CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM
PHẦN II a
VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM TRONG KHUNG CẢNH THẾ GIỚI VỪA TR̀NH BÀY
Theo như đă tŕnh bày trên đây th́ vị trí quốc tế hiện tại của Việt Nam do các điểm dưới đây minh định:
1.- Việt Nam là một nước nhỏ và kém mở mang.
2.- Theo truyền thống văn hóa, Việt Nam thuộc vào xă hội Đông Á.
3.- Việt Nam thuộc vào khối các nước Á Châu vừa thoát khỏi ách thực dân đế quốc.
4.- Việt Nam đang cần phải Tây Phương Hóa như tất cả các nước không thuộc khối Tây phương để: Một là tồn tại, bảo vệ độc lập, hai là để phát triển đời sống kinh tế hầu xây dựng hạnh phúc cho nhân dân.
Bốn điểm trên đây minh định vị trí của nước chúng ta trong thế giới ngày nay vừa trong lĩnh vực địa dư vừa trong lĩnh vực tiến hóa chung của nhân loại. V́ vậy cho nên, cùng với những điều kiện nội bộ riêng cho Việt Nam mà chúng ta sẽ thấy sau này, các điểm này chi phối mọi đường lối chính trị của chúng ta trong ít lắm là vài Thế Kỷ.
Do đó, việc phân tích từng điểm một, bốn điểm trên đây là một việc thiết yếu.
Việt Nam là một nước nhỏ và kém mở mang.
Mục đích của những trang nhận định này không phải để xách động quần chúng, nên không phải chỗ để ca ngợi sự nghiệp mấy ngàn năm văn hiến của tổ tiên chúng ta, và cũng không phải chỗ để cho chúng ta hănh diện với những trang sử oanh liệt của người xưa. Những người có trách nhiệm với tiền đồ Dân Tộc không thể tự ru ngủ trên dĩ văng, mặc dầu dĩ văng đó thật có là anh hùng đi nữa.
Trái lại, một nhận định khách quan rất cần thiết cho những người lănh đạo, nếu họ muốn tránh những sơ xuất có hại cho tương lai của một Dân Tộc. Tự ti mặc cảm khi nh́n thấy nước nhà yếu và kém không phải là tâm trạng của những kẻ quật cường.
Trên quan điểm đó chúng ta phải nh́n nhận rằng trong thế giới ngày nay nước chúng ta là một nước nhỏ và Dân Tộc chúng ta là một Dân Tộc kém mở mang. Chẳng những thế, trong suốt mấy ngh́n năm lịch sử, chưa lúc nào Dân Tộc chúng ta đă đạt lên được mức một văn minh chiếu sáng. V́ vậy chúng ta c̣n ở vào t́nh trạng thụ hưởng hơn là t́nh trạng góp phần vào văn minh nhân loại. Tuy nhiên, dĩ văng của chúng ta cho phép chúng ta tin rằng Dân Tộc có một năng lực tiềm tàng khả dĩ trong một tương lai rất ngắn đưa chúng ta thoát khỏi t́nh trạng thứ nhứt để vào t́nh trạng thứ hai. Đó là mục đích và lư do của cuộc tranh đấu hiện tại của chúng ta. Bởi v́ theo luật quân b́nh, người thụ hưởng bao giờ cũng đứng sau người đóng góp, và trong thực tế mức sống của người thụ hưởng phải kém mức sống của người đóng góp.
Và tranh đấu để thoát khỏi t́nh trạng kém mở mang có nghĩa là vừa tranh thủ một mức sống cao hơn cho Dân Tộc, và cũng có nghĩa là sẵn sàng lănh trách nhiệm đóng góp vào văn minh thế giới.
Như vậy đối với chúng ta nỗ lực để thoát khỏi t́nh trạng kém mở mang có thể h́nh dung bằng một sự cố gắng để vượt qua lằn mức ranh giới giữa t́nh trạng thụ hưởng và t́nh trạng đóng góp.
So sánh với các nước kỹ nghệ mở mang ngày nay, nước Việt Nam chúng ta nhỏ v́ đất đai không rộng, dân số ít và thiên sản không phong phú.
So sánh với các khối kinh tế vĩ đại như Nga Sô, Trung Cộng, Ấn Độ, Mỹ quốc và khối Âu Châu đang thành h́nh, chúng ta lại c̣n không đáng kể vào đâu nữa.
Trên phương diện quân sự, những kỹ thuật nguyên tử tối tân với sức tàn phá mănh liệt có thể làm giảm đi yếu tố đông dân và tức nhiên số lượng quân đội cao không c̣n ảnh hưởng nặng nề trên sự thắng bại. Tuy nhiên, lên đến một mức độ nào đó, ví dụ lên đến khối dân số Trung Cộng, yếu tố dân đông vẫn c̣n là một yếu tố đáng kể.
V́ vậy mà trong trường hợp của chúng ta, nếu chúng ta khắc phục được những kỹ thuật nguyên tử, th́ cái họa xâm lăng đối với chúng ta chỉ có giảm chớ không có chấm dứt.
Trên phương diện kinh tế, yếu tố đông dân đối với kỹ thuật sản xuất đại qui mô của cơ khí là một yếu tố quyết định. Dân càng đông thị trường càng mạnh. Có một mức tiêu thụ tối thiểu trong mỗi ngành kỹ nghệ, dưới mức đó sự sản xuất kỹ nghệ không thể thực hiện với các điều kiện thuận lợi. Nhưng thị trường tiêu thụ càng lớn lại là một động cơ thúc đẩy kỹ nghệ càng nảy nở, càng trưởng thành, càng phát triển v́ giá sản xuất càng nhẹ và mức lời càng lớn. Đó là lư do tranh giành thị trường trong Thế Kỷ vừa qua và hiện nay.
Như vậy nếu dân số ta ít th́ điều kiện nảy nở của kỹ nghệ chúng ta rất kém và sự cạnh tranh với khối kinh tế bên ngoài là một điều mà chúng ta không thể đương đầu nổi.
Trên phương diện văn hóa, việc dân số ít là một trở lực to tát. Ngôn ngữ của chúng ta chỉ được một thiểu số sử dụng. Những sáng tác bằng Việt Ngữ, ví dụ mà thật sự có giá trị thế giới đi nữa th́ không có mấy người biết đến giá trị đó v́ chuyển ngữ của chúng ta không được nhiều người biết. Chỉ nghĩ đến việc một tác phẩm bằng Anh ngữ hay Hoa Ngữ có thể phổ biến ngay cho khắp thế giới th́ đủ thấy cái mănh lực của sự đông dân như thế nào. Trong một khối người to lớn như vậy có thể trao đổi tư tưởng với nhau chỉ v́ chuyển ngữ của họ được nhiều người sử dụng. Dân Tộc chúng ta chỉ v́ dân số ít, phải ở ngoài ṿng tư tưởng trên trừ ra một số người biết ngoại ngữ.
Dân số ít lại c̣n là một trở lực trong công cuộc phát triển như chúng ta sẽ thấy dưới đây.
Trong khuôn khổ thế giới ngày nay, một Dân Tộc kém mở mang là một Dân Tộc có một t́nh trạng ứng vào các điều kiện dưới đây:
1.- Thiếu kỹ thuật và phương tiện kỹ thuật sản xuất.
2.- Do đó lợi tức quốc gia thấp kém.
3.- Do đó mức sống của toàn dân thấp và thiếu.
4.- Sự mưu sống hằng ngày chiếm hết thời gian và năng lực, đời sống văn hóa không mở mang.
5.- Sự sáng tác kém giá trị và sự góp phần vào văn minh của nhân loại không có.
Tŕnh bày như trên đây, ta nhận thấy rằng điều kiện thứ nhứt là nguyên nhân của điều kiện thứ hai và cả hai là nguyên nhân của điều kiện thứ ba và ba điều kiện đầu lại là nguyên nhân của điều kiện thứ tư, vân vân…Và như vậy nguyên nhân chính và trước tiên của sự kém mở mang là thiếu kỹ thuật và thiếu phương tiện kỹ thuật sản xuất. Nhưng muốn có đủ kỹ thuật, nghĩa là máy móc sản xuất th́ phải có được một tŕnh độ văn hóa khá cao cho toàn dân, và phải có lợi tức dồi dào để mua dụng cụ máy móc.
Như thế các điều kiện ảnh hưởng tương phối nhau làm thành một cái ṿng lẩn quẩn. Đưa Dân Tộc lên đường phát triển có nghĩa là bẻ gẫy cái ṿng luẩn quẩn đó. V́ thế cho nên các phương pháp phát triển đề nghị hay mang ra thực hiện ngày nay trong các nước trên thế giới, kể cả phương pháp cộng sản, chung qui chỉ là một phương pháp bẻ găy cái ṿng lẩn quẩn nói trên. Và dưới đây chúng ta sẽ có dịp trở lại, một cách chi tiết hơn, vấn đề cốt yếu này. Nay chỉ nhận xét thêm là các điều kiện trên cho chúng ta thấy rằng, công cuộc phát triển không phải là một công tŕnh mà một nhóm người hay một thiểu số có thể thực hiện được. Chỉ toàn dân hay là đại đa số cùng quyết tâm đứng lên mới có thế đạt đến kết quả. Đây là một yếu tố quyết định, nó sẽ chi phối nặng nề các sự lựa chọn đường lối sau này.
Điều thứ hai cần phải nêu lên là cái vốn duy nhất có thể dùng ngay được của các nước kém mở mang là công nhân. V́ vậy mà dân số đông lại là một lợi khí cho công cuộc phát triển, theo một phương pháp lao công cưỡng bách. Yếu tố này cũng là quyết định đối với sự lựa chọn đường lối sau này.
Việt Nam thuộc xă hội Đông Á.
Xă hội Đông Á gồm có các nước Đài Loan, Nhật Bổn, Triều Tiên và Việt Nam bao quanh đại lục Trung Hoa.
Trong hơn sáu ngàn năm lịch sử, các quốc gia trong xă hội này đều đă tiến hóa từ nền văn minh phát sinh trong đất Hán và lấy Hán tự làm nền tảng và phương tiện cho sự phát triển trong các lĩnh vực.
Cuộc xâm lăng của Tây phương gây ra nhiều sự thay đổi, bởi v́ đứng trước hiểm họa chung phản ứng của mỗi Dân Tộc mỗi khác. Do đó mỗi Dân Tộc, tùy theo sự nắm được hay không những cơ hội đưa đến cho ḿnh, đă đi theo những con đường càng ngày càng khác nhau, dẫn dắt đến sự cách biệt mà chúng ta nhận thấy ngày nay.
Trước thời kỳ đó, tất cả các quốc gia trong xă hội Đông Á kể trên đều tin tưởng và bảo vệ những giá trị như nhau trên các lĩnh vực chính trị, văn hóa và tôn giáo. Tất cả đều áp dụng chính trị quân chủ chuyên chế. Tất cả đều thừa nhận như là một di sản chung các sáng tác bằng Hán văn. Nền mỹ thuật của tất cả các quốc gia đều phát triển theo những tiêu chuẩn chung. Tất cả các quốc gia đều tin tưởng vào Phật Giáo và Lăo Giáo, lấy giáo điều của Khổng Mạnh làm mực thước cấu tạo xă hội.
Nguyên nhân của t́nh trạng lúc bấy giờ, chia làm nguyên nhân địa dư và nguyên nhân lịch sử. Trong một thời kỳ mà phương tiện giao thông nghèo nàn, việc giáp ranh với nhau là một yếu tố đè nặng lên sự bang giao của hai nước. Dân Tộc chúng ta đă rút nhiều kinh nghiệm xương máu về t́nh trạng ấy. Ngày nay nhiều phát minh khoa học có làm cho vạn lư và trùng dương cách biệt không c̣n là những trở lực không vượt nổi như khi xưa. Tuy nhiên ảnh hưởng sự lân cận giữa các quốc gia, nếu có giảm đi vẫn c̣n là một yếu tố quan trọng trong sự giao hảo giữa hai nước. Và trong sự chọn lựa đường lối của chúng ta sau này, sự chúng ta ở sát nách Trung Hoa là một yếu tố vô cùng thiết yếu.
Ngoài những nguyên nhân địa dư như trên, nhiều sự kiện lịch sử đă cấu tạo những dây liên hệ giữa Trung Hoa và các quốc gia cùng trong một xă hội Đông Á, như chúng ta đă thấy ở trên. Với thời gian, các dây liên hệ về tôn giáo, văn hóa và xă hội đă ăn sâu vào tiềm thức của các Dân Tộc cùng một xă hội. V́ thế cho nên không có một lầm lẫn nào to tát cho bằng sự tin tưởng rằng trong một vài thế hệ hay một vài Thế Kỷ có thể thay đổi được tất cả tư tưởng của một Dân Tộc.
Nói một cách khác nếu mỗi người Việt Nam đều đồng một ư chí không muốn ḿnh thuộc vào xă hội Đông Á nữa, th́ chúng ta cũng không thực hiện ư chí đó được, v́ bởi ư thức thuộc vào xă hội Đông Á đă ăn sâu vào các tế bào của chúng ta và thoát khỏi tầm chủ động của lư trí chúng ta. Đó là trường hợp tất cả chúng ta đều cùng một ư chí, huống hồ là nếu chỉ có một nhóm người quyết tâm làm việc đó và nhứt quyết cưỡng bách mọi người phải theo họ, lại càng là một trù tính không căn bản và không tương lai.
Nhiều phúc tŕnh thí nghiệm khoa học đă xác nhận rằng các cuộc tẩy năo có thể cùng lắm là thay đổi thành kiến chúng ta được chớ không di chuyển được bản chất của chúng ta.
Hơn thế nữa, nếu bằng một phép nhiệm mầu ǵ chúng ta có thể cắt được nước Việt Nam tách ra khỏi Châu Á và mang đặt nó cùng với cả Dân Tộc chúng ta vào một nơi khác của địa cầu th́ chúng ta cũng sẽ suy nghĩ và phản ứng như những người trong xă hội Đông Á.
Trên đây chúng ta đă có đề cập đến việc Tây Phương Hóa, là một điều khẩn yếu cho chúng ta. Nay chúng ta vừa thấy rằng dầu có muốn đi nữa chúng ta cũng không thể thoát ra khỏi khung cảnh h́nh thức và vô h́nh của xă hội Đông Á.
Như vậy việc Tây Phương Hóa và việc thuộc vào xă hội Đông Á có mâu thuẫn nhau không?
Muốn trả lời được câu hỏi này một cách tường tận, ta cần biết trước tiên Tây Phương Hóa là như thế nào, nội dung của một phần dưới đây.
Nay ta cứ nhận rằng việc Tây Phương Hóa là việc thâu nhận các kỹ thuật, lối suy luận và nhiều tập quán của Âu Mỹ, không làm cho chúng ta mất được bản chất của Dân Tộc. Như vậy việc mâu thuẫn nêu trên sẽ là không có. Một nhận xét khác càng thuyết minh cho lời nói quả quyết này. Các Dân Tộc ở xă hội Tây phương đều sử dụng một kỹ thuật và tôn sùng một khoa học như nhau. Tất cả đều có một lối suy luận lấy sự chính xác của lư trí làm nền tảng. Và tất cả đều sống trong một khuôn khổ ngăn nắp và minh chiết như nhau sự sinh sống và ăn mặc đều như nhau thế mà họ vẫn khác nhau ở trong các sáng tác. Như vậy là bản chất Dân Tộc họ vẫn giữ. Bản chất Dân Tộc của chúng ta sẽ bộc lộ ra trong các sáng tạo của chúng ta, khi nào mà chúng ta đă chủ động được các phương tiện và phương pháp sáng tạo của Tây phương. Và đây là mục đích chính của công cuộc Tây Phương Hóa mà chúng ta đang theo đuổi.
Biết như thế rồi chúng ta mới thấy răng trong công cuộc Tây Phương Hóa chúng ta cần phải dốc hết nỗ lực vào công cuộc ấy, không e dè, không rụt rè, không ngần ngại. Biết như thế rồi chúng ta mới thấy tính cách vô ích của sự nơm nớp lo sợ mất quốc hồn và quốc túy của một lớp người trước đây ngồi mà căi nhau năm này qua tháng nọ xem phải duy tân đến mức nào. Họ thật là những người ngồi nhà mà bàn việc lên tàu xuống xe phải đứng ngồi làm sao.
Biết như thế rồi chúng ta lại thấy tính cách không thực tế của một nhóm người chủ trương thay đổi tư tưởng của một Dân Tộc bằng những phương pháp độc ác và tàn bạo áp dụng cho vài thế hệ. Sự họ thất bại sẽ dĩ nhiên. Nhưng tai hại họ sẽ lưu lại cho Dân Tộc, như chúng ta sẽ thấy sau này, không biết bao giờ mới gỡ hết.
Việt Nam thuộc vào khối các nước Á Châu vừa thoát khỏi ách thống trị thực dân đế quốc
Bắt đầu từ Thế Kỷ thứ X, các cường quốc trong xă hội Tây phương mới phôi thai. Dưới sự thúc đẩy của hoàn cảnh và những biến cố lịch sử phát sinh ra do sự lân cận với xă hội Hồi Giáo, đang thời cường thịnh, các quốc gia mới đă nỗ lực t́m mọi lối thoát khỏi ṿng vây càng ngày càng siết chặt của các đội binh hùng mạnh của các nhà lănh đạo Ả Rập.
Từ ngày thoát thai từ trong sự sụp đổ của văn minh Hy Lạp và La Mă, lần đầu tiên xă hội Tây phương đụng phải một thử thách vô cùng quan trọng và quyết định sự mất c̣n cho nền văn minh vừa chớm nở. Nhưng cùng trong dịp này xă hội Tây phương tỏ ra xứng đáng với di sản lư trí thừa hưởng của văn minh Hy Lạp-La Mă và sinh lực dồi dào mà giáo lư Gia Tô hun đúc trong nhiều Thế Kỷ.
Sức mạnh phi thường của tín ngưỡng đă nuôi dưỡng và duy tŕ những nỗ lực cần thiết một cách liên tục trong nhiều Thế Kỷ. Mặt khác sự chính xác về lư trí đă hướng dẫn hữu hiệu cái khối sinh lực to tát trên vào ṿng hữu ích và hiệu quả. Nhờ vậy mà xă hội Tây phương chẳng những đă chiến thắng lần ấy, mà sau này c̣n vượt nhiều trở lực để chiếm được ưu thế như chúng ta mục kích ngày nay.
Nhờ những yếu tố trên, người Tây phương đă phát minh nhiều kỹ thuật tối tân, cải thiện không ngừng phát minh cũ, rèn luyện những khí giới lư trí ngày càng tinh vi để bảo đảm cho những phát minh tương lai. Sinh lực dồi dào của tín ngưỡng đă giúp cho họ áp dụng các phát minh trên đến một mức độ ngày càng lên cao, trong một tầm rộng lớn càng ngày càng bành trướng. Và trong sự vùng lên đó, xă hội Tây phương đă chẳng những bẻ găy ṿng vây của xă hội Hồi Giáo đang dồn họ vào phía Tây của đại lục Âu Châu, lại c̣n chinh phục được thế giới như chúng ta đều biết.
Nguồn gốc của các đế quốc Tây phương là do sự kiện trên đẻ ra. Để thoát khỏi sự bao vây của xă hội Hồi Giáo, người Tây phương đă chế ngự được các kỹ thuật vượt biển và mang những khí giới mà một nền kỹ thuật tân tiến đă trang bị cho họ để đi chinh phục các Dân Tộc kém hơn về kỹ thuật
Trước tiên, Y Pha Nho và Bồ Đào Nha hướng đạo cuộc chinh phục. Sau đó Anh, Pháp, Ḥa Lan, Bỉ đă nối chân và thay thế hai cường quốc tiền phong khi hai nước này đă mệt mỏi và suy nhược. Lần lượt các quốc gia trên thế giới không phải thuộc vào xă hội Tây phương đều bị tấn công, chiến bại, chiếm đóng và chinh phục. Tùy hoàn cảnh và tùy mănh độ cuộc kháng chiến, các Dân Tộc bị chinh phục hoặc bị tiêu diệt và đất đai bị biến thành đất đai của người chinh phục như ở Nam và Bắc Mỹ, Úc Châu, Tân Tây Lan, Nam Phi, hoặc biến làm thuộc quốc như Thái Lan, các nước Cận Đông hay bán thuộc địa như Trung Hoa, hay thuộc địa như Việt Nam. Và hậu quả lưu lại cho các Dân Tộc bị chinh phục cũng tùy theo hoàn cảnh riêng mà nhiều hay ít tai hại.
Ngày nay vấn đề không thành cho những Dân Tộc đă bị tiêu diệt. Các nước đă bị làm bán thuộc địa hoặc thuộc địa, khi cởi được ách rồi c̣n phải lănh chịu những hậu quả tuy có khác nhau tùy theo hoàn cảnh địa phương nhưng đều giống nhau v́ bị chi phối bởi những sự kiện lịch sử chung. Các hậu quả lại khác nhau, tùy theo chế độ đế quốc đă phải chịu đựng.
Hai kiểu đế quốc.
Trong thời kỳ cường thịnh nhất của Đế quốc chủ nghĩa, các quốc gia không thuộc vào xă hội Tây phương đều bị thống trị trực tiếp hay gián tiếp bởi hai loại Đế quốc:
1.- Đế quốc kiểu người Anh.
2.- Đế quốc kiểu người Pháp, Ḥa Lan và Bỉ.
Chủ trương Đế quốc của người Anh rất rơ rệt. Họ chia các lănh thổ làm hai loại: Loại chiếm đóng di dân và loại chiếm đóng khai thác. Đối với loại chiếm đóng di dân th́ họ dồn thiểu số người bản xứ vào một nơi và dần dần sự tranh sống tự nhiên sẽ đào thải. Kẻ chinh phục chiếm lấy đất đai và lập thành những quốc gia mới, như ở Bắc Mỹ và Úc Châu.
Nam Mỹ tuy không thuộc người Anh nhưng lại thuộc vào một chủ trương tương tự.
Đối với loại chiếm đóng khai thác th́ chính sách của Anh lại hoàn toàn trái ngược. Họ rút kinh nghiệm sự chiến bại của họ ở Bắc Mỹ lúc người Mỹ hiện nay đánh đuổi người Anh và dành độc lập, và cho rằng nếu họ không loại được người bản xứ th́ sớm muộn ǵ họ cũng phải có ngày trả lại độc lập cho dân bản xứ. Quan niệm trên dẫn dắt đến một chính sách dài hạn. V́ đoán trước có ngày họ phải ra đi nên, để lưu lại được cảm t́nh với dân bản xứ, họ đă thật t́nh đào tạo một lớp người có đủ khả năng để sau này thay thế họ. Đây là một đặc điểm căn bản của chủ nghĩa Đế quốc Anh đă được chứng minh là rất khôn ngoan và hiệu quả.
Đế quốc kiểu người Pháp, Ḥa Lan và Bỉ ngược lại không rơ rệt giữa hai thái độ trên. Nếu nhiều điều kiện hợp lại không cho phép họ chủ trương chiếm đóng di dân, th́ đồng thời họ cũng không nghĩ đến ngày phải trả độc lập lại cho dân bản xứ. Các sự kiện xảy ra sau thế giới Đại Chiến Thứ Hai trong các thuộc địa Anh và trong các thuộc địa Pháp, Ḥa Lan và Bỉ, đều bắt nguồn từ sự khác nhau của hai chính sách nói trên. Bởi v́ không nghĩ đến ngày phải rời khỏi thuộc địa nên người Pháp, Bỉ và Ḥa Lan không có đào tạo lớp người thay thế họ. V́ vậy cho nên, khác với các cựu thuộc địa Anh, các cựu thuộc địa Pháp, Ḥa Lan và Bỉ, sau độc lập rồi, đều trải qua nhiều xáo trộn mănh liệt, chỉ v́ thiếu người có khả năng để thay thế các người ngoại quốc, mà điều khiển guồng máy quốc gia. Trên đây là một nhược điểm vô cùng quan trọng mà Việt Nam chúng ta phải mang chịu.
Hậu quả
Nếu sự chúng ta thiếu người lănh đạo ở trong lĩnh vực chính trị là do một nguyên nhân không thể tránh được, phát sinh từ sự mâu thuẫn tự nhiên phải có giữa những người muốn chinh phục một Dân Tộc và những người chống lại sự chinh phục đó, th́, trái lại, sự thiếu người lănh đạo ở mọi ngành chuyên môn và mọi cấp bậc trong guồng máy quốc gia lại là hậu quả của một chính sách Đế quốc riêng biệt của người Pháp, Ḥa Lan và Bỉ.
Thi hành đúng theo chủ nghĩa Đế quốc của họ, chủ trương người Pháp không bao giờ muốn, và cũng không bao giờ thực hiện, việc đào tạo những người bản xứ có đủ khả năng để làm những công việc mà người Pháp đang làm và để, trong tương lai, thay thế họ. Thoảng như có những người bản xứ, nhờ những nỗ lực riêng, mà thâu thập được một sự đào tạo lư thuyết ngang hàng với các nhân viên cao cấp của họ, th́ không bao giờ người Pháp lại giúp cho những người này những hoàn cảnh thuận lợi để họ có thể thâu thập những kinh nghiệm lănh đạo cần thiết. Và bởi v́ những kinh nghiệm lănh đạo thực tế như vậy mới đào tạo được những người lănh đạo xứng danh, nên ngày nay khi chúng ta đă dành được độc lập rồi th́ chúng ta không đủ người để điều khiển guồng máy các quốc gia. Trong khi đó chúng ta chẳng những cần người để cho guồng máy chạy đều, mà hơn nữa, v́ những hoàn cảnh như chúng ta sẽ thấy dưới đây, chúng ta rất cần người để cho máy chạy hết tốc độ.
Thiểu số người trước kia đă được người Pháp dùng làm cộng sự viên trong nhiều năm, ngày nay với các kinh nghiệm đă thâu nhập được, không thể thay thế người Pháp trong nhiệm vụ của những người này hay sao ?
Không thể được, v́, trừ ra một số hết sức ít, với khả năng vượt hẳn mức thường, đă bẻ gẫy được ṿng ḱm hăm của người Pháp để tự học hỏi thêm đến tŕnh độ chế ngự được ngành hoạt động của ḿnh, c̣n lại là những người mang nặng các khuyết điểm dưới đây:
1.- Những kiến thức và kinh nghiệm của họ đều rời rạc và vặt vănh. Họ không có óc tổng hợp để đặt những kinh nghiệm và kiến thức vụn vặt kia vào một hệ thống chung hầu nhận thấy sự liên hệ giữa các kinh nghiệm, và t́m thấy các nguyên tắc chung chi phối các trường hợp đặc biệt mà họ thường gặp phải. V́ vậy mà hành động của họ chỉ có hiệu quả trong các trách nhiệm sơ đẳng. Vượt lên quá tầm một ít là sự thất bại đến ngay v́ như câu tục ngữ thường nói, họ không nh́n thấy rừng mà chỉ nh́n thấy t́m gốc cây “Phụ trách từng gốc cây th́ được, nhưng không phụ trách toàn thể khu rừng được”. Do đó những người này không làm sao vượt khỏi phạm vi nhỏ hẹp trong đó lâu nay họ vẫn quen làm việc để lên đến tầm quan trọng cần có khi sự việc không c̣n liên quan đến một lĩnh vực nhỏ nữa mà đă liên quan đến vận mạng của một quốc gia. Nếu giao cho họ những trách nhiệm quốc gia, đương nhiên họ sẽ làm giảm giá trách nhiệm đó bằng cách đưa nó tuột xuống ngang hàng một trách nhiệm khu vực nhỏ hẹp, tương xứng với quan niệm nhỏ hẹp đă ăn sâu vào cân năo của họ. Với một lối nh́n như vậy và với sự bất lực quan niệm các vấn đề một cách rộng lớn tương xứng với nhu cầu của hoàn cảnh, sự thất bại của họ cũng đă cầm chắc. Đằng này ngoài khuyết điểm ấy họ c̣n mang nặng nhiều điều hư hỏng khác.
2.- Người Pháp đă chủ tâm đào luyện, cho những người họ dùng, những kiến thức và khả năng tương xứng với công dụng mà họ đ̣i hỏi. Ngoài ra, hoạt động và sinh sống nhiều năm trong không khí và tập quán mà người Pháp cố t́nh tạo ra cho những người đă được họ đặt vào một công dụng nhất định, những người này lần lần đă tự tạo một tâm lư vô trách nhiệm. Làm việc chỉ v́ sợ h́nh phạt chớ không phải v́ tự thấy trách nhiệm phải làm cho được việc. Tâm lư kém trưởng thành của người làm tay sai đó chính là người Pháp, lợi dụng t́nh thế hỗn loạn trong xă hội của chúng ta do chính sự chinh phục của họ gây nên, đă tạo ra cho lớp người được họ rèn luyện để làm công cụ và sau này, v́ hoàn cảnh đương nhiên trở thành lớp người tai mắt trong xă hội chúng ta.
Xưa kia, khuôn khổ Khổng Mạnh của chúng ta, tuy đă thất bại trong nhiều lĩnh vực, nhưng ít ra đă đào luyện được lớp người thấm nhuần đạo người quân tử: Có tâm lư của người trưởng thành và tinh thần trách nhiệm của người thọ lănh sứ mạng. Tất cả các truyền thống tốt đẹp đó đă sụp đổ cùng một lúc với uy quyền chính trị của xă hội Việt Nam.
Thiết tưởng, nếu người Pháp đă có một thái độ “không chen vào”, th́ nội sự chiến bại của xă hội Việt Nam trước một kẻ xâm lăng có một nền văn minh hùng mạnh hơn cũng đủ mang đến sự sụp đổ của những giá trị cổ truyền. Đàng này, chính họ với chủ nghĩa Đế quốc mà họ chủ trương, đă thúc đẩy sự sụp đổ nói trên để phục vụ quyền lợi chính trị của họ.
Và tâm lư hiện tại của số người mà chúng ta sẽ đề cập đến trên đây vừa là hậu quả đương nhiên của một hoàn cảnh lịch sử vừa là kết quả của một chính sách vô cùng tai hại cho Dân Tộc.
Trách nhiệm giao phó cho số người này phải tương xứng với “Tâm lư người đi thuyền” của họ. Xưa nay đă quen lối không bao giờ chịu chú trọng đến hướng đi và số phận của con thuyền, th́ không thể nào phụ trách được việc lèo, lái và buồm, máy của con thuyền. Trách nhiệm này phải giao cho số người đă tự tạo tâm lư thuyền trưởng, trong khi chờ đợi chúng ta đào tạo lớp người mới có những đức tính mà nhiệm vụ đ̣i hỏi.
3.- Xưa kia, dưới thời quân chủ chuyên chế, guồng máy quốc gia xây dựng trên chế độ quan trường và chế độ này lại lấy cái học khoa cử làm nền tảng. Xét trong lịch sử của Việt Nam, cũng như của Trung Hoa, guồng máy quan trường đă qua nhiều thời kỳ thịnh vượng và để lại nhiều thành tích xứng đáng.
Sở dĩ như thế được là v́, chế độ quan trường, tuy tự nó hàm nhiều tệ đoan cố hữu, nhưng một khi nằm vào trong khuôn khổ quân chủ chuyên chế đă bị sự chế ngự tự nhiên và tương phối của những bộ phận khác trong cơ cấu quốc gia, nên các tệ đoan đương nhiên bị hạn chế và không bành trướng được, cũng như mỗi bánh xe trong một bộ máy đồng hồ đều được sự chế ngự tương phối của các bánh xe chung quanh, nên tất cả đều chuyển động đồng thời và điều ḥa. Nhưng tất cả t́nh trạng mực thước đó đều mất nếu chúng ta tách rời một bánh xe ra ngoài.
Trường hợp của chế độ quan trường của chúng ta cũng tương tự như vậy. Khi c̣n là một bộ phận của chế độ quân chủ chuyên chế, những cái tệ đoan của quan trường không phát triển được nhờ quyền hành rất rộng và h́nh phạt cấp thời của Nhà Vua. Khi người Pháp đến, chế độ quan trường được giữ lại, v́ một sự tính toán khôn khéo, nhưng không c̣n có những sự chế ngự tự nhiên như xưa nữa. Các nhược điểm của quan trường đương nhiên nẩy nở và sự tham nhũng và hà hiếp dân chúng đă lên đến mức độ tột cùng. Người Pháp không có lư do ǵ mà tẩy trừ t́nh trạng đó, v́ chủ trương của họ là để cho những người họ dùng không được ḷng dân chúng. Và làm lợi cho dân chúng không phải là mối lo âu của chế độ thực dân.
V́ vậy cho nên, tính cách quan liêu, phục tùng hèn hạ kẻ trên, và hà hiếp khinh miệt kẻ dưới là nhược điểm không thể cởi bỏ được của lớp người tai mắt trong thời kỳ thực dân. Trong khi đó, như chúng ta sẽ thấy sau này, công cuộc Phát Triển Dân Tộc của chúng ta trong giai đoạn này, đ̣i hỏi ở những người có trách nhiệm phải có đủ khả năng đến với dân, đi với dân huy động được đại quần chúng, lâu nay bị mê man trong giấc ngủ yên thân, để đưa họ dấn thân mạnh bạo và nhanh chóng vào con đường tiến bộ.
Sau này chúng ta sẽ thấy rơ công cuộc Phát Triển Dân Tộc có nghĩa là thực hiện những mục tiêu ǵ. Nay cần biết rằng, Phát Triển Dân Tộc là một công cuộc hết sức khích động cho người tham dự nhưng đ̣i hỏi thật nhiều cố gắng liên tục và những hy sinh lớn lao. V́ vậy mà đại quần chúng sẽ chóng mỏi mệt và chán ngán. Nếu những người có trách nhiệm không thương mến nhân dân và không xem nhân dân là trọng, th́ không làm sao mà nhân dân bằng ḷng chịu đựng mệt mỏi và hy sinh để cùng tiến bước với người dẫn đạo.
Những biện pháp độc tài và cưỡng bách nếu có áp dụng được th́ những hiệu quả nhất thời không thể bồi đắp được những hậu quả tai hại lâu dài vừa cho người áp dụng được vừa cho người phải chịu đựng.
Sau này chúng ta sẽ phân biệt sự mị dân với sự hướng dẫn dân vào một kỷ luật chung, điều kiện thiết yếu để nắm thắng lợi trong công cuộc phát triển. V́ vậy mà nếu người có trách nhiệm không huy động được dân chúng, th́ sự thất bại nắm chắc trong tay. Và cố nhiên những người huy động được dân chúng không phải là những người hà hiếp và khinh miệt họ cũng không phải là những người nịnh bợ và sợ sệt họ.
Tóm lại cho đoạn này chúng ta thấy rằng, chính sách Đế quốc kiểu Pháp, Ḥa Lan và Bỉ đă lưu lại cho các Dân Tộc bị trị một hậu quả rất là tai hại: Sau khi độc lập rồi, sự thiếu người lănh đạo trong các ngành là một trở lực vô cùng to tát cho công cuộc Phát Triển Dân Tộc.
Nhưng đó không phải là hậu quả duy nhất. Xem lại lịch sử của các công cuộc chinh phục của Tây phương, chúng ta nhận thấy rằng khi bị tấn công, các Dân Tộc đều ư thức ngay t́nh thế nghiêm trọng và sự cần thiết phải vận dụng lực lượng quốc gia để đương đầu với một thử thách quyết định sự sống c̣n của tập thể. Bản năng sinh tồn đă đánh thức ngay khả năng tự vệ đối với một vật ngoại lai toan xâm nhập vào nội bộ cơ thể.
Nhiều loại phản ứng
Nhưng nếu ư thức nguy cơ và sự phản ứng tự vệ đều có như nhau, th́ trái lại, tính chất của sự phản ứng, cường độ của sự phản ứng, và hậu quả của sự phản ứng khác nhau, tùy theo hoàn cảnh lịch sử, tùy theo khả năng của người lănh đạo trong các lúc quyết liệt ấy, tùy theo tinh thần của dân chúng lúc bị tấn công, tùy theo phương tiện vận dụng được và tùy theo tŕnh độ dân trí của Dân Tộc lúc bị tấn công.
Cố nhiên là sự nghiệp và hành động của một Dân Tộc, mặc dầu do một số người quyết định trong một thời gian nhất định, nhưng cũng do nhiều hoàn cảnh và yếu tố chi phối.
Nhưng xét theo kết quả của sự phản ứng của từng Dân Tộc, chúng ta có thể chia các nước đă phải đón chịu sự tấn công ghê gớm của Tây phương ra làm bốn loại.
Trước hết có những Dân Tộc như Dân Tộc Nhật Bổn, phản ứng có hiệu quả, chặn đứng được sự tấn công, bảo vệ được nền độc lập, và nắm được cơ hội để tự cường lên đến mức ngang hàng với các cường quốc Âu Mỹ.
Kế đó những Dân Tộc như Dân Tộc Trung Hoa, phản ứng không có hiệu quả, chiến bại trước sự tấn công, nhưng v́ hoàn cảnh chính trị lúc bấy giờ trong trường hợp của Trung Hoa và Thái Lan th́ đúng là sự mâu thuẫn giữa các cường quốc chinh phục nền độc lập tuy bị sứt mẻ, nhưng chủ quyền vẫn được bảo tồn.
Tuy nhiên, nước nhà cũng bị đặt vào t́nh trạng bán thuộc địa, do đó không tự cường nổi mà phải kéo dài t́nh trạng thấp kém để chờ cơ hội mới.
Sau đó có những Dân Tộc như Dân Tộc Việt Nam và Nam Dương phản ứng không hiệu quả, chiến bại trước sự tấn công, độc lập bị mất, chủ quyền bị sụp đổ, nước nhà bị biến thành thuộc địa, thống trị bởi ngoại quốc. Việc lỡ cơ hội đối với chúng ta chẳng những có nghĩa là kéo dài t́nh trạng thấp kém lại c̣n mang ách nô lệ vào thân. Muốn nắm bắt cơ hội mới, trước tiên chúng ta cần phải tranh giành độc lập.
Sau hết có những Dân Tộc như các bộ lạc Bắc Mỹ, Trung Mỹ và Nam Mỹ, phản ứng không hiệu quả, chiến bại trước sự tấn công, độc lập bị mất, chủ quyền bị sụp đổ, nước nhà bị thôn tính và Dân Tộc bị đồng hóa.
Đối với các Dân Tộc sau này, vấn đề không c̣n nữa và trong lịch sử họ chỉ c̣n để lại cái vết mỏng manh của một sự đi qua, đôi khi đánh dấu bằng những phế tích của vài đền đài. Nếu ngày nay, chúng ta lấy làm may mắn mà thấy rằng số phận ác nghiệt trên không phải là số phận của chúng ta, th́ chúng ta không nên quên rằng, nhân loại ngày nay c̣n xa lắm mới tiến được đến mức để cho, đương nhiên, số phận ác nghiệt trên không phải là số phận của những Dân Tộc nhỏ bé như Dân Tộc của chúng ta. Trong tŕnh độ tiến hóa của nhân loại ngày nay, sự một Dân Tộc nhỏ như chúng ta tránh được hay không số phận khốn khổ ấy tùy thuộc ở sự nỗ lực tranh đấu của chúng ta. Và chính điểm này sẽ đè nặng lên sự lựa chọn đường lối của chúng ta sau này.
Phản ứng của Nhật Bản.
Nước Nhật đă phản ứng như thế nào để đạt những kết quả mà chúng ta mục kích ngày nay?
Trước hết Dân Tộc Nhật có được cái vận may là trong thời kỳ mà vận mạng của quốc gia Nhật, như của các quốc gia khác trong xă hội Đông Á, như chỉ mành treo chuông việc mất c̣n chỉ trong ly tấc, được có một lớp người lănh đạo cực kỳ sáng suốt. Họ nhận thấy ngay con đường sáng của Dân Tộc Những người này, trong một giai đoạn quyết liệt đă cởi bỏ được cho quốc gia tính tự phụ cổ truyền, và có đủ can đảm nh́n các biến cố với con mắt thiết thực. Nhờ vậy nên, trái với các quốc gia đồng thuyền khác, khư khư quấn cả ḿnh và đầu một cách mù quáng trong lớp áo kiêu căng, quốc gia Nhật ư thức được ba điều tối quan trọng:
1.- Lực lượng xâm lăng hơn hẳn lực lượng kháng chiến quốc gia về kỹ thuật tổ chức và kỹ thuật vơ trang.
2.- Muốn chống lại nổi lực lượng xâm lăng và lâm thời thắng họ, chỉ có cách duy nhất là chế ngự được kỹ thuật tinh xảo của địch thủ.
3.- Mâu thuẫn nội bộ giữa các cường quốc trong mặt trận xâm lăng của Tây phương là cơ hội duy nhất để bảo vệ nền độc lập và Phát Triển Dân Tộc.
Óc sáng suốt và phi thường của những nhà lănh đạo Nhật Bản lúc ấy đă cấp thời t́m ra, ngay khi Dân Tộc gặp phải nguy cơ trên lần đầu tiên, những biện pháp ứng phó duy nhất có hiệu quả mà như chúng ta đă thấy ở trên, các nhà lănh đạo Nga đă t́m ra và áp dụng sau nhiều Thế Kỷ chiến đấu với các cường quốc Tây Âu.
Học kỹ thuật của địch thủ để thắng địch thủ, chế ngự kỹ thuật của địch thủ để thắng địch thủ.
Các sự kiện trên đây là nguồn gốc của cuộc cách mạng duy tân của Nhật thời Minh Trị. Những kỹ thuật của Tây phương trong mọi lĩnh vực được phân tích học hỏi và áp dụng triệt để. Nhu cầu cấp thời đă đặt ưu tiên cho lĩnh vực quân sự và chính trị. Lề lối lănh đạo cổ truyền theo chế độ quân chủ chuyên chế của xă hội Đông Á đă nhường chỗ cho lư thuyết chính trị của Tây phương. Quân đội tập hợp và vơ trang theo thời xưa đă biến thành một quân lực hùng hậu tổ chức vơ trang theo Tây phương.
Sau đó các phương pháp sản xuất kinh tế được duy tân. Chuyên viên Tây phương tấp nập, v́ quyền lợi cá nhân quyến rũ và nhất là v́ mâu thuẫn chính trị giữa các cường quốc chinh phục.
Nhờ sáng suốt các nhà lănh đạo Nhật Bản đă nắm ngay được cơ hội. Một trăm năm sau một cơ hội tương tự mới trở lại lần thứ nh́ cho các Dân Tộc bị chinh phục như Dân Tộc Việt Nam. Và nhờ nắm được cơ hội ngay lần đó nên họ đă thành công trong công việc đưa Dân Tộc Nhật lên hàng tiến bộ như chúng ta thấy ngày nay.
Và cố nhiên là những Dân Tộc nào lỡ cơ hội thứ nhất, như trên đă tŕnh bày, đều c̣n nằm vào t́nh trạng như chúng ta ngày nay. Và cơ hội thứ nh́ sau Thế Giới Đại Chiến lần thứ hai, một trăm năm sau như chúng ta sẽ thấy dưới đây. Và vấn đề hiện tại cho chúng ta là liệu lần này có nắm lấy được cơ hội không ?
Nước Nhật đă thành công trong công cuộc Tây Phương Hóa để chống lại người Tây phương. Độc lập vẫn c̣n, chủ quyền vẫn nguyên, người Nhật cũng như người Nga đă hoàn toàn chủ động công cuộc Tây Phương Hóa của họ. V́ vậy cho nên, không lúc nào có sự gián đoạn trong việc diễn tiến của lịch sử của họ. Điều này tối quan trọng như chúng ta sẽ thấy dưới đây.
Nói một cách đại khái, một nền văn minh là một toàn bộ gồm những giá trị làm tiêu chuẩn trong các lĩnh vực của đời sống: Kỹ thuật, chính trị, văn hóa, xă hội và nghệ thuật. Trong cái toàn bộ đó, các giá trị quân b́nh lẫn nhau gây nên một trạng thái điều ḥa. Nếu trạng thái điều ḥa động tiến th́ nền văn minh đang hồi phát triển. Nếu trạng thái điều ḥa tỉnh chỉ, nền văn minh đến lúc suy đồi. Mất một yếu tố quân b́nh, hay bị một phần tử ngoại lai xâm nhập, trạng thái điều ḥa sẽ mất và nền văn minh liên hệ sẽ bị đặt vào một t́nh trạng báo động nguy hiểm. Nếu những phần tử của xă hội liên hệ không ư thức và phản ứng kịp thời, và mất chủ động con thuyền chung th́ nền văn minh sẽ sụp đổ và tan ră, các giá trị tiêu chuẩn đều bị phá sản.
Trái lại nếu những phần tử của xă hội liên hệ ư thức kịp thời nguy cơ đưa đến và phản ứng hiệu quả, vẫn nắm được chủ động con thuyền, th́ sẽ chế ngự được các cuộc xáo động và đưa nền văn minh đến một trạng thái điều ḥa mới.
Tất cả các Dân Tộc như Dân Tộc Nhật, khi bị sự tấn công của Tây phương, phản ứng hiệu quả bằng cách chế ngự kỹ thuật Tây phương để làm khí giới chống lại Tây phương, đă thành công trong công cuộc bảo vệ độc lập và Phát Triển Dân Tộc. Nhưng kỹ thuật Tây phương là một vật ngoại lai được nhập cảng vào trạng thái điều ḥa của nền văn minh Nhật. Và v́ vậy cho nên sự thâu nhận kỹ thuật Tây phương làm mất trạng thái điều ḥa nói trên và gây cho xă hội Nhật nhiều chấn động đe dọa các giá trị tiêu chuẩn cổ truyền. Nhưng giữa hai thái độ: Một là bảo vệ sự tồn tại của Dân Tộc với cái giá phải trả là chịu đựng những chấn động do một vật ngoại lai gây nên, hai là bảo vệ sự thuần túy của trạng thái điều ḥa của nền văn minh cũ, việc lựa chọn không thành vấn đề. Bởi v́ những người muốn bảo vệ sự thuần túy của trạng thái điều ḥa cũ chắc chắn là sẽ không có phương tiện để làm việc đó, và như vậy chỉ dẫn dắt Dân Tộc đến chỗ nô lệ và cùng khốn như Dân Tộc Việt Nam.
Trí sáng suốt của các nhà lănh đạo Nhật Bản đă dạy họ phải chọn thái độ thứ nhất. Tuy nhiên mặc dù họ thành công trên một phương diện, phương diện phát triển, nhưng họ phải đương đầu với các chấn động do một vật ngoại lai là kỹ thuật Tây phương đă mang đến cho xă hội Nhật. Chúng ta càng quan niệm rơ rệt hơn sự phá hoại của các chấn động trên nếu chúng ta ư thức rằng kỹ thuật Tây phương không thể tách rời ra khỏi toàn bộ nền văn minh Tây phương. Kỹ thuật Tây phương là một bộ phận của toàn bộ trên. Nếu thâu nhận kỹ thuật Tây phương rồi, th́ sớm muộn ǵ cũng phải thâu nhận lối suy luận của Tây phương để chế ngự và phát triển kỹ thuật kia. Thâu nhận lối suy luận của Tây phương th́ lại lần hồi thâu nhận lối sống của Tây phương, vân vân…
Nghĩa là, tưởng rằng thâu nhận xong kỹ thuật Tây phương để chống Tây Phương là rồi việc là một lỗi lầm lớn. Bởi v́ kỹ thuật Tây Phương mở cửa, nhưng sau kỹ thuật lần hồi các phần tử của toàn bộ văn minh Tây phương sẽ lần lần do cửa đă mở xâm nhập. Và sự thật th́ chính là tất cả văn minh Tây phương chớ không riêng ǵ kỹ thuật Tây phương đă gây cuộc chấn động trong trạng thái điều ḥa của các xă hội đă mở cửa đón kỹ thuật Tây phương để t́m đường sống. Như vậy dù chúng ta có mở cửa hay không mở cửa để đón kỹ thuật Tây phương vào, th́ sớm muộn ǵ văn minh Tây phương cũng sẽ vào nội bộ ta mà gây cuộc chấn động. Chỉ có khác một điều là, nếu chúng ta không mở cửa th́ chúng ta sẽ chết ngay dưới sự tấn công khốc liệt của các lực lượng Tây phương, và chúng ta không c̣n chủ động được con thuyền của chúng ta nữa, như trường hợp Việt Nam.
Nếu chúng ta mở cửa th́ ít ra, mặc dầu tất cả sóng gió nhưng chúng ta vẫn chủ động con thuyền của chúng ta để có thể đưa nó được đến một trạng thái điều ḥa mới. Đó là trường hợp của Nhật Bản, trong khi và sau khi duy tân xă hội Nhật trải qua nhiều cuộc chấn động dữ dội mà ảnh hưởng ngày nay vẫn c̣n.
Nếp sống mới nằm chồng lên nếp sống cũ, văn minh cũ đă hết tiến, nhưng trạng thái điều ḥa của văn minh mới vẫn chưa ổn định. Nhưng mặc dấu tất cả khuyết điểm đó, mặc dầu tất cả các cuộc chấn động phát sinh từ cuộc chiến đấu giữa hai nền văn minh, xă hội Nhật không bao giờ bị gián đoạn trong sự lănh đạo và lúc nào Dân Tộc Nhật cũng chủ động con thuyền của họ.
Chỉ một điều kiện này cũng đủ để bảo đảm cho tương lai.
Phản ứng Trung Hoa và Thái Lan
Nay nếu chúng ta so sánh trường hợp của Trung Hoa và Thái Lan với trường hợp Nhật Bản, các ư tưởng trên đây càng được xác nhận.
Trung Hoa và Thái Lan cũng bị sự tấn công của Tây phương như Nhật Bản. Nhưng các nhà lănh đạo lại lựa chọn thái độ thứ hai, như đă nói trên kia, nghĩa là bảo vệ trạng thái điều ḥa của nền văn minh cũ. Chỉ nhờ mâu thuẫn chính trị giữa các cường quốc nên hai quốc gia trên, sau khi chiến bại, không bị chinh phục, và biến làm thuộc địa như Việt Nam.
Tuy nhiên, chủ quyền đă sút mẻ, họ không c̣n hoàn toàn chủ động con thuyền, không chủ động được công cuộc phát triển. Chính v́ ư thức dùng kỹ thuật Tây phương để chống Tây phương và lâm thời thắng Tây phương chưa chín mùi trong năo người lănh đạo, nên cơ hội phát triển đă bỏ lỡ.
Các mâu thuẫn chính trị giữa các cường quốc Tây phương một khi đă ngăn cản được sự chinh phục thật sự lănh thổ của họ, không được lợi dụng để Phát Triển Dân Tộc như ở Nhật.
V́ vậy mà Dân Tộc Trung Hoa và Dân Tộc Thái Lan vẫn nằm trong t́nh trạng chậm tiến, cho đến ngày cơ hội thứ hai đưa đến, như ta đă thấy trên kia. Ngày nay Trung Hoa đă nắm được cơ hội thứ hai và đang mạnh bạo phát triển, Tây Phương Hóa theo kiểu cộng sản. Nhưng cho đến ngày giờ này chưa có triệu chứng ǵ cho chúng ta thấy rằng Thái Lan đă nắm được cơ hội.
Trở lại thời gian một trăm năm giữa hai cơ hội Dân Tộc Trung Hoa và Thái Lan vẫn ở trong t́nh trạng bi đát của những nước bị biến thành bán thuộc địa. Công cuộc Tây Phương Hóa, trong thời kỳ đó, hai quốc gia trên không được tự ư ḿnh đặt thành một công cuộc quốc gia, nhưng họ vẫn không tránh được, v́ không làm sao kháng cự nổi trước sự tấn công mănh liệt của kỹ thuật Tây phương.
Chỉ khác với trường hợp Nhật Bản ở chỗ là công cuộc Tây Phương Hóa không được hướng dẫn và không được chủ động. Những cuộc duy tân hỗn loạn càng mang đến những chấn động kinh khủng trong xă hội, mà lại không có một cố gắng nào để chủ động con thuyền hầu đưa nó đến một trạng thái điều ḥa mới. Tất cả những xáo trộn trong xă hội Trung Hoa và Thái Lan trong thời kỳ trên đều phát sinh từ các sự kiện trên đây. Duy chỉ có một sự kiện c̣n ít nhiều khả năng thuyên giảm tính cách trầm trọng của t́nh trạng trên, là chủ quyền trong hai quốc gia trên không hoàn toàn mất nên xă hội của họ không bị tan ră và không hề bị gián đoạn trong sự lănh đạo. Vấn đề lănh đạo quốc gia vẫn được chuyền tay nhau từ thế hệ trước sang thế hệ sau.
Phản ứng của Việt Nam
Đối với Việt Nam sự kiện chót này lại cũng không có nữa. V́ vậy mà t́nh trạng của Việt Nam trong thời kỳ qua và ngay bây giờ c̣n trầm trọng hơn t́nh trạng của Trung Hoa và của Thái Lan nhiều.
Sau cuộc chiến bại, nước Việt Nam bị chiếm làm thuộc địa. Chủ quyền bị mất hẳn, việc lèo lái con thuyền của chúng ta không c̣n ở trong tay của chúng ta nữa. Và sự kiện ấy đă xảy ra, v́, trong một giai đoạn quyết liệt của lịch sử Dân Tộc, chúng ta đă gặp phải một lớp người lănh đạo thiếu sáng suốt và thiếu thiết thực, kiêu căng và không thức thời, không chịu phóng tầm mắt mà nh́n vào vấn đề thiết thực của Dân Tộc, tự giam hăm trí óc trong những quan niệm chật hẹp về quyền bính và triều đại.
Những khuyết điểm đó đă dẫn dắt đến sự lỡ cơ hội phát triển cho Dân Tộc lần thứ nhất. Hơn thế nữa, việc lỡ cơ hội đối với chúng ta khốc hại bội phần hơn là đối với Trung Hoa và Thái Lan. Trong một trăm năm lệ thuộc, xă hội của chúng ta tan ră và công cuộc lănh đạo quốc gia đă bị đứt đoạn. Dầu Nhà Nguyễn có công khai thác đất đai rộng lớn gấp mấy lần phần đất mà Nguyễn Triều lúc nào cũng lấy làm tự hào đă góp phần vào di sản quốc gia, th́ họ cũng không bù đắp được lỗi lầm về lănh đạo trong một giai đoạn quyết liệt của Dân Tộc như chúng ta đă thấy trên đây.
Sau này các Sử Gia của chúng ta làm việc theo kỹ thuật khoa học, tất nhiên sẽ t́m thấy những chi tiết và nhận thấy rơ hơn trường hợp không tha thứ được của Nhà Nguyễn khi phạm vào những lỗi lầm to tát lưu lại hậu quả tàn khốc cho Dân Tộc.
Việc tai hại thứ nhất cho chúng ta ở chỗ là chính lúc nền văn minh của chúng ta phải đương đầu với những cuộc chấn động do những phần tử ngoại lai gây nên trong xă hội chúng ta, lại là lúc mà chúng ta không c̣n chủ động vận mạng của chúng ta được nữa.
Xă hội Nhật Bản khi gặp phải hoàn cảnh đó, đă may mắn được đặt dưới sự lănh đạo của một lớp người vừa cực kỳ sáng suốt, vừa đủ chủ quyền và thừa phương tiện để nắm vững con thuyền quốc gia. Thế mà, xă hội Nhật vân bị xáo trộn đến tận nền tảng và phải bỏ trạng thái điêu ḥa của văn minh để t́m một trạng thái điều ḥa mới, như chúng ta đă biết.
Trái lại, Dân Tộc chúng ta, trong cơn băo tố lại không người lèo lái. Lớp người lănh đạo trước đă biến mất trong cơn chiến bại. Các lớp người kế tiếp bị kẻ chinh phục tiêu diệt. Trong khi đó, theo chân người chiến thắng, văn minh mới ồ ạt đưa đến gây ra một cuộc duy tân hỗn độn, không lề lối không mục đích. Những giá trị tiêu chuẩn cổ truyền cùng với sự chiến bại của Dân Tộc, bị phá sản và khinh miệt. Trong khi đó những giá trị tiêu chuẩn mới chưa có, xă hội không giá trị tiêu chuẩn như con thuyền trôi dạt, không phương hướng và không sinh lực.
T́nh trạng này là nguyên nhân duy nhất cho tất cả các quái tượng đă hiện ra trong suốt thời gian gần một trăm năm mà chúng ta, khi nh́n thấy, phải vừa đau đớn vừa tủi nhục. Xă hội chia làm hai khối: Một bên cố gắng bảo vệ lấy các giá trị cổ truyền đă chết thành thây ma, một bên duy tân nhưng không biết duy tân để làm ǵ, và cũng không biết duy tân theo hướng nào, chỉ bắt chước cử chỉ như khỉ và lời nói như sáo. Hai bên tân, cựu khinh miệt nhau, thật là một hiện tượng rơ rệt của một xă hội đang tan ră.
T́nh trạng càng trở nên bi thảm khi chính phủ “mới” với sự ủng hộ của kẻ xâm lăng đă thắng phái “cũ”. Các giá trị cũ, tuy đă chết như cây khô v́ không người vun tưới, nhưng đó là những tiêu chuẩn giá trị thật, có thời đă đào tạo được những thế hệ người gồm nhiều đức tính cao cả. Với sự sụp đổ của những giá trị đó, tiết tháo và tính khí của người xưa cũng mất luôn. Lớp người “mới”, lại không biết duy tân để làm ǵ ngoài sự hưởng thụ vật chất, không có sáng tạo, không có những biểu lộ chứng minh cho sinh lực của một xă hội. Có lẽ không bao giờ Dân Tộc chúng ta đă xuống đến thấp như vậy và chưa bao giờ chúng ta đă đến gần chỗ diệt vong như vậy. Ngược lại, chính v́ đă vượt qua được những bước tuyệt vọng như vậy, mà chúng ta lại càng tin tưởng vào sinh khí của Dân Tộc.
Hậu quả tai hại nhất mà thời kỳ Tây thuộc đă để lại cho chúng ta là sự tan ră của xă hội Việt Nam và sự gián đoạn trong việc lănh đạo quốc gia. Cũng như chủ nghĩa đế quốc kiểu Pháp đă để lại cho chúng ta một hậu quả tai hại không kém: Lớp người tai mắt trong xă hội thời Pháp không thể dùng vào các nhiệm vụ lănh đạo được.
So sánh như trên đây, trường hợp của Nhật và Trung Hoa với trường hợp của chúng ta, chúng ta mới ư thức sung măn tính cách vô cùng trầm trọng của t́nh trạng nguy ngập mà xă hội chúng ta đang lâm vào. Tất cả ba Dân Tộc đều ở trong xă hội Đông Á, cùng một văn minh, cùng một giá trị truyền thống, đă cùng, trong một lúc, gặp phải một nguy cơ chung.
Nhưng Dân Tộc Nhật đă phản ứng kịp thời, chiến thắng, bảo tồn độc lập, giữ nguyên chủ quyền, nắm được ngay cơ hội thứ nhất để Phát Triển Dân Tộc. Sự lănh đạo quốc gia không bị gián đoạn, công cuộc duy tân được hướng dẫn và các giá trị tiêu chuẩn truyền thống không bị phá sản. Nhờ vậy nên xă hội Nhật vẫn tiến liên tục, chế ngự được các cuộc chấn động do những giá trị ngoại lai gây nên sau khi xâm nhập vào trạng thái điều ḥa của nền văn minh cũ. Xă hội Nhật chỉ có bị bắt buộc phải bỏ trạng thái điều ḥa cũ để t́m một trạng thái điều ḥa mới.
Dân Tộc Trung Hoa không phản ứng kịp thời, chiến bại độc lập được bảo tồn không phải nhờ ở nỗ lực chủ động mà nhờ ở ngoại cảnh. Chủ quyền bị sứt mẻ, nên mặc dầu sự lănh đạo quốc gia không bị gián đoạn, công cuộc duy tân không được hướng dẫn, các giá trị truyền thống bị phá sản, nắm không được cơ hội thứ nhất để Phát Triển Dân Tộc. V́ vậy cho nên, không chế ngự được các cuộc chấn động do những giá trị ngoại lai gây nên sau khi xâm nhập vào trạng thái điều ḥa của nền văn minh cũ. Xă hội Trung Hoa tuy không tiến triển liên tục, nhưng nhờ chủ quyền không mất nên không bị tan ră. Ngày nay, Trung Hoa đă nắm được cơ hội thứ hai và đang dốc hết nỗ lực của Dân Tộc để thực hiện công cuộc phát triển và duy tân mà nước Nhật đă làm xong.
Và cố nhiên Trung Hoa cũng sẽ bỏ trạng thái điều ḥa cũ để t́m một trạng thái điều ḥa mới. Nhưng công cuộc ấy sẽ thực hiện từ một xă hội không bị tan ră và với một sự lănh đạo không hề bị gián đoạn.
Dân Tộc Việt Nam không phản ứng kịp thời, chiến bại, độc lập bị mất, nước nhà biến thành thuộc địa, chủ quyền hoàn toàn mất, chẳng những không nắm được cơ hội thứ nhất để Phát Triển Dân Tộc, lại hoàn toàn bất lực đối với một công cuộc duy tân bắt buộc, không hướng dẫn và hỗn độn.
Các giá trị truyền thống bị phá sản. Hoàn toàn bất lực trước các cuộc chấn động do những giá trị ngoại lai gây nên sau khi xâm nhập vào trạng thái điều ḥa của nền văn minh cũ. V́ không gặp trở lực nên các cuộc chấn động mặc t́nh hoành hành phá hoại xă hội đến tan ră. Sự hoàn toàn mất chủ quyền lại gây sự gián đoạn trong việc lănh đạo quốc gia. Ngày nay chưa có ǵ bảo đảm là chúng ta đă nắm được cơ hội thứ hai để thực hiện công cuộc Phát Triển Dân Tộc. Giả sử chúng ta có nắm được th́ công cuộc phát triển và duy tân sẽ thực hiện từ một xă hội đă tan ră và với một sự lănh đạo quốc gia đă bị gián đoạn.
Hai hoàn cảnh này là hai điều kiện vô cùng nghiêm khắc đối với chúng ta, nếu chúng ta nắm được cơ hội thứ hai. Và thế nào là nắm bắt được và thế nào là không nắm được cơ hội, chúng ta sẽ trả lời rơ ràng các câu hỏi đó sau này.
Giờ đây chúng ta t́m hiểu v́ sao mà hai hoàn cảnh trên là hai điều kiện vô cùng nghiêm khắc đối với chúng ta khi chúng ta bắt tay vào công cuộc Phát Triển Dân Tộc và công cuộc Tây Phương Hóa.
Lănh đạo quốc gia gián đoạn
Như thế nào là một sự lănh đạo quốc gia bị gián đoạn ?
Trong một t́nh trạng b́nh thường chủ quyền của quốc gia chuyền tay một cách êm thắm từ lớp người lănh đạo này sang lớp người lănh đạo sau. Sự liên tục trong sự lănh đạo nằm ở chỗ các bí mật lănh đạo và các bí mật quốc gia được mật truyền cho nhau. Đời sống của người ngắn ngủi sánh với đời sổng của quốc gia, sự liên tục lănh đạo thực hiện được nhờ ở sự mật truyền nói trên và nhờ ở các văn khố và ở chỗ có người biết sử dụng văn khố. Ngoài ra thuật lănh đạo được truyền cho nhau nguyên vẹn từ thế hệ này sang thế hệ khác. Với thời gian, các bí mật chồng chất, các văn khố lưu trữ, sự trau dồi thuật lănh đạo càng ngày càng tinh vi, và kinh nghiệm lănh đạo súc tích là một di sản quư báu không thể lường được cho một Dân Tộc.
Sức mạnh của nước Anh hay nước Mỹ mà chúng ta mục kích ngày nay bắt nguồn trước hết từ chỗ hai quốc gia này đă thực hiện được việc liên tục lănh đạo quốc gia trong gần 200 năm.
Một nhà lănh đạo Anh, ngày nay bước lên nắm chính quyền, là tức khắc sau lưng ḿnh có 400 năm kinh nghiệm và văn khố làm hậu thuẫn. Đó là một di sản quí báu không có ǵ thay thế được và tạo cho họ một sức mạnh phi thường.
Với các hậu thuẫn đó, họ có thể hiểu biết và giải quyết những việc ngoài khả năng của những người, dầu tài ba đến đâu, nhưng thiếu hậu thuẫn của dĩ văng. Mỗi biến cố xảy ra bất cứ nơi nào trên thế giới đều có thể đối chiếu với một biến cố tương tự đă xảy ra trước đây và đă được ghi chép vào văn khố của họ. Nhờ vậy mà họ biết rơ bí mật lănh đạo của hầu hết các nước khác hơn là chính người lănh đạo của những nước đó. Trên phương diện này nước Pháp, nước Đức hay cả nước Nga cũng không sánh được với nước Anh. Và nước Pháp, nước Đức và nước Nga chưa thực hiện được sự liên tục lănh đạo như nước Anh. V́ vậy chúng ta không lấy làm lạ khi biết rằng ngày nay chính là chính sách ngoại giao của Anh, Mỹ lănh đạo thế giới ngày nay.
Trên phương diện này, và với thời gian qua, cách mạng năm 1789 của Pháp, mang đến nhiều cuộc xáo trộn trong xă hội Pháp, là một biến cố có hại nhiều hơn có lợi cho quốc gia Pháp. Việc lănh đạo quốc gia bị một gián đoạn sâu rộng và đến ngày nay việc chuyển quyền trong sự lănh đạo quốc gia một cách liên tục, nước Pháp vẫn chưa giải quyết được một cách ổn thỏa. Những biến cố không hay cho nước Pháp cho đến ngày nay, từ cách mạng 1789, đều là hậu quả của những sự kiện trên. Và trong việc chạy đua chiếm thuộc địa giữa các cường quốc Âu Châu trong các Thế Kỷ vừa qua, sở dĩ Anh thắng thế cũng nhờ ở hậu thuẫn vô biên của gần 400 năm liên tục trong việc lănh đạo quốc gia.
Dân Tộc Đức, trên mọi lănh vực của đời sống, đă tỏ ra có nhiều đức tính, mà các Dân Tộc khác không b́ kịp, và đă góp vào văn minh của nhân loại những sáng tạo cao cả. Nhưng sở dĩ ngày nay chỉ vẫn c̣n điêu đứng cũng chỉ v́ không giải quyết được vấn đề chuyển quyền và lănh đạo liên tục quốc gia. Nước Nga sau cuộc cách mạng 1917 đă thành công trong cuộc Phát Triển Dân Tộc và duy tân xă hội. Nhưng họ phải trả bằng một giá rất đắt và phải sau hơn ba mươi năm, mới chế ngự được các chấn động do sự gián đoạn về lănh đạo gây nên. Mặc dầu như vậy, ngày nay nhược điểm của Nga Sô vẫn c̣n ở chỗ bộ máy chính quyền của cộng sản vẫn chưa giải quyết được vấn đề chuyển quyền và vấn đề lănh đạo liên tục quốc gia.
Với thời gian qua, các cuộc cách mạng bạo động trong lịch sử đều là những cái hại, dù là có cần thiết đi nữa, vẫn là những cái hại cho quốc gia và Dân Tộc. Nếu cân nhắc hai bên, một bên là cuộc cách mạng bạo động để thanh toán các tệ đoan trước mắt của xă hội và một bên là sự bảo đảm cho sự lănh đạo liên tục quốc gia, th́ lịch sử trả lời rằng sự lănh đạo liên tục quốc gia quan hệ hơn, v́ nó là một quan điểm dài hạn, c̣n cách mạng bạo động là một quan điểm ngắn hạn. Mà lịch sử là một quan điểm dài hạn so sánh với đời sống cá nhân là một quan điểm ngắn hạn. Một Dân Tộc càng trưởng thành quan điểm càng dài hạn, và quan điểm càng dài hạn, Dân Tộc càng có cơ hội và phương tiện để trưởng thành.
Hơn nữa những cái tệ đoan có thể thanh toán bằng nhiều lối, ngoài lối cách mạng bạo động.
Sự lănh đạo quốc gia liên tục
Như trên đă tŕnh bày, sự lănh đạo quốc gia được liên tục khi nào các điều kiện dưới đây được thỏa măn:
1.- Sự chuyển quyền được b́nh thường từ lớp người trước cho tới lớp người sau.
2.- Các bí mật quốc gia được truyền lại.
3.- Thuật lănh đạo được truyền lại và được cải thiện càng ngày càng tinh vi.
4.- Các kinh nghiệm của dĩ văng được xếp vào văn khố, được truyền lại và có người biết sử dụng văn khố.
Cứ theo các điều kiện trên đây, một chế độ độc tài hay quân chủ chuyên chế hoàn toàn bất lực trong việc bảo đảm một sự lănh đạo quốc gia liên tục. V́ cái mầm bạo động lúc nào cũng được tạo ra và bị đàn áp bởi các chế độ trên.
Nhưng càng đàn áp lại càng nuôi dưỡng đúng theo luật tự nhiên của lịch sử và cuối cùng bạo động sẽ bùng nổ và mang lại sự gián đoạn trong vấn đề lănh đạo quốc gia. Nhận xét trên đây sẽ ảnh hưởng nặng trên sự lựa chọn đường lối của chúng ta sau này.
Nếu việc lănh đạo quốc gia được liên tục nhờ ở sự thỏa măn các điều kiện trên đây, th́ dĩ nhiên, sự thiếu một hay nhiều điều kiện trên đây sẽ đem đến sự gián đoạn trong việc lănh đạo. Và tùy theo điều kiện thiếu nhiều hay ít, sự gián đoạn ấy sẽ dung nạp được hay trầm trọng. Chúng ta có thể phân biệt ba tŕnh độ gián đoạn.
Tŕnh độ gián đoạn nhẹ nhất xảy ra khi sự chuyển quyền từ lớp người trước cho lớp người sau không được b́nh thường, các bí mật quốc gia trong giai đoạn ngắn trước đó sẽ mất. Tuy nhiên văn khố hăy c̣n và thuật lănh đạo không đến nỗi mất hẳn. Các cuộc đảo chánh ở Nam Mỹ rất là điển h́nh cho tŕnh độ này.
Tŕnh độ gián đoạn trầm trọng xảy ra khi sự chuyển quyền từ lớp người trước cho lớp người sau, chẳng những không được b́nh thường, mà lại c̣n diễn ra trong những hoàn cảnh bạo động kinh khủng. Các bí mật quốc gia mất hết, văn khố bị thiêu hủy, người sử dụng văn khố không c̣n. Thuật lănh đạo và kinh nghiệm của dĩ văng được thay thế bằng sự hăng hái của dân chúng và sáng kiến cá nhân. Di sản của dĩ văng không c̣n nữa, v́ sự điên rồ của người đời làm cho họ tin rằng họ cần san bằng tất cả dĩ văng đế xây dựng tương lai. Cách mạng năm 1789 của Pháp là một ví dụ cụ thể nhất cho trường hợp này. Biết như vậy rồi chúng ta không lấy làm lạ tại sao cho đến ngày nay người Pháp vẫn chưa giải quyết được một cách ổn thỏa vấn đề lănh đạo liên tục cho quốc gia của họ.
Cũng trên phương diện này, sự chính quyền Việt Minh, vô t́nh hay cố ư, không bảo vệ được phần văn khố của Triều Nguyễn mà người Pháp c̣n để lại, để cho dân chúng Huế đốt phá một phần quan trọng của di sản kinh nghiệm của chúng ta, là một lỗi rất lớn, không có ǵ tha thứ được đối với quốc gia và Dân Tộc. Tuy nhiên, dù vô t́nh hay cố ư việc đó đă xảy ra chứng minh cho sự kiện chính v́ chúng ta đă mất truyền thống lănh đạo, cho nên những người có trách nhiệm trong chính phủ Việt Minh lúc bấy giờ ở Huế không ư thức được tính cách quan trọng và quốc gia cần thiết của sự bảo vệ văn khố. Càng mất truyền thống lănh đạo lại càng phá hủy những di sản khả dĩ bảo vệ sự lănh đạo quốc gia. Tục ngữ thường nói “nghèo lại càng nghèo” là vậy.
Tŕnh độ gián đoạn trầm trọng nhất xảy ra khi sự chuyển quyền không thực hiện được giữa lớp người trước và lớp người sau. Bí mật lănh đạo và bí mật quốc gia đều mất.
Thuật lănh đạo không truyền lại được. Di sản dĩ văng không người thừa nhận, văn khố thất lạc và bị cướp bóc. Đó là trường hợp của các nước bị chinh phục, mất chủ quyền. Và đó là trường hợp của Việt Nam chúng ta trong thời kỳ Pháp thuộc.
Lớp người lănh đạo trước của chúng ta đă mất, lớp người lănh đạo sau của chúng ta không có. Di sản dĩ văng tiêu tan. T́nh trạng của chúng ta thật là khủng khiếp nếu chúng ta tưởng tượng rằng, trước mặt một nhà lănh đạo Anh tựa lưng vững chăi trên di sản dày 400 năm, sẵn sàng ứng phó với mọi biến cố, nhà lănh đạo của chúng ta đứng lên, cô độc, sau lưng không có lấy được một tờ di sản làm hậu thuẫn.
Hoàn cảnh trong đó chúng ta phải chiến đấu để thực hiện cuộc Phát Triển Dân Tộc, nghiêm khắc là vậy đó. Ư nghĩa của chữ “chậm tiến” là vậy đó.
Điều kiện của một sự lănh đạo liên tục
V́ vậy cho nên dốc hết nỗ lực của toàn dân vào công cuộc chung cũng chưa chắc là đủ. Nhưng đó là việc chúng ta sẽ bàn tới sau này. Giờ đây để hết tâm trí chúng ta vào một điều tối quan trọng là đường lối của chúng ta sau này sẽ được lựa chọn như thế nào để khả dĩ bảo đảm cho sự lănh đạo liên tục quốc gia và tiết kiệm được người lănh đạo mà chúng ta vô cùng khan hiếm sau thời kỳ Pháp thuộc. Điều này như trên đă nói chắc chắn một chính thể độc tài không làm được.
Một sự kiện khác chứng minh cho tính cách thiết yếu của sự lănh đạo liên tục quốc gia, là t́nh trạng của các nước Nam Mỹ. Ở các nước này, những sự gián đoạn trong việc lănh đạo tuy với h́nh thức nhẹ nhưng xảy ra luôn v́ những cuộc đảo chánh liền liền. Nhiều gián đoạn nhỏ liên tiếp trở thành những gián đoạn lớn, cho nên các nước Nam Mỹ trải qua nhiều thế hệ vẫn là chậm tiến. Một mặt khác, ví dụ trên đây lại chứng minh cho một sự kiện khác: Muốn chặn sự phát triển của một Dân Tộc th́ không có biện pháp nào hiệu quả bằng biện pháp gây ra nhiều gián đoạn trong việc lănh đạo quốc gia của Dân Tộc ấy. Đây là một thủ đoạn thường dùng của các cường quốc Tây Âu trước đây khi mang kỹ thuật Tây phương đi chinh phục thế giới.
Sự gián đoạn trong vấn đề lănh đạo làm cho quốc gia suy nhược theo một thể thức cơ biến như thế nào chúng ta đă rơ.
Những nếu sự gián đoạn diễn ra trong những hoàn cảnh bạo động gây sự giết chóc giữa nhiều phe phái, th́ lại c̣n gây nhiều thảm hại to tát cho quốc gia trên một lĩnh vực khác.
Trở về ví dụ của nước Anh một lần nữa, chúng ta sẽ ư thức rơ ràng sự thảm hại vừa nói trên. Ở nước Anh việc lănh đạo quốc gia liên tục đă được giải quyết hoàn bị. Khi cần thay đổi một nhà lănh đạo, tức khắc bộ máy hiến pháp vận chuyển, và một người lănh đạo khác lên thay thế, người lănh đạo trước buông việc, về tịnh dưỡng và suy nghiệm các hành vi đă qua của ḿnh.
Những người lănh đạo xứng danh bao giờ cũng hành động theo một triết lư chính trị mà họ đă nghiền ngẫm lâu ngày, trước khi mang ra thực hành. Nếu khi đụng chạm với thực tế, những tư tưởng đang hướng dẫn hành động của họ đă tỏ ra sai lạc, hay v́ hoàn cảnh bên ngoài đă biến đổi nên không c̣n phù hợp với những tư tưởng ấy nữa th́ cần phải có một sự thay đổi ngay.
Nhưng thay đổi như thế nào.
Người lănh đạo phải thay đổi tư tưởng, hay là phải thay đổi người lănh đạo.
Kinh nghiệm chỉ rằng không bao giờ người lănh đạo thay đổi tư tưởng trong lúc đang ở trong không khí hành động, bởi một lẽ rất dễ hiểu là họ phải mất nhiều th́ giờ nghiền ngẫm mới đi đến triết lư chính trị mà họ chủ trương. Nay nếu nó không phù hợp với hoàn cảnh, họ phải có đủ thời giờ để một là xét v́ sao triết lư ấy không phù hợp và hai để t́m triết lư khác thay thế vào. Điều mà họ không thể làm được nếu họ vẫn bị hành động lôi cuốn. V́ vậy cho nên yêu cầu một người lănh đạo thay đổi tư tưởng của họ đang khi hành động là một việc không bao giờ thực hiện được. Giả sử mà họ có thay đổi được th́, việc lănh đạo lại sẽ gặp một nguy cơ lớn hơn nữa. Bởi v́ thay đổi hấp tấp và không suy nghiệm như vậy, người lănh đạo sẽ không c̣n là chính họ nữa. Và đương nhiên hiệu quả trong hành động của họ sẽ kém bội phần.
Như vậy, chỉ c̣n cách là phải thay đổi người lănh đạo.
Thoát khỏi không khí náo nhiệt và thúc dục của hành động, người lănh đạo bị thay đổi sẽ suy nghiệm hành động đă qua, rút kinh nghiệm cho bản thân và viết thành sách những kinh nghiệm ấy để làm giàu thêm cho di sản dĩ văng của quốc gia.
Hơn thế nữa, người lănh đạo bị thay đổi lại có ngày giờ nghiền ngẫm một triết lư chính trị khác hợp với t́nh thế hơn, và nếu có cơ hội cho họ trở ra hoạt động, th́ quốc gia lại có một người lănh đạo kinh nghiệm hơn gấp mấy lần người lănh đạo đă bị thay đổi trước đây. Nay, nếu thay v́ một sự chuyển quyền b́nh thường, nhiều bạo động lại diễn ra làm thiệt mạng những người lănh đạo trước, chúng ta sẽ mất, ngoài những bí mật lănh đạo mà chúng ta đă nói rồi trên kia, vừa các kinh nghiệm lănh đạo có thể làm cho di sản dĩ văng chúng ta thêm phong phú, vừa một người lănh đạo mà quốc gia lúc nào cũng khan hiếm.
Lư luận trên đây lại c̣n làm cho chúng ta nhận xét thêm rằng:
1.- Không bao giờ thay đổi được tư tưởng của người lănh đạo trong lúc họ đang hành động.
2.- Người lănh đạo dù tài ba đến đâu cũng có lúc cần phải được thay đổi, v́ tư tưởng không phải lúc nào cũng phù hợp với thực tế.
3.- Sự lănh đạo quốc gia liên tục một khi được bảo đảm, di sản dĩ văng của quốc gia càng thêm phong phú, và quốc gia càng giàu người lănh đạo. Di sản quốc gia càng thêm phong phú và quốc gia càng giàu người lănh đạo th́ việc lănh đạo quốc gia liên tục lại càng thêm bảo đảm.
4.- Ngược lại, sự lănh đạo quốc gia liên tục không thực hiện được, th́ di sản dĩ văng của quốc gia càng ngày càng suy vi và quốc gia càng ngày càng nghèo người lănh đạo. Và di sản dĩ văng càng suy vi và quốc gia càng nghèo người lănh đạo th́ việc lănh đạo quốc gia liên tục lại càng khó thực hiện được.
V́ những lư do trên, nên một chế độ độc tài, mà bản chất là dựa, trước hết, trên nguyên tắc không thay đổi người lănh đạo, không thể phù hợp với thực tế. Và không phù hợp với thực tế là không thực hiện được sự lănh đạo quốc gia liên tục Và chúng ta đă thây sự tai hại cho quốc gia như thế nào nếu sự lănh đạo liên tục không thực hiện được. Nhận xét này sẽ ảnh hưởng nặng trên sự lựa chọn đường lối của chúng ta sau này.
Sau khi đă giải thích v́ sao sự lănh đạo quốc gia bị gián đoạn là một điều kiện nghiêm khắc cho chúng ta, chúng ta c̣n phải giải thích v́ sao mà sự kiện xă hội chúng ta đă tan ră lại là một điều kiện nghiêm khắc khác.
Xă hội bị tan ră
Như thế nào là một xă hội bị tan ră ?
Như trong một phần trên chúng ta đă nói, một xă hội b́nh thường, có một nền văn minh đă tiến bộ, đều có một toàn bộ giá trị tiêu chuẩn làm mực thước cho hoạt động của xă hội trong mọi lĩnh vực. Những giá trị tiêu chuẩn không nhất thiết ảnh hưởng theo một chiều, nhưng tất cả, với thời gian, quân b́nh lẫn nhau và lập thành một trạng thái điều ḥa cho toàn bộ. Nếu trạng thái điều ḥa là một thế thăng bằng động tiến th́ nền văn minh của xă hội đó đang thời phát triển. Nếu trạng thái điều ḥa là một thế thăng bằng tỉnh chỉ th́ nền văn minh của xă hội đó đang đương lúc ngưng trệ.
Nhưng trong trường hợp nào xă hội đó cũng sống trong một trạng thái điều ḥa và tất cả phần tử trong xă hội đều tin tưởng tuyệt đối vào những giá trị tiêu chuẩn trên, và mọi người trong xă hội đều cố gắng hành động phù hợp với các tiêu chuẩn trên. Và v́ mọi người đều tin tưởng vào các tiêu chuẩn trên, nên bất cứ hành động nào phù hợp với các tiêu chuẩn trên đều t́m được ở trong tâm hay trí của mỗi người một sự rung động ăn nhịp theo. Do đó các giá trị tiêu chuẩn là những tín hiệu tập hợp cho các phần tử trong xă hội. Ví dụ trong xă hội Việt Nam xưa kia, quan niệm quân tử là một giá trị tiêu chuẩn. Trung, hiếu là những giá trị tiêu chuẩn. Nói lên những danh từ quân tử, trung, hiếu, mọi người đều hội ư với của người nói.
Trong một xă hội, những giá trị tiêu chuẩn không phải là bất di bất dịch, nhưng bao giờ cũng có. Và các giá trị tiêu chuẩn, tùy theo sự tiến hóa của xă hội cũng sinh ra, phát triển, trưởng thành, già cỗi và chết đi như một sinh vật. Tuy nhiên, lúc nào các giá trị tiêu chuẩn cũng hợp thành một trạng thái điều ḥa, có khả năng duy tŕ và nuôi dưỡng sức kết hợp các phần tử trong xă hội thành một Cộng Đồng.
Do đó xă hội sẽ tan ră khi nào tất cả hay phần lớn các giá trị tiêu chuẩn đều phá sản mà không được thay thế. Trường hợp này rất rơ rệt trong xă hội Việt Nam sau khi thời kỳ Pháp thuộc. Như chúng ta đă thấy rơ trong một đoạn phân tách trên kia, sau khi chiến bại, chủ quyền bị mất, trách nhiệm lèo lái con thuyền Việt Nam sang tay người ngoại quốc nên Dân Tộc Việt Nam hoàn toàn mất chủ động đối với chính vận mạng của ḿnh. Trong khi đó văn minh của chúng ta bị sự tấn công của văn minh Tây phương, nghĩa là các giá trị tiêu chuẩn của chúng ta bị các giá trị tiêu chuẩn của Tây phương đả phá. Và chúng ta đă thấy v́ nguyên nhân nào mà xă hội chúng ta không chống trả nổi. Trước làn sóng ồ ạt của văn minh Tây phương các giá trị tiêu chuẩn của chúng ta khô héo và chết dần, và không được thay thế. Ngày nay những danh từ quân tử, trung quân, hiếu tử không c̣n làm rung động được bao nhiêu người. Và chúng ta không c̣n những tín hiệu để tập hợp những phần tử trong xă hội nữa. Không tập hợp được tức là các phần tử sống rời rạc, không c̣n hưởng ứng nhịp nhàng theo một giá trị tiêu chuẩn nào nữa. Và như thế là xă hội tan ră.
Các giá trị tiêu chuẩn cũ đă mất hết uy tín, nhưng những người tự xem ḿnh là theo mới lại hướng về những giá trị tiêu chuẩn nào ?
Thật ra, công cuộc theo mới dưới thời Pháp thuộc không được hướng dẫn, nên rất là hỗn độn và không mục đích. V́ thế những người theo mới không hề lên được đến tŕnh độ t́m ra những giá trị tiêu chuẩn mới để theo. Họ chỉ bắt chước lối ăn mặc và lối sống Tây phương. Và chưa bao giờ có ai nghĩ đến việc cần thay thế những giá trị tiêu chuẩn đă chết bằng những giá trị tiêu chuẩn khác. Đó là vấn đề mà chúng ta cần phải xét tỉ mỉ sau này khi đặt đường lối cho chúng ta.
Xă hội tan ră là một hoàn cảnh khắc nghiệt.
Giờ đây chúng ta đă thấy rằng xă hội chúng ta tan ră v́ không c̣n tiêu chuẩn giá trị để kết hợp các phần tử lại. V́ sao mà một t́nh trạng như vậy là một hoàn cảnh khắc nghiệt cho chúng ta khi chúng ta bắt tay vào công cuộc Phát Triển Dân Tộc. V́ lư do sau đây:
Trước hết, chúng ta sẽ thấy sau này, công cuộc Phát Triển Dân Tộc là một công cuộc to tát mặc dầu đầy kích thích, nhưng đ̣i hỏi ở toàn dân. nhiều nỗ lực liên tục chóng làm mệt mỏi mọi người và nhiều hy sinh nặng nề chóng làm cho mọi người chán nản và sau đó phẫn nộ, và oán ghét. Nếu chúng ta không có một mănh lực ǵ để thuyết phục toàn dân và huy động họ để cùng nhau mạnh bước trên đường tiến bộ, th́ hy vọng thành công của chúng ta không có ǵ bảo đảm.
Nay nếu xă hội chúng ta đă tan ră v́ gần một Thế Kỷ mang ách nô lệ, th́ chúng ta c̣n trong tay giá trị tiêu chuẩn nào để giúp cho chúng ta thâu phục được sự hưởng ứng của mọi người hầu thực hiện cuộc huy động thiết yếu cho công cuộc phát triển ?
Khi nước Nhật nắm cơ hội duy tân, xă hội Nhật c̣n nguyên vẹn, và các lănh đạo Nhật đă dùng những giá trị tiêu chuẩn của nền văn minh xưa để huy động Dân Tộc họ thực hiện công cuộc phát triển. Các nhà lănh đạo đă kêu gọi ḷng ái quốc sâu xa và sự tôn thờ Thiên Hoàng của Dân Tộc Nhật. Đó là hai giá trị tiêu chuẩn căn bản của xă hội Nhật có mănh lực thúc đẩy mọi người đến sự hy sinh cuối cùng cho tập thể. Những khí giới sắc bén vô song đó đă được các nhà lănh đạo Nhật sử dụng đúng mức để thực hiện công cuộc Tây Phương Hóa với kết quả mà chúng ta thấy ngày nay.
Người Mỹ sau khi chiến thắng và chiếm đóng nước Nhật đă áp dụng một chính sách vô cùng cứng rắn để làm suy giảm uy tín của Thiên Hoàng bằng mọi cách. Lư do chính là v́ họ tin rằng quân phiệt chủ nghĩa Nhật Bản đă khai thác giá trị tiêu chuẩn tôn sùng Thiên Hoàng của xă hội Nhật đê làm sức mạnh cho họ. Như thế th́, đả phá giá trị tiêu chuẩn đó là đả phá quân phiệt chủ nghĩa đến tận gốc rễ. Nhưng các nhà lănh đạo Nhật sở dĩ vận dụng hết cái nỗ lực để cứu văn uy tín của Thiên Hoàng cũng v́ họ ư thức được rằng giá trị tiêu chuẩn căn bản của xă hội Nhật là sự tôn sùng Thiên Hoàng.
Trường hợp của người Nhật lại giúp cho chúng ta nhận định được thêm rằng:
1.- Sự lỡ cơ hội phát triển lần thứ nhất cho Dân Tộc Việt Nam của Triều Đ́nh Nhà Nguyễn chẳng những đưa Dân Tộc chúng ta vào ṿng nô lệ với tất cả các sự thảm hại tàn khốc, lại c̣n làm cho chúng ta mất nhiều khí giời vô song để chúng ta có thể thực hiện được công cuộc Phát Triển Dân Tộc, khi đă dành lại được độc lập.
2.- Ngoài các lư do chính trị ngắn hạn và dài hạn, sở dĩ Trung Cộng, sau khi dành lại được toàn vẹn chủ quyền đă chọn chủ trương huy động quần chúng bằng chính sách độc tài, theo lối cộng sản để phát triển, cũng v́ các nhà lănh đạo Trung Cộng đă nhận thấy, mặc dầu xă hội của họ chưa đến giai đoạn tan ră như xă hội của chúng ta nhưng sự phá sản của các giá trị tiêu chuẩn cũ của Trung Hoa đă làm mất những tín hiệu tập hợp của văn minh cũ c̣n có thể sử dụng được. Sau này chúng ta sẽ phân tích tỉ mỉ xem hoàn cảnh có nhiều yếu tố giống hoàn cảnh của chúng ta, có thể áp dụng cho chúng ta không ?
Trở lại vấn đề sự tan ră của xă hội Việt Nam, sự tŕnh bày trên đây đă cho chúng ta thấy rơ như thế nào là một xă hội tan ră, và v́ sao mà t́nh trạng đó lại là một hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt cho công cuộc Phát Triển Dân Tộc của chúng ta.
Một h́nh ảnh
Nói một cách khác, trước khi người Pháp đến chinh phục chúng ta, và đưa văn minh của họ vào đàn áp văn minh của chúng ta, trên sân khấu Việt Nam, Dân Tộc chúng ta đă diễn một vở tuồng, tuy có nhiều lớp hay, dở không đều nhau, nhưng trong toàn bộ, toàn thể Dân Tộc đều ưa thích. Người Pháp đến đây chiếm sân khấu mang một vở tuồng hoàn toàn mới lạ có nhiều đặc tính đầy hấp dẫn nên mặc dầu trong thâm ư đă sẵn thành kiến bài ngoại, nhưng lần lần một số dân chúng đă bị lôi cuốn. Tuy nhiên, sự ưa thích chỉ đối với các chi tiết sắc phục và dàn cảnh bên ngoài, chớ cái thâm thúy của cốt truyện bên trong vẫn chưa được thâu hiểu và thưởng thức.
Sự kiện lịch sử xoay dần, người Pháp dọn gánh ra đi trả sân khấu lại cho chúng ta. Và một số người đinh ninh rằng lớp tuồng cũ của chúng ta sau thời gian gián đoạn sẽ được đem ra tiếp tục diễn lại, trong sự tiếp đón nồng nhiệt của khán giả. Nhưng họ kinh ngạc thấy rằng dân cũng không c̣n hoan nghinh nữa. Bởi v́ lớp tuồng của người Pháp đưa đến, chẳng những đă chiếm sân khấu và lôi cuốn một số đông dân chúng, nhưng lại c̣n đả phá ngấm ngầm những giá trị căn bản của lớp tuồng cũ, cho nên ngày nay dân chúng không c̣n thấy sự thích hợp của những giá trị căn bản đó nữa. Nhưng vở tuồng của người Pháp lẫn cả đào kép của họ dân chúng càng không ưa. Tuồng Pháp nhất định phải bỏ đi, tuồng cũ không tái diễn được, cố nhiên là chỉ c̣n có một cách là sắp đặt một vở tuồng mới.
Ví dụ trên đây, cốt mượn một h́nh ảnh ở một phạm vi nhỏ hẹp, để làm cho vấn đề dễ nhận xét. Trong thực tế vấn đề phức tạp hơn nhiều bởi v́, phạm vi chính trị, nghĩa là phạm vi quốc sự là hoạt động trường của nhiều người, trong khi đó công việc sắp đặt trong một gánh hát, là công việc của một người.
Ví dụ trên lại giúp cho chúng ta nhận thấy thêm rằng, lịch sử không bao giờ là một sự tái diễn không ngừng. Quan điểm lịch sử là một sự tái diễn không ngừng là một quan điểm không thiết thực của những lối suy nghĩ lười biếng và nhát sợ. Lười biếng bởi v́ thay v́ phải nát óc t́m hiểu các sự kiện phức tạp của đời sống, sự chấp nhận rằng trong hoàn cảnh nào đó và khi những điều kiện nào đó đă được thỏa măn th́ tự nhiên các sự kiện lịch sử tương tự sẽ xảy ra, có vẻ giải quyết một lần một và bằng một cách dễ dàng các sự phức tạp của lịch sử. Nhát sợ v́ nếu được soi xét tường tận và phân tích tỉ mỉ các sự kiện lịch sử sẽ lọc ra hết tính cách phức tạp kinh khủng để làm cho nhiều trí óc phải khiếp sợ, v́ không thể bao quát nổi. Cho nên thái độ lo rằng lịch sử là một sự tái diễn không ngừng là một lối trốn tránh không dám nh́n sự thật. Sự thật là, nếu có nhiều sự kiện lịch sử giống nhau xảy ra trong những thời gian khác nhau, nhưng không bao giờ hoàn cảnh chung quanh và các yếu tố đều giống nhau cả. Đă như thế chắc chắn rằng không bao giờ một sự kiện lịch sử lại xảy ra hai lần. Sự thật là không bao giờ chúng ta có thể tắm hai lần trong một gịng sông, và lịch sử là một gịng sông.
Để chứng minh cho quan điểm trên đây chúng ta đă thấy rằng cơ hội Phát Triển Dân Tộc đến với chúng ta đă hai lần, nhưng lần sau hoàn toàn khác lần trước, khác v́ hoàn cảnh bên ngoài khác và khác như chúng ta đă phân tích trên đây, v́ hoàn cảnh nội bộ đă khác.
Dưới đây chúng ta lại có dịp phân tích tỉ mỉ hơn nữa về hai cơ hội Phát Triển Dân Tộc đó.
Ngoài ba hậu quả tai hại nhất mà chúng ta đă kể ra trên đây và đă thử phân tích và t́m hiểu nguyên nhân: Không có người lănh đạo, có sự gián đoạn trầm trọng trong việc lănh đạo quốc gia, và xă hội chúng ta tan ră, thời kỳ thống trị của đế quốc c̣n để lại cho chúng ta nhiều hậu quả khác, tuy cũng ảnh hưởng trên đời sống của Dân Tộc nhưng, so sánh với ba loại mà chúng ta đă xem xét trên đây với nhiều chi tiết, có thể vào hàng thứ yếu.
Sự bang giao và ranh giới giữa chúng ta và các nước láng giềng, trong đó, có cả các nước đă hay không cùng với chúng ta cùng chung lệ thuộc một đế quốc, là những hậu quả của thời kỳ thực dân có thể liệt vào loại này. Vấn đề chuyển ngữ trong đời sống của quốc gia là một hậu khác cũng nằm trong loại này.
Việt Nam đang cần phải Tây Phương Hóa để Phát Triển Dân Tộc.
V́ sao Tây Phương Hóa ?
Kể từ Thế Kỷ 15, khi các nước Âu Châu chế ngự được kỹ thuật vượt biển, và bắt đầu cuộc xâm chiếm thế giới, tất cả các quốc gia không thuộc vào xă hội Tây phương, không trừ một nước nào đều bị sự tấn công mănh liệt của họ. Hoàn cảnh mỗi quốc gia bị tấn công đều khác, nhưng chung qui tất cả các phản ứng đều có thể liệt vào hai loại.
Các cuộc chinh phục thường thường tuần tự diễn ra theo một bối cảnh không thay đổi. Trước hết, các chiến thuyền ngoại quốc đến yêu cầu được trao đổi thương măi với người bản xứ. Một thời gian sau họ thương thuyết được đặt những thương quán thường trực tại các hải cảng họ thường lui tới và theo liền với các thương quán, những phong tục mới được đưa vào cùng với những người có nhiệm vụ thương măi.
Nếu số người càng ngày càng đông th́ chẳng bao lâu nhu cầu về tinh thần lại đ̣i hỏi sự có mặt của những nhà tu sĩ.
Cho tới giai đoạn này các nhà cầm quyền bản xứ, dầu có ngạc nhiên và ít nhiều báo động đối với các kỹ thuật tiến bộ của người ngoại quốc, cũng chưa thấy cần phải có một thái độ đối phó. Nhưng từ giai đoạn này, mănh lực của tín ngưỡng mà giáo lư Gia Tô đă hun đúc cho người Tây phương trong mấy Thế Kỷ, bắt đầu làm cho các nhà cầm quyền bản xứ lo ngại. Họ lo ngại trật tự cổ truyền của Dân Tộc sẽ bị sự xâm nhập của một vật ngoại lai, bởi v́ các tu sĩ Gia Tô, tin tưởng nơi sứ mạng thiêng liêng của ḿnh đối với nhân loại, nên lúc nào cũng t́m cách thi hành phận sự truyền giáo.
Bản năng tự vệ.
Phản ứng tự nhiên của các nhà cầm quyền bản xứ, là bản năng tự vệ của một sinh vật đối với sự xâm nhập của một vật ngoại lai vào trong nội bộ cơ thể của ḿnh. Mà một tôn giáo mới là một vật ngoại lai vô cùng nguy hiểm cho trạng thái điều ḥa của một xă hội. Bởi vậy cho nên, phản ứng của các nhà cầm quyền là bảo vệ trạng thái điều ḥa của xă hội bằng cách đóng cửa không để cho vật ngoại lai xâm nhập. Trong thực tế và trong lĩnh vực chính trị một thái độ như vậy có nghĩa là bài ngoại, và bế quan tỏa cảng không tiếp nhận những luồng gió ở ngoài đưa vào. Đó là thái độ tự nhiên và hợp với bản năng tự vệ của mọi sinh vật, và cũng là thái độ của hầu hết các Dân Tộc bị Tây phương tấn công khi nhận thức nguy cơ đe dọa xă hội ḿnh. Lịch sử đă chứng minh rằng một thái độ như vậy sẽ đắc thắng nếu đồng thời, kỹ thuật vật chất có đủ tiến bộ và lực lượng vơ trang có đủ hùng hậu để làm hậu thuẫn, bằng không, thái độ đó sẽ là một tử lộ.
Lư trí phản công.
Thái độ thứ hai là thái độ của một vài nước như Nga, Nhật và sau này là Thổ Nhĩ Kỳ. Thay v́ đóng cửa lại đê sống trong nhà và phủ nhận thực tế đang xảy ra ngoài ngơ ḿnh, v́ sợ vật ngoại lai xâm nhập vào và gây xáo trộn trong nội bộ, các nước trên đây đă có can đảm để nh́n nhận sự thật và đủ lư trí để trấn áp bản năng, phân tích thực tế và t́m được đường sống. Một sự t́nh cờ lịch sử đă đặt vào nhiệm vụ lănh đạo các quốc gia đó, những người sáng suốt khác thường khả dĩ dẫn dắt Dân Tộc họ lựa chọn t́m được sanh lộ trong một giai đoạn quyết định cực kỳ nguy hiểm.
Thái độ thứ nhất có tính cách pḥng thủ và bản năng. Thái độ thứ hai có tính cách lư trí và phản công. Đứng trước nguy cơ, thái độ thứ nhất có nghĩa là thi hành một biện pháp dễ nhưng đưa đến thất bại, thái độ thứ hai là thi hành một biện pháp khó nhưng đưa đến sự thành công.
Trong thực tế, trong các quốc gia đă lựa chọn thái độ thứ nhất, các nhà lănh đạo đă đóng cửa các hải cảng, đánh đuổi người ngoại quốc ra khỏi lănh thổ, bài trừ tất cả các di tích của họ để lại. Nhưng những người này, chẳng bao lâu sẽ trở lại với những khí giới tân tiến hơn, và những lực lượng vơ trang tổ chức hoàn bị hơn và sẽ chiến thắng dễ dàng những khí giới lạc hậu và những lực lượng vô tổ chức của người bản xứ. Và sau đó, tất cả điều ǵ mà họ không chiếm được bằng lối thương thuyết th́ họ lại chiếm được bằng vơ lực. Hơn nữa, sự giao hảo giữa hai quốc gia sẽ không c̣n và nhường chỗ lại cho sự kiện người chiến thắng thống trị kẻ chiến bại. Hậu quả dành cho các Dân Tộc lâm vào hoàn cảnh ấy như thế nào, chúng ta đă rơ. Nguyên nhân của sự thảm bại cho nhiều Dân Tộc chỉ ở chỗ bản năng tự vệ của họ quá mạnh lấn áp cả trí sáng suốt, nên các nhà lănh đạo không nhận thức rằng kỹ thuật lạc hậu của ḿnh kém xa kỹ thuật của địch, và kỹ thuật đă kém thế th́ không làm thế nào hậu thuẫn cho bất cứ chủ trương chính trị nào được.
Như chúng ta đă thấy, đằng nào chúng ta cũng không tránh được sự xâm nhập vào nội bộ xă hội chúng ta của các vật ngoại lai. Nhưng trong thái độ thứ nhất sự xâm nhập sẽ xảy ra bằng vơ lực, ngoài ư muốn của chúng ta và chúng ta sẽ không chủ động được. Trong thái độ thứ nh́, chúng ta tự ư để cho sự xâm nhập thực hiện và v́ vậy nên chúng ta chủ động được sự xâm nhập đó. Và chính v́ chúng ta chủ động được sự xâm nhập đó mà các giá trị ngoại lai thay v́ phá vỡ được trạng thái điều ḥa của xă hội chúng ta, chỉ có thể thay đổi được trạng thái đó. Trong khi đó một sự xâm nhập không thể kiểm soát được sẽ làm sụp đổ trạng thái điều ḥa của xă hội. Và, trong một xă hội b́nh thường, việc thay đổi trạng thái điều ḥa là một sự kiện thông thường, trái lại sự sụp đổ là một tai biến.
Tóm lại, đứng trước sự tấn công của Tây phương, con đường chết là con đường bế quan tỏa cảng ngăn cấm không cho văn minh Tây phương xâm nhập vào xă hội của nước bị tấn công, con đường sống lại là con đường mở cửa đón rước văn minh Tây phương để học chế ngự kỹ thuật của Tây phương mà chống lại Tây phương.
Nước Nga, sau nhiều Thế Kỷ chống lại sự tấn công của Tây phương, đă t́m thấy sự thật như trên, và nhiều trong lịch sử nước Nga đă chiến thắng các cường quốc Tây phương sau khi đă Tây Phương Hóa kỹ thuật của ḿnh. Nhưng cũng nhiều lần bị Tây phương chiến thắng v́ kỹ thuật của Tây phương tiến triển không ngừng trong khi người Nga không làm cho kỹ thuật đă lấy của Tây phương phát triển. Đây cũng là một điều vô cùng quan trọng trong việc Tây Phương Hóa mà chúng ta sẽ phân tích tỉ mỉ sau này.
Những nhà lănh đạo Nhật, trong giai đoạn nước Nhật bị Tây phương tấn công, đă nhận thấy được ngay những biện pháp cần thiết phải thi hành trong giờ phút quyết liệt cho Dân Tộc. Thành công của họ như chúng ta mục kích ngày nay là một xác nhận rơ rệt nhất về sự lựa chọn đúng hay không giữa hai thái độ.
Ngày nay, thái độ mà nước Nga và nước Nhật đă lựa chọn trước một sự tấn công của một nước tiến bộ hơn về kỹ thuật, đă được công nhận khắp nơi, và đă được nghiên cứu và đúc thành một giải pháp khoa học, khả dĩ áp dụng cho các nước khác trong hoàn cảnh đó. Công cuộc mà ngày nay Trung Hoa đang dốc hết cố gắng của toàn dân để thực hiện chỉ là một sự chấp nhận thái độ của Nga và Nhật đă chọn. Và các nước chậm tiến khác hiện nay cũng đang cố gắng đi vào con đường đó.
Tuy nhiên, trước đây có nhiều người lănh đạo chủ trương một thái độ vô cùng cực đoan. Sau khi chiến bại rồi, và nước nhà đă bị ngoại quốc thống trị, hay chủ quyền đă sứt mẻ, và vận mạng quốc gia không c̣n do ḿnh chủ động được nữa, nhiều nhà lănh đạo vẫn chủ trương bảo vệ cho đến kỳ cùng trạng thái điều ḥa của xă hội cũ. Đó là một công cuộc nhất định phải thất bại.
Bởi v́ các giá trị tiêu chuẩn của xă hội kết hợp thành một trạng thái điều ḥa, cũng có một đời sống như sinh vật. Nghĩa là giá trị tiêu chuẩn cũng sinh nở, phát triển, trưởng thành, suy đồi và chết. Như vậy trong trường hợp chiến bại, các giá trị tiêu chuẩn cổ truyền sẽ chết lần, v́ chủ quyền không phải người bản xứ trọn nắm, vận mạng quốc gia không phải họ chủ động, th́ các giá trị tiêu chuẩn cổ truyền một mặt không ai vun tưới, một mặt bị các giá trị ngoại lai, đang chiến thắng, tấn công ồ ạt và đả phá uy tín.
Như vậy, các sự kiện lịch sử, trong ṿng năm Thế Kỷ sau này, đă chứng minh rằng khi một nền văn minh bị một nền văn minh khác, chế ngự được những kỹ thuật tinh xảo hơn, tấn công, th́ con đường sống của nền văn minh bị tấn công, là mở cửa đón lấy các kỹ thuật của địch thủ.
Trường hợp Ấn Độ
Tuy nhiên, năm trăm năm là nhiều đối với đời sống của một người. Nhưng với đời sống của các quốc gia, năm trăm năm không phải là nhiều. Và chúng ta có thể tự hỏi rằng: Thái độ trên, đành rằng là thái độ lợi nhất mà các quốc gia bị tấn công phải lựa chọn, trong thời gian vài Thế Kỷ. Nhưng nếu thời gian dài hơn, liệu thái độ ấy có lợi cho quốc gia hơn thái độ cố gắng bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ không ? Chắc chắn rằng những người hành động không bao giờ nghi ngờ nữa. Câu hỏi trên tiêu biểu cho quan điểm của một Sử Gia.
Và trường hợp Ấn Độ là một trường hợp có thể đưa ra để làm hậu thuẫn cho thái độ cố gắng bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ. Sau thời gian thống trị của đế quốc, các giá trị tiêu huẩn cũ của Ấn Độ có vẻ, chẳng những c̣n đủ sinh lực để hấp dẫn quần chúng, lại c̣n có vẻ sáng chói ra khắp hoàn cầu, mang các Thần-Thể-Tính của văn minh Ấn Độ để đối chọi lại với tính cách kỹ thuật vật chất của văn minh Âu Mỹ.
Các nghi vấn nói trên, có thể giải đáp bằng các nhận xét dưới đây:
- Nếu năm trăm năm là một thời gian chưa đủ dài để chứng minh rằng thái độ tiếp đón các kỹ thuật ngoại lai là thích hợp nhất, chúng ta có thể t́m trong lịch sử, những thời đại có những biến cố như thời đại của chúng ta, và lấy phản ứng của các quốc gia lúc bấy giờ, làm tài liệu nghiên cứu để soi tỏ thêm vấn đề.
Trong lịch sử, thời đại đế quốc La Mă hưng thịnh và chinh phục các quốc gia trong cái thế giới được biết lúc bấy giờ, là một thời đại có nhiều biến cố có thể so sánh được với những biến cố của thời đại hiện nay. Cũng có một nước mạnh, thuộc một nền văn minh tiến bộ, đi chinh phục những nước kém về kỹ thuật, thuộc một nền văn minh đă suy nhược. Cũng có những quốc gia, nhất định không theo mới, và cuốn ḿnh lại, sống cô lập và chết ṃn để bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn truyền thống. Cũng có những quốc gia, mở cửa đón tiếp các kỹ thuật mới, và, thực hiện công cuộc Phát Triển Dân Tộc, để sống ăn nhịp với các cường quốc. Lịch sử là một bài học. Bài học của lịch sử Hy Lạp-La Mă mà chúng ta dẫn chứng đây lại xác nhận rằng thái độ của các nước tiếp nhận kỹ thuật của kẻ địch là đúng.
- Trường hợp của Ấn Độ là một trường hợp khác thường khiến cho chúng ta nhận định sai lầm về thực tế. Ông Gandhi là người đă chủ trương mạnh mẽ nhất thái độ bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ và triệt để bài xích văn minh Tây phương. ông cực đoan đến nỗi hô hào đồng bào của ông, không nên mặc áo bằng vải dệt ở các xưởng ở Anh Quốc hay dệt ở Ấn Độ, trong các xưởng của người Anh nhập cảng từ Anh Quốc, mà chỉ nên mặc bằng vải tự tay ḿnh dệt lấy.
Sức mạnh tinh thần của ông Gandhi rất phi thường và ông đă tỏ ra nh́n thấy vấn đề một cách sâu sắc, do đó ông đă khắc phục được sự trọng vọng của nhân loại. Và ngày nay, sự thất bại của ông bộc lộ rơ rệt ở chỗ các đệ tử trung thành của ông đang xây dựng cho Ấn Độ một bộ máy quốc gia theo kiểu Tây phương và các đồng bào của ông đang nỗ lực Tây Phương Hóa.
Những cuộc tranh đấu anh dũng và uy tín cá nhân sáng lạng của ông Gandhi, hợp với sự ca tụng, chính của người Tây phương, đối với Thần-Thể-Tính của triết lư Ấn Độ, cả, trước và sau, thời kỳ bị đế quốc thống trị, làm cho một số đông có cảm tưởng rằng thái độ bảo vệ các giá trị tiêu chuẩn cũ có thể thích hợp hơn thái độ đón tiếp các kỹ thuật mới của Tây phương. Và, văn minh Ấn Độ, xây dựng trên nền triết lư tôn trọng thần thể tính được xem như có thể đối phó một cách đắc thắng với nền văn minh thường được gọi là kỹ thuật và vật chất của Tây phương. Nhưng một cuộc phân tích tỉ mỉ và một sự đối chiếu với thực tế không xác nhận cảm tưởng trên.
Người Tây phương ca tụng Thần-Thể-Tính của triết lư Ấn Độ cũng như ca tụng bất cứ sáng tạo nào của nhân loại có một giá trị thật là cao cả. Và thái độ khách quan, khoa học, và t́m hiểu đó là một trong các bí quyết thành công của văn minh Tây phương. Cho nên sự ca tụng của người Tây phương đối với triết lư Ấn Độ không có nghĩa là triết lư của Tây phương khiếm khuyết Thần-Thể-Tính. Và sự kiện Thần-Thể-Tính của triết lư Ấn Độ đạt đến chỗ cao siêu và hấp dẫn lư trí thuần túy, lại không có nghĩa là triết lư Ấn Độ có thể thiết thực giải quyết các thực tế đời sống cho nhân loại, mục đích cuối cùng của mọi hệ thống triết lư.
Lư do của t́nh trạng đó ở chỗ, khi phải lựa chọn một trong hai quan điểm căn bản cho các hệ thống triết lư: Nhận sự sống hay là không nhận sự sống, th́ triết lư Ấn Độ đă chọn quan điểm không nhận sự sống. Theo quan điểm ấy, cho sự sống ở cuộc đời này là không có thực và nhân loại cần t́m và đạt cho được sự sống ở một nơi ngoài thế gian này, chúng ta không phán đoán xem quan điểm đó đúng hay là không đúng. Chúng ta chỉ nhận xét rằng, ngay lúc khởi điểm, quan điểm ấy đă tự mâu thuẫn với ḿnh bởi v́, sự sống của nhân loại, nghĩa là sự phát triển hay suy vong của các nền văn minh trên thế giới, cũng như sự sống hằng ngày của mỗi người, là một sự kiện mà không ai có thể phủ nhận được. T́m cách giải quyết các vấn đề đặt ra bởi sự sống, bằng cách phủ nhận sự sống th́ đương nhiên các vấn đề đặt ra bởi sự sống không c̣n nữa. Nhưng như thế th́ hóa ra không giải quyết ǵ cả.
Chính v́ chỗ đó mà triết lư Ấn Độ, mặc dù đă đạt đến một mức độ cao siêu mà ít khi tư tưởng của nhân loại đă với tới được lại không thể giải đáp được các vấn đề của nhân loại cũng như đă không giải đáp được các vấn đề của Dân Tộc Ấn.
Sau một thời gian biến hóa lâu dài, triết lư của Tây phương, ngày nay xây dựng trên căn bản thiết thực nhận sự sống, đă tẩy xuất được mâu thuẫn nguyên khởi giữa hệ thống tư tưởng và thực tế của đời sống, mà các triết lư không nhận sự sống đều mắc phải, nên đă thổi vào nền văn minh của Tây phương một sinh lực chưa từng thấy trong lịch sử của nhân loại Và chính sinh lực đó đă bảo đảm cho người Tây phương ưu thế mà họ vẫn giữ đến ngày nay. Các sự kiện trên càng rơ rệt hơn nữa, nếu chúng ta nhớ lại rằng, đă có một thời, triết lư Tây phương cũng đă lấy sự không nhận sự sống làm căn bản, và lúc bấy giờ nền văn minh của họ cũng đă trầm lặng thay v́ chói sáng và chinh phục như ngày hôm nay. Chỉ từ khi nền triết lư của Tây phương thoát khỏi sự tự kiềm hăm ḿnh trong một quan điểm trừu tượng của lư trí, để mạnh bạo đụng đầu vào thực tế của đời sống, th́ văn minh của Tây phương mới phát triển như chúng ta thấy ngày nay.
Nếu phải dùng một h́nh ảnh để cho lư luận được nhận thức dễ dàng hơn, th́ chúng ta có thể nói rằng triết lư của Tây phương đă có lúc, một ḿnh, lên đến và sống say mê trong không khí cao siêu của đỉnh núi thần thể tính. Nhưng triết lư đó lại đủ khách quan và can đảm để nhận thấy rằng nhiều vấn đề của nhân loại không giải quyết được từ trên đỉnh núi đó, và, nếu các vấn đề của nhân loại không giải quyết được th́ triết lư đă thất bại trong nhiệm vụ của ḿnh.
V́ vậy cho nên triết lư Tây phương đă mạnh bạo từ bỏ không khí cao siêu và thoát tục của đỉnh núi, vùi ḿnh xuống đống lầy của thực tế, sống với nhân loại để t́m cách giải quyết các vấn đề của sự sống. Triết lư của Tây phương đang thành công, và hiện nay nó đang cùng nhân loại leo lên triền của một ngọn núi khác. Nhưng mặc dù đang thành công, triết lư Tây phương lại đầy cái khiêm tốn của những người đă đụng chạm với thực tế và đang cố gắng đi lên.
Trái lại, triết lư của Ấn Độ vẫn c̣n say mê với không khí cao siêu và thoát tục của đỉnh núi thần thể tính, không rứt nổi ḿnh ra khỏi không khí trong và thoát khỏi đó, nên chưa ư thức rằng, từ trên đỉnh núi đó, các vấn đề mà đời sống đặt ra cho Dân Tộc Ấn không giải quyết được. Ngày nay, khi đụng đầu với triết lư Tây phương và mặc dù, hay, chính là v́, bị dồn vào thế yếu, triết lư Ấn Độ vẫn c̣n trù trừ, chưa cương quyết lội xuống bùn lầy của thực tế v́ sợ mất tính chất cao siêu và thoát tục của ḿnh. V́ tính chất cao siêu và thoát tục là lư do hănh diện của những người chưa có vật lộn với thực tế.
Nói một cách khác nữa, và dùng một h́nh ảnh thô sơ, th́ triết lư Tây phương có thái độ của các vị Bồ Tát và triết lư Ấn Độ có thái độ của người nhập Niết Bàn.
V́ những lư do trên đây mà, mặc dầu cái bề ngoài có vẻ trái ngược với luật chung, ngày nay xă hội Ấn Độ, cũng như xă hội của tất cả quốc gia đă bị đế quốc thống trị, cùng lâm vào một hoàn cảnh trầm trọng, như chúng ta thấy trên đây. Và các biện pháp mà các nhà lănh đạo Ấn Độ cần áp dụng cũng là những biện pháp cần thiết cho các quốc gia đồng hoàn cảnh. Và công cuộc Phát Triển Dân Tộc Ấn Độ mà chính phủ Nehru và chính phủ kế tiếp đang theo đuổi hàm một sự thú nhận rơ rệt rằng Ấn Độ mặc dù có Gandhi và mặc dù có một triết lư cổ truyền cao siêu, vẫn phải đương đầu với các vấn đề thiết thực và vật chất của các quốc gia chậm tiến.
|