ trong số này gồm tất cả những phần tử của các bộ phận khác của bộ máy quốc gia: Các bộ máy lănh đạo, hành chánh và quân sự, và các cơ cấu điều khiển của những khu vực kỹ nghệ và thương măi công cộng và tư nhân.
Số người này, ngoài các tổ chức đương nhiên của ngành hoạt động của họ, có thể tham gia vào nhiều loại tổ chức quần chúng mà mục đích là bảo vệ tín ngưỡng, quyền lợi nghề nghiệp hay kinh tế, hay theo đuổi một công cuộc văn hóa, xă hội hoặc đức dục hay thể dục hay du lịch. Đời sống của quốc gia ở các đô thị và ở thủ đô càng phức tạp và càng phong phú, th́ các tổ chức quần chúng cũng phải được thích nghi hóa với hoàn cảnh và gồm nhiều loại.
Ở nông thôn, đời sống của nhân dân giản dị hơn và h́nh thức sống kém trù mật hơn. Do đó tổ chức quần chúng có thể chỉ là những hợp tác xă nông nghiệp với một h́nh thức rất là sơ đẳng, dễ điều khiển và dễ sinh hoạt.
Ở trên các tổ chức nghiệp đoàn và các tổ chức hợp
tác xă một bậc, về tính cách tinh vi của tổ chức và kỹ thuật
chuyên môn khá cao, mà sự điều khiển các tổ chức này sẽ đ̣i hỏi,
có các tổ chức hỗ tương bảo hiểm. Bảo hiểm về bệnh hoạn, bảo
hiểm về tai nạn lao động, bảo hiểm về trâu ḅ, bảo hiểm về sinh
sản và về già cả. Tất cả các tổ chức tương hỗ bảo hiểm nhằm mục
đích bảo vệ trên nhiều phương diện và bằng nhiều h́nh thức quyền
lợi cá nhân của các phần tử của tập thể, đồng thời phát huy tinh
thần tập thể của cá nhân.
Giáo dục quần chúng.
Ngoài những tác dụng đương nhiên của các tổ chức
quần chúng mà chúng ta đă biết, bộ máy tổ chức quần chúng của
quốc gia, c̣n đóng góp một phần rất quan trọng vào các chương
tŕnh giáo dục quần chúng. Các chương tŕnh giáo dục quần chúng
khác biệt và không thay thế các chương tŕnh thông thường giáo
dục tổng quát mà chúng ta sẽ đề cập đến trong một đoạn sau này.
Các chương tŕnh giáo dục quần chúng là những khí cụ cần thiết và hữu hiệu để hậu thuẫn cho công cuộc Tây Phương Hóa ăn sâu và lan rộng trong dân chúng, như chúng ta đă biết. Các mục tiêu vừa có tính cách ngắn hạn đối với những kỹ thuật sản xuất Tây phương, vừa có tính cách dài hạn đối với những tập quán mới cần phải trang bị dân chúng trong công cuộc Tây Phương Hóa toàn diện.
Các tổ chức quần chúng c̣n là những hoạt động
trường để huấn luyện tinh thần tập
thể của nhân dân, và ư chí tự do và độc lập mà Dân Tộc đ̣i hỏi
trước sự đe dọa xâm lăng liên tục của Trung Hoa.
Trong những mục tiêu ngắn hạn, có những chương
tŕnh phổ biến các kỹ thuật sản xuất của Tây phương và chương
tŕnh đào tạo tinh thần kỷ luật mà các phương tiện sản xuất kỹ
nghệ đ̣i hỏi.
Công cuộc phổ biến những kỹ thuật sản xuất của
Tây phương liên hệ trước hết đến nông nghiệp và tiểu công
nghiệp. Các hợp tác xă sơ đẳng và các nghiệp đoàn tiểu công
nghiệp đóng một vai tṛ chính yếu trong việc phổ biến này.
Lâu nay người dân Việt Nam chỉ quen với lề lối
sản xuất của một nền kinh tế nông nghiệp. Công việc đồng áng
không đ̣i hỏi ở người nông dân một kỷ luật cứng rắn về thời gian
và một sự căng thẳng về tinh thần, như khi một người công nhân
một xí nghiệp chịu trách nhiệm về một bộ phận của một xưởng máy
kỹ nghệ to tát. Công việc đồng áng của chúng ta, cho phép, ít
nhiều một sự luộm thuộm trong công tác và một sự lờ mờ trong sự
phân chia công tác. Tính cách thiếu phân minh và thiếu trật tự
của lối sản xuất nông nghiệp của chúng ta, trải qua nhiều thế
hệ, đă tạo cho người nông dân chúng ta một tập quán bừa băi
trong công việc và sự mù mờ trong sự hiểu biết.
Lối sản xuất kỹ nghệ, trái lại không dung nạp sự
bừa băi trong công việc, và sự mù mờ trong sự hiểu biết. Sản
xuất kỹ nghệ chỉ có thể thực hiện được một cách hiệu quả trong
trật tự, trong phân minh. Ngoài ra, việc săn sóc và tu bổ các
máy móc, nghĩa là các phương tiện sản xuất kỹ nghệ, đ̣i hỏi ở
người sử dụng, những nỗ lực liên tục hàng ngày. Các cố gắng đó
là những nguyên nhân đưa đến một t́nh trạng căng thẳng tinh thần
mà đời sống lâu nay ở thôn quê, trong một hoàn cảnh kinh tế hoàn
toàn nông nghiệp chưa hề biết đến.
V́ thế cho nên, khi một người nông dân, từ biệt
ruộng đất của ḿnh để trở thành một công nhân xí nghiệp, hành vi
nhỏ nhặt đó không phải chỉ có nghĩa là đổi công việc mưu sinh.
Thực ra hành vi đó c̣n có nghĩa là người nông dân từ bỏ một lối
sống dễ dăi và vô trật tự theo nhịp khoan thai của thời tiết để
đi vào một lối sống kỷ luật và ngăn nắp theo nhịp thúc đẩy của
máy móc. Nghĩa là người nông dân sẽ phải làm quen và chấp nhận
một sự căng thẳng về tinh thần mà lâu nay họ chưa hề biết đến.
Và lần lần chính tâm lư của nông dân cũng sẽ thay đổi, cũng như
lối nh́n đời sống của họ.
Một sự biến đổi tương tự, đương nhiên không thể là một việc dễ. Không bao giờ, dù mà sinh kế có bắt buộc họ trở thành một công nhân xí nghiệp, một người nông dân, tự họ có thể thực hiện được sự tự biến đổi nếu không có những sự hướng dẫn và giúp đỡ hữu hiệu bên ngoài.
Nhưng lâu nay, trong sự biến đổi này, người nông dân không hề được hướng dẫn và giúp đỡ. Sự biến đổi này cũng mang tính cách hỗn loạn chung của công cuộc Tây Phương Hóa, không đường hướng của xă hội chúng ta dưới thời Pháp thuộc.
Nhiệm vụ hướng dẫn và giúp đỡ nói trên đây một phần lớn là nhiệm vụ của nghiệp đoàn công nhân và một phần nhỏ là nhiệm vụ của các xí nghiệp.
Nhưng lâu nay các xí nghiệp hoặc do người ngoại quốc điều khiển, hoặc được tổ chức trên căn bản quyền lợi cá nhân, cho nên không bao giờ quan tâm đến vấn đề biến đổi những nông dân thành người công nhân trong khuôn khổ một công cuộc Tây Phương Hóa toàn diện.
Nghiệp đoàn của chúng ta, cũng như của các quốc gia đang phát triển, đều chưa hoàn toàn cởi bỏ được cái áo Tây phương, nên cũng chưa chú trọng đúng mức đến sự biến đổi của người nông dân nói trên đây. Nguyên nhân của t́nh trạng đó như sau:
Nghiệp đoàn Tây phương.
Nguồn gốc của các nghiệp đoàn Tây phương theo các nhà xă hội học, là các phường nghề nghiệp xưa kia gồm những người cũng hành một nghề, vừa chủ nhân vừa công nhân. Nhưng nghiệp đoàn công nhân, dưới h́nh thức hiện tại ở Tây phương, mới được quan niệm rơ rệt và phát triển đến mức trưởng thành từ sau cuộc cách mạng kỹ nghệ của các quốc gia Tây phương. Và ngày nay, tổ chức nghiệp đoàn là một yếu tố quân b́nh quan trọng trong bộ máy quốc gia.
Sau khi các phương tiện sản xuất kỹ nghệ được
phát minh và thâu nhận vào xă hội Tây phương, như chúng ta đă
phân tích trong một đoạn trên, các lực lượng sản xuất mới đă tạo
ra nhiều xáo trộn xă hội, làm lung lay đến nền tảng các cơ cấu
quốc gia của các nước đă kỹ nghệ hóa. Các cơ cấu xă hội cũ, tổ
chức trên căn bản kinh tế thủ công nghệ và nông nghiệp, hoàn
toàn bất lực trong công việc thâu nhận những lực lượng sản xuất
kỹ nghệ. Các trạng thái thăng bằng của xă hội bị áp đảo đến cực
độ.
Nhân đó, thuyết cộng sản được đề nghị như là một phương thuốc để trị các cơn khủng hoảng. Chúng ta đă thấy, trong hoàn cảnh nào, các nhà lănh đạo Tây phương, v́ lư do ǵ, đă từ chối giải pháp cộng sản. Và ngày nay chúng ta đang mục kích sự thành công của Tây phương trong công cuộc chẳng những bài trừ các cơn khủng hoảng của xă hội mà lại c̣n đặt những căn bản thiết thực để bảo đảm cho sự phát triển của toàn thể Cộng Đồng bằng cách sử dụng những phương tiện kỹ thuật ngày càng tinh vi.
Các tổ chức nghiệp đoàn công nhân đóng góp một phần quan trọng trong sự thành công nói trên.
Nguyên do chính của các xáo trộn xă hội trong các
quốc gia Tây phương lúc vừa xảy ra cuộc cách mạng kỹ nghệ, là sự
kiện trạng thái thăng bằng động tiến, giữa quyền lợi cá nhân và
quyền lợi Cộng Đồng bị áp đảo đến cực độ, v́ sự bành trướng khác
thường của quyền lợi cá nhân. Sự thiếu kinh nghiệm, đương nhiên,
đối với những hậu quả xă hội của những phát minh mới, và tổ chức
của xă hội lúc bấy giờ, căn cứ trên một nền kinh tế thủ công
nghiệp và nông nghiệp, đă cho phép sự thâu gồm vào tay một thiểu
số những phương tiện sản xuất cực kỳ hùng hậu. Ư thức Cộng Đồng
của thiểu số nắm trong tay các lực lượng sản xuất mới, lại không
phát triển đồng thời với khả năng hùng hậu của kỹ thuật mới phát
minh.
Tổ chức xă hội cũ hoàn toàn bất lực trong công
việc phân phối tài sản quốc gia một cách công b́nh. Tài sản quốc
gia có tăng, nhờ các lực lượng sản xuất mới, mà mức sống phần
đông lại giảm v́ sự phân phối thất bại.
V́ các lư do trên đây, tác dụng nguyên khởi của các nghiệp đoàn công nhân là góp một phần hữu hiệu vào công việc đặt căn bản mới cho sự phân phối tài sản quốc gia. V́ vậy cho nên, trọng tâm hoạt động của các nghiệp đoàn công nhân Tây phương, lúc đầu, là yêu sách về quyền lợi của đoàn viên, để bảo đảm cho công nhân một bách phân xứng đáng trong sự phân chia lợi tức quốc gia.
Tuy nhiên, những biện pháp yêu sách vẫn chưa có tác dụng quyết định và lâu dài, để bảo đảm cho trạng thái thăng bằng giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi Cộng Đồng.
Các tổ chức nghiệp đoàn công nhân đă nghiễm nhiên từ một vai tṛ phản đối và yêu sách, trở thành một yếu tố quân b́nh quan trọng trong bộ máy quốc gia. Và lịch sử của tổ chức nghiệp đoàn công nhân Tây phương, minh tả sự biến h́nh của một h́nh thức xă hội mới, có khả năng thâu nhận những lực lượng sản xuất kỹ nghệ, duy tŕ trạng thái thăng bằng giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi Cộng Đồng, và nhất là đặt những căn bản thiết thực, bảo đảm cho sự sử dụng những phương tiện kỹ thuật càng ngày càng tinh vi để phát triển Cộng Đồng nhân loại và phát triển con người.
Đồng thời, các hoạt động của nghiệp đoàn công nhân Tây phương cũng tăng gia và biến chất. Thêm vào các hoạt động yêu sách, càng ngày các hoạt động giáo dục và huấn luyện đoàn viên càng được bành trướng và trở thành hoạt động chính yếu của các nghiệp đoàn công nhân Tây phương.
Phạm vi huấn luyện và giáo dục, đi từ các kỹ thuật tổ chức chuyên môn của nghề nghiệp đến các kỹ thuật tổ chức và điều khiển nghiệp đoàn và đến vị trí và nhiệm vụ của nghiệp đoàn, xem như là một yếu tố quân b́nh của bộ máy quốc gia.