Thơ tình của người lính VNCH viết từ chiến trường trước Tháng Năm 1975

 

Mường Giang

 

 

Cuộc chiến Việt Nam kéo dài gần ba mươi năm (1945-1975) nay xem như đã kết thúc nhưng đâu đó dường như vẫn còn những tiếng rên nghẹn ấm ức của những người lính già miền Nam thua trận đã may mắn được sống sót sau một cuộc đổi đời. Tất cả như một màn kịch có nhân vật, thời gian và địa điểm, được đạo diễn cho mở màn và kết thúc sân khấu một cách tài tình. Có điều màn kịch được các diễn viên hay nói đúng hơn đó là những người lính trận mà hầu hết đang ở cái tuổi “xuân thì đầy mộng mơ hoa bướm” ghi lại qua những “Tình Khúc” được viết từ mặt trận đang còn nghi ngút khói, bên xác của bạn lẫn thù, đã làm cho những người xem sửng sốt tới rơi lệ vì không mấy ai tin là sự thật.

 

băng đạn cuối chìm rơi khi qua sông

người lính mệt nhoài nằm ngủ

đầu dựa góc đa

hàng bình vôi trắng răng cười cợt

thép súng khô dầu bụi nước hoen

có phải hòa bình vừa nở một bông hoa

nở giữa tình yêu và tiếng hát…

(Thi Vũ tháng 1.1973 – Thơ Tình Của Người Lính)

 

 

Họ là lính nên ai cũng viết rất chân thật về tâm trạng của mình qua sự lo âu, thương xót, phẫn nộ, bi ai và chán đời trong lúc đang đối mặt với tử thần từng phút từng giây vì tình hình bất ổn tại hậu phương và cảnh chiến tranh loạn lạc hầu như khắp bốn vùng chiến thuật mà người lính trận nào cũng phải đặt chân tới. Tất cả đã trở thành những sự kiện có tính chất lịch sử qua những tiếng khóc thực dù không dám khóc to trước mặt bạn bè đồng đội. Mà dù có khóc to thì cũng chẳng để làm gì vì ai biểu chúng ta sinh ra làm trai hùng nước Việt?

 

em mắt nghìn thu xanh cỏ biếc

ta lên rừng thắm ngủ chiêm bao

vòng tay thần thánh xa biền biệt

ta gặp nhau mà vẫn nhớ nhau

*em nhớ ta hay ta nhớ em?

từng đêm lặn lội giữa bưng biền

ta qua Hậu Nghĩa ngày mưa xám

róc vỏ thân chàm ta viết tên

năm tuổi chiến trường xuôi vạn lý

núi sông biết mặt đứa phong trần

yêu em ta bổng thành thi sĩ

thơ lính hào hoa vỗ súng ngâm…

(Chiêm Bao – Tôn Nữ Kim Phượng)

 

 

Hậu Nghĩa

 

Đó là cái đỉnh cao của thơ văn do lính viết qua suốt cuộc chiến từ 1960-1975. Cho dù nay phần lớn những tác giả đã không còn nhưng kỷ niệm ngày xưa vẫn cứ ngổn ngang trong tâm trí mọi người, một phần bởi tiếng thơ đầy nước mắt tuy rất cởi mở và ấm áp tình người. Đó cũng là lý do xuân tết xưa nay luôn được thi nhân ưu ái trong thi ca nhưng với lính thì ngày nào cũng như mọi ngày, vất vả cơ cực tới cái mức không còn ai khổ hơn. Cho nên với họ lấy gì vui để mà Xuân hay Tết như người lính Vũ Hoàng qua bài thơ “Mưa Xuân Ngoài Biên Khu” viết tặng Lâm Hảo Dũng:

 

hãy uống cạn cho lòng vơi nỗi nhớ

rượu chất đầy: nón sắt bình đông

người lấy rượu đốt men xuân càng nồng

ta say khướt để quên đời dưới đó

 

dẫu là xuân hay hạ đông gì cũng thế

bởi quanh năm ta với rượu: đôi bạn già

(tiễn thằng bạn vừa mất ta nốc đầy cốc rượu

mừng kẻ nhập đàn ta lại cụng ly)…

 

bó gối trong căn hầm tránh đạn

chia nhau một cốc cà phê đen

hít dăm ba điếu quân tiếp vụ

ấy tết cô đơn của lính quèn

 

rừng vẫn viễn miên buồn ủ rũ

gục đầu tắm đạn pháo thương đau

chim rừng cũng bỏ đàn về núi

để mặc chinh nhân vạn cổ sầu…

(Xuân Chiến Địa – Phong Nhân Hoài)

 

 

Thân phận và hiện hữu là hai mộng ước mà người lính trận nào cũng canh cánh bên lòng. Vì vậy nó đã chắp cánh thành thơ đậu trên đầu súng, đầy ắp trong chiếc ba lô và chan chứa khắp mặt đất. Nhờ vậy mà người lính mới phần nào phôi pha cái ranh giới tử sinh trước mắt. Nỗi nhớ của người lính khác hẳn với những tình cảm thừa mứa nơi chốn hậu phương vì ở đây con người có nhiều thời gian để mà yêu hờn ghét giận như Thanh Tâm Tuyền đã viết “ôm em trong tay mà nhớ em những ngày sắp tới” hay cùng lắm thì “vất mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông mà lòng phơi trên kè đá.” Ngược lại người lính Trần Văn Sơn thì tự mình kể chuyện trong một đêm kích ở Dốc Đồn Đền làm cho những người một thời trong cuộc, đọc tới thấy thật là gần gũi thân thương và hối tiếc vì nó đã không còn:

 

Đêm nằm nghe vượn hú

ba lô, súng gối đầu

mắt mở trừng không ngủ

rừng tiếp rừng âm u

 

gió lòn qua kẽ lá

cuốn tròn trong ba lô

rét rừng cơn mệt lả

đồi tiếp đồi bao la

 

hay:

 

dẫu nước mắt mọi người có vỗ về hy vọng

ta vẫn cười khan nhìn bạn bè say

có phải không em dù mây vẫn cứ bay

và mai mốt ta có nằm yên trong lòng đất

em hãy giữ trong lòng những điều thành thật

ta đã cho em và chưa vội mang theo

giữa đời ta không phân biệt bạn thù

chuyện sinh tử là chuyện từng giây phút

(Khi Xa Bình Tuy)

 

 

Quốc lộ 23 - Bình Tuy

 

Phần lớn những bài thơ của lính là loại thơ “Tự Sự” được viết như những “tình khúc chiến trường” vì tự nó có đủ tầm vóc của môn thi ca chứa đựng các phần ngôn ngữ, nhạc điệu, cảm xúc và sự gợi cảm. Sự đồng điệu ngẫu hứng giữa thơ lính và những nhạc khúc được Nhật Trường Trần Thiện Thanh, Dũng Chinh Nguyễn văn Chính… sáng tạo trước Tháng Tư 1975, phải chăng đó là tâm cảnh của đời lính, nên ai cũng đều có sự suy nghĩ giống nhau cho dù xa cách muôn trùng. Nhưng yếu tố tạo nên sự đồng cảm đo , trước hết cũng là do tình yêu quê hương của mọi người. Có yêu nước thương dân mọi người mới hy sinh đời mình để chấp nhận tử sinh thua thiệt. Chân thành trong câu chuyện kể đã làm rung cảm một cách sâu sắc tới người đọc, nhất là những em gái hậu phương, vì yêu lính bằng lời, nên đã cất giữ những hình bóng cũ, nhờ vậy mà nó đã trở thành bất tử tới ngày nay, cho dù anh có hiên ngang hay đã trở thành tàn phế:

 

Rừng thưa dạt gió Hạ Lào

đêm nằm phục kích nhìn sao, nhớ nhà

tháng tư thương nụ hoa cà

hồn quê gởi ngọn mây xa cuối trời

(viết ở căn cứ Tiên Sa)

 

Phất phơ áo lụa trên cầu

nắng nghiêng cổ tháp ngả màu thời gian

gió xao sóng nước mênh mang

thương em, nhớ mẹ ngập tràn nhánh sông

(Chiều Qua Sông)

 

Ba mươi tuổi bóng tôi về hối hả

đàn em nhìn như người lạ quây quanh

chân khập khễnh đứng trên bờ đất lở

tuổi ngày xuân theo lá rụng tan tành…

(Trần Vạn Giả – Tình Cảnh Người Về)

 

 

Bạch Cư Dị là một trong những nhà thơ cổ Trung Hoa được nổi tiếng khi ông viết “Tỳ Bà Hành” kể lại số phận hẩm hiu của người ca kỹ về chiều trên bến Tầm Dương. Trong xã hội Miền Nam VN thời chinh chiến, số phận của người lính cũng thương đau chất chứa hằng hằng, cho dù là người đã chết hay bị thương tật tàn phế như Phế Binh Trần Quang Thiếu đã ghi lại trong bài thơ “Buổi Nhớ Núi”:

 

mới hôm nào dừng chân ven núi

bè có bè có đứa còn vui

anh có anh, chúng ta đời lính

còn lúc này tay nắm môi cười

 

đêm nằm ngủ cay hơi khói đạn

chân co tìm giấu mất chân xưa

ta bỏ quên bên ngoài biên trận

tặng cho rừng ướt lá thêm mưa

 

Buổi đến rừng cây cao nhớ núi

gió nhớ đời ta nhớ anh em

giờ một chân, tật nguyền đau dại

mưa móc người, ơn núi nghĩa sông

 

Đời ai mà không có bạn nhưng đậm đà thắm thiết hơn vẫn là tình lính sống chết có nhau, chính cái thâm giao huynh đệ chi binh đó, đã làm bén lửa trong hồn những con người mà ai cũng tưởng là chai đá nhưng thật sự có ai sướt mướt trữ tình bằng họ?

 

Chợt nhớ xuân nào trên chiến địa,

Tao mày hiu hắt đón xuân chơi

Một thằng lính bộ đời như bỏ

Một đứa nhảy dù cũng tả tơi…

 

 

Bốn câu thơ của người lính Phong Nhân Hoài viết cho bạn năm nào, đã làm cho người lính gia tha hương càng thêm trơ trọi, lạc lõng giữa tối ba mươi lạnh lẽo nơi chốn quê người… Trong quán khách bên đường, ta một mình sóng đôi với ngọn đèn hiu hắt, qua đêm lại một năm buồn. Rượu chưa nhắp mà môi dã muốn cay sè, ngoài trời con chim kỷ niệm vẫn như thiết tha giục giã dù khói lửa đã ngưng trên chiến địa, bạn bè cũng không còn quan hà cạn chén ly bôi, sau những tiếng tỳ bà nhặt khoan nức nở. Tan tác, chia xa,giờ đây chúng ta đang lang thang như mây chiều, sau những năm tháng đã dốc ngược đời mình cho quê hương.

 

Tội nghiệp đời trai chưa thỏa chí

sa trường dung ruổi đã phơi thây

đoàn quân hùng liệt nay về đất

hồn vẫn quanh co giẫm lối gầy

Chiều chiều đứng ngóng ngàn mây nổi

mà khóc quê hương khuất bến bờ

đêm hát vang lừng nơi chiến địa

mộng hoàng hôn khép giữa hư vô…

 

Thời gian trôi đi tưởng có thể làm vơi phần nào nỗi đau của thân phận nhưng ai có thể làm ngơ khi được đọc qua những lời thơ viết của Trần Dzạ Lữ, của Tô Thùy Yên, của Trần Đức Uyển… những người lính được sống sót sau chiến trận, đã gởi vào gió đất những tiếng thầm thì, để cố níu lại thời gian để mình được sóng với đồng đội vừa gục ngã:

 

giặc đánh lớn, mùa mưa đã tới

mùa mưa như một trận mưa liền

châu thổ mang mang trời sát nước

hồn chừng hiu hắt nỗi không tên

tiếp tế khó, đôi lần phải lục

trên người bạn gục đạn mười viên

di tản khó, sâu dòi lúc nhúc

trong vết thương người bạn nín rên

người chết mấy ngày chưa lấy xác

thây sình, mặt nát lạch mương tanh…

(Qua Sông)

 

bốn năm thằng lơ láo

áo quần rách tả tơi

ăn cơm bên xác người

tay bốc tay cầm súng

lòng nhớ mẹ phương tây

ý thương em chạy giặc

xóm làng sầu khôn khuây

ăn xong múc nước ruộng

uống đại cho qua ngày

quê nhà em có biết

chinh chiến thân lưu đày

 

ăn được là điều may

có khi hai ba ngày

không ăn chẳng có uống

ta nằm với cỏ cây…

(Trần Dzạ Lữ – Bữa Cơm Ngoài Chiến Trường)

 

Tự hỏi về đâu, đâu chả được?

hãy tìm bên suối ngủ đêm nay

gối đầu lên đá nhìn trăng sáng

rừng núi sương mù ướt chẳng hay…

(Trần Đức Uyển – Buổi Chiều Ngồi Trên Đá)

 

 

Cuộc chiến đã khuất dần trong quá khứ hơn một phần tư thế kỷ nhưng dư âm của nó vẫn còn phảng phất khắp nơi nơi, in đậm trên từng khuông mặt héo gầy của những chàng trai Việt một thời ngang dọc, đã bỏ lại chiến trường một phần cơ thể của mẹ ban cho. Nhưng xương máu của chúng ta tới nay cũng vẫn là những đóng góp cao quý trong công cuộc ngăn chống giặc thù bảo vệ quê hương miền Nam suốt hai mươi năm chinh chiến.

 

Trên non năm bảy thằng tuổi trẻ

buổi chiều thu uống rượu không cười

ôi người tuổi trẻ sầu trong mắt

đêm trong rừng mộng gởi quê xa

 

quê xa ta có em và mẹ

nhớ ao bèo xanh bông tím thiết tha

nhớ người con gái bên hàng xóm

chiều thả thuyền vớt mộng nở hoa.

(Vũ Hữu Đinh viết cho Trần Dzạ Lữ)

 

Trên đường mênh mang đi tìm đồng đội cũ khắp miền yêu thương trong ký ức, qua hàng ngàn bài thơ được viết từ chiến trường lửa đạn, nơi chòi canh đồn vắng, trong giao thông hào hay nơi quán lẽ bên đường những lúc người lính tạm dừng chân. Cao Thoại Châu một người lính trẻ, hồi tưởng lại thời gian theo học tại Trường Bộ Binh Thủ Đức với tâm trạng thương nhớ em nên chỉ muôn cho mau tới kỳ đi phép hay mãn khóa để chúng mình lại tương ngộ:

 

thứ hai này nhớ em buồn vỡ mắt

ước làm chim bay qua cổng quân trường

qua cánh đồng có lúa mạ xanh non

những mái nhà đỏ tươi ngói mới

muốn bay lên từ tối tăm hiện tại

phải qua cổng nào em chọn cho anh?

ký ức anh phai mờ như bụi đóng

áo ngả màu ba lô mũ sắt

và giấc ngủ vẫn rình trên mắt

và tương lai như một góc phòng

mà bóng đêm đã lấp dần ánh sáng

như tận cùng ước muốn đời ta

(Cao Thoại Châu viết trong cánh cửa quân trường)

 

 

Đời lính gian lao cực khổ nên đâu sá gì chuyện đổi thay của trời đất. Nhưng thật tình mà nói mỗi khi tới mùa mưa làm nhớ không chịu được, dù là mưa bụi lất phất từng hạt nhẹ hay những cơn mưa đầm đìa nước mắt rơi lộp độp trên nón sắt hay những tấm poncho. Bởi vì mỗi mùa mưa là những mùa kỷ niệm buồn vui của tuổi học trò.

 

Thời tao loạn, mấy đứa con trai tới tuổi lớn đã không còn được cắp sách đến trường, đã xa rồi một cuộc tình thương nhớ. Năm 1966, từ chiến trường Bùi Khiết đã viết gửi về em những niềm thương nhớ:

 

Vào đêm em ngủ chưa em?

Trong mơ có gặp ưu phiền nhiều không?

Đèn xanh thành phố xa trông

Hoang vu anh đứng mà lòng chiêm bao

Mưa rừng tiếng lá xôn xao

Tay ôm súng lạnh buồn sao là buồn…

(Thơ Bùi Khiết viết trong Đêm Mưa Hành Quân 1966)

 

 

Nhận được tin con đầy tháng, Vũ Trọng Quang người lính Sư Đoàn 2 Bộ Binh rất vui nhưng rồi buồn vì đang hành quân đâu có phép để về thăm con vợ. Cùng một tâm trạng, Tô Nhược Châu cũng viết những lời thơ rất nồng nàn trìu mến gửi lại cho vợ con trước giờ hành quân:

 

Hay tin con đầu vừa tròn một tháng

vui thì vui nhưng lòng cũng thật buồn

vui vì con hiện hữu trên đời sống

buồn bởi ta không được phép về thăm

 

Ta còn phải lội vượt sông trèo núi

đường vào Ba Gia trăm nẻo hiểm nguy

sáng pháo Sa Huỳnh lửa chiều Mộ Đức

đêm nằm Trà Bồng xôi đậu phân ly…

(Đầy Tháng Con – 1973)

 

Hãy ngủ ngoan đừng kinh hoàng nghe con

dù đêm nay thật nhiều súng nổ

hãy ngủ yên đừng đợi chờ nghe em

dù đêm nay anh đi ra trận

dù đêm nay anh đi không về…

(Tô Nhược Châu – Lời dặn vợ con trước giờ hành quân)

 

Buồn quá đời lính thú đã kéo chúng ta ra khỏi cuộc gối chăn, tất cả những con đường ngắn dài của tuổi thơ đã trở thành những nẻo đường trong trí nhớ nên chỉ còn biết vui với rừng sâu mưa núi qua cuộc rượu những lúc dừng chân bên quốc lộ đêm nhớ ngày mong:

 

rượu pha xá xị đầy nón sắt

dăm thằng chuyền nhau uống

vòng vòng đuổi bắt nhau như ngày với tháng

như khoanh tròn tựa một số không

(Lính Thú – 1973)

 

 

Đà Lạt mù sương với những đồi thông và muôn ngàn cỏ hoa nõn nưởng khoe hương sắc, Ban Mê Thuột, PleiKu, Kon Tum cát bụi mịt mù, những địa danh đến và đi của người lính biên trấn Quân Khu II một thời oanh liệt, những chiến sĩ Lôi Hổ, Biệt Động Quân, Nhảy Dù, Sư Đoàn 22 và 23 Bộ Binh một thời vẫy vùng ngang dọc, đã được người lính Vũ Hữu Định ghi lại qua nhiều tình khúc rất nồng nàn. Tiếc thay Anh đã qua đời quá sớm vào năm 1980 khi mới có 34 tuổi (1980-1946):

 

phố núi cao phố núi đầy sương

phố núi cây xanh trời thấp thật buồn

anh khách lạ đi lên đi xuống

may mà có em đời còn dễ thương

 

em Pleiku má đỏ môi hồng

ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông

nên mắt em ướt và tóc em ướt

da em mềm như mây chiều trông

 

xin cám ơn thành phố có em

xin cám ơn một mái tóc mềm

mai xa lắc trên đường biên giới

còn một chut1 gì để nhớ để quên…

(Còn Một Chút Gì Để Nhớ)

 

cũng có khi nào anh trở lại

phố xưa đường cũ mùa mưa bay

mưa như gió ướt nên lòng lạnh

gió thổi sầu sương đậu tóc bay

 

phố không đèn điện con đường lặng

những ánh đèn cây sáng chập chờn

anh gặp em ngồi đang rẽ tóc

mái tóc dài xanh những ngón tay

 

và anh yêu lấy sầu chẳng nói

mình anh ở lại quán mù mù

tưởng bao năm trước ta là bạn

chỉ nhìn nhau mà cảm được nhau.

(Cũng Có Khi Nào)

 

 

Thật là cảm động biết bao những người lính sau cuộc chiến may mắn được sống sót, ngồi hồi tưởng lại những đêm say cùng bạn trong “Quán Cô Hồn” với bữa tiệc nơi quán xếp bằng xị rượu nồng, miếng khô nai cứng ngắc nhai trong miệng mà ta cứ tưởng như đang nhai cả cuộc đời lận đận đắng cay của kiếp lính, cho nên uống vào như ta uống cả niềm đau sầu cháy long đong. Buồn quá đỗi lại càng buồn thêm khi chạnh nhìn cô quán trẻ vừa mới làm quả phụ khi cuộc tình chưa quá một mùa Đông. Sau đó bạn ra đi và đã gãy cánh tại Kon Tum năm 1974, được Tiếp Sĩ Trường một phi công ở Phi Đoàn 218 ghi lại qua bài thơ “Nửa Mảnh Phi Bào” khóc bạn cố Trung Úy Nguyễn Văn Phú:

 

cởi mảnh phi bào anh để lại

trao về quê mẹ một trời xuân

mai đây nếu có ai thương tiếc

xin đốt cho người một nén hương

 

ngày xưa anh đứng bên song cửa

nhìn áng mây trời ngó cánh bay

giờ đây mây trắng anh xây mộng

lại biến vành tan buổi sum vầy…

(Nửa Mảnh Phi Bào)

 

Kontum - 1969

 

 

 

Lính là thế đó, buồn nhiều vui ít, với một chút nhen nhúm tình cờ bắt gặp, trên các nẻo đường hành quân vô định, qua dăm ba ngày Tết dưỡng quân hay canh giặc chốn tiền đồn, lẻ loi ngoài quan tái. Ai đã từng là lính, mới cảm thông cho lính, sống thật cô đơn lếch thếch và chết cũng rất hiu hắt ngậm ngùi. Thời gian và không gian đời lính cũng chẳng qua chỉ là một cái mốc vô tình để biết ta hiện hữu. Nhưng thôi tiếc làm gì ai biểu ta sinh ra làm trai hùng đất Việt ? nên phải chấp nhận kiếp lính “ôm yên gối trống đã chồn, nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh” để rồi thui thủi “đêm từng đêm ngó mông lung, vỗ bờ kiếm thép hát rừng mà nghe.” Nỗi buồn của lính đã được Yên Bằng viết trong một bức thư gửi về cho người vợ lính của Sư Đoàn 21 Bộ Binh, đọc sao mà thảm thiết quá:

 

Nghe ta chết ở một nơi nào trong rừng U Minh

em rót rượu uống mừng nhau nhé

hỡi người vợ lính Sư Đoàn 21 Bộ Binh

có nhìn thấy mặt trời mỗi khi lặn khuất

là cuộc tình ta đó

trên tháng ngày chờ ôm tấm mộ bia

nên mỗi sáng ngồi uống chum cà phê

ta bổng thấy tim hồng rớm máu

 

Em hãy nhận giùm ta tấm thẻ bài

ở đó có số quân cùng loại máu

vì máu ta đã chảy

trong khu rừng vàng úa cỏ vô tâm

chẳng biết rằng khi chết có vui không?

nhưng chắc hẳn em buồn quá đỗi

vì ở Đầm Dơi có nhiều chuyện lạ

người chôn người như thể thù nhau…

là nỗi đau thương của người vợ lính…

 

quyển sổ dầy mở rộng

tôi ghi gì nữa đây?

từng đốt tay tê cóng

máu trong tim đã đầy…

 

Với lính thì tết nào cũng tết tha hương, xuân nào cũng xuân lữ thứ. Đêm trừ tịch giữa tối ba mươi, cái khoảnh khắc năm cũ sắp tàn, khi mà mọi nhà chặt then kín cửa, để sửa soạn đón giao thừa, trong niềm hạnh phúc của gia đình, thì lính cũng đón chào năm mới trong chiếc hầm trốn đạn hay mái chòi canh giặc đen tối lạnh lùng. Nhớ từ đâu bổng kéo tới, vây kín cái không gian nhỏ hẹp. Chu Trầm Nguyên Minh, tác giả của “Cuộc Tình Người 1969” cũng là một người lính trẻ, viết thư gởi về cho người yêu trong một phiên gác đêm:

 

Súng kê giấc ngủ mơ hồ

đêm nghe tiếng nhảy ngựa thồ đổi phiên

xin cho em ý ngoan hiền

biển sương rơi đọng trên miền dung thân

anh nhìn anh những phân vân

đời trai giờ chỉ có ngần ấy sao?

(Chu Trầm Nguyên Minh viết trong Phiên Gác Đêm tại đồi 182)

 

Vĩnh Long - 1967

 

 

Ngoài trời mưa xuân đến sớm nhưng sao buốt lạnh quá chừng, khiến cho ta thêm buồn rầu trong bóng tối một tết tha hương. Dường như có ai đang hát ru Những Tình Khúc Chiến Trường giúp ta nhắp một chút men nồng để thấy lại ngày xưa, để ta dìu ta trở về trong kỷ niệm buồn vui của đời lính với những tết không bao giờ quên được dù nay bạn bè người còn kẻ mất, trong đó có rất nhiều anh em đã gục chết ngay giữa tuổi thanh xuân mộng thắm tràn đầy.

 

Giữa đồi sương và gió

Tình cờ ta ghé qua

Ngu ngơ nhìn ngọn cỏ

Quanh mộ đời phôi pha

 

Giun dế đọc giùm ta.

Tên một loài dễ vỡ

Chim một bầy gọi nhỏ

Tên một loài hư vô

 

Người ôm bờ huyệt lạnh

Ngủ cùng đất ngàn năm

Ta ôm đời lẽ bạn

Mang mang sầu quanh quanh…

(Chinh Yên một chiều viếng mộ bạn)

 

 

Ngày đầu tiên về đơn vị cũng là ngày cuối năm, nên khi xe lửa tới Đà Lạt, cũng là lúc thiên hạ đang rộn rịp đón giao thừa. Cao nguyên Lâm Viên mùa Tết, nên trời rét căm căm. Chúng tôi tất cả là dân miền biển và miền Nam, nên chịu không thấu với cái lạnh miền núi, cắÔt da tím thịt, trong bộ đồ trận mỏng manh, qua đêm đầu tiên tại nhà vãng lai của Tiểu Khu Tuyên Đức. Viết sao cho hết nỗi buồn rầu của bọn lính xa nhà trong đêm Tết? Dù đêm Xuân Đà Lạt thật tuyệt vời, khiến ta cứ ngỡ như mình đang lạc lối đào nguyên, giữa hoa và người đẹp, cả hai sắc hương đường như cùng với mây trời ngạt ngào trong sương giá. Đà Lạt đêm xuân thú vui không kể xiết, khắp phường phố thiên hạ quần áo là lượt hạnh phúc, gắn bó từng cặp, từng đôi trong muôn màu đam mê rực rỡ nhưng với bọn lính mới đầu đời, Đà Lạt lại vô tình hờ hững.

 

Xin chào mi, hỡi núi rừng Trung Việt

Ta đã qua và ta đã dừng chân

Ta đã nhiều đêm giấc ngủ chập chờn

Những tối trăng sao không buồn ló dạng

Những tối nghe mưa lòng buồn vô hạn

Những hạt mưa như nước mắt mẹ già

Những hạt mưa lạnh buốt cõi hồn ta

(Hạ Đình Thao giã từ)

 

Không dưng mà lạnh thật đầy

với hồn thương tích với thây ma người

chiều lên ôm súng nhìn trời

bâng quơ ngó xuống cuộc đời buồn tênh

rượu đâu mà uống cho quên

người đâu mà họp đủ phiên chợ nghèo

lá rừng ai đốt đen thui

chim về ngơ ngẩn ngày vui năm nào

hỡi em tình thoảng chiêm bao

giờ không khí đó đã vào cổ sơ

(Giang Hữu Tuyền viết ở biên giới Việt Miên)

 

 

Bởi vậy cả bọn đều mong mau sáng, để sớm trả lại cái thiên đường hạnh phúc mà trời trót dành cho những giai nhân tài tử. Rồi thì chia tay, dăm đứa gọi là kém may mắn khi về TD 3/43 gần mặt trời. số còn lại bổ sung cho TD 1 và 2/43. Một cuộc hành quân mở ra vào ngày mùng ba tết nguyên đán, mục đich khai thông quốc lộ 12, đưa lính mới và quân trang quân dụng bổ sung cho hai đơn vị tại Bình Thuận. Nhờ vậy mới có dịp hưởng được một cái tết núi rừng vui nhộn với người Koho, quanh bếp lửa hồng.

 

Những chiều Trường Sơn gió cao, gió nhớ

Sao người không về theo gió chiều nay

Cho em tình ấm vui hồn nhỏ

Đợi chờ nhiều, em giận cả mây bay

Những chiều buồn đường lên dốc thẳng

Em ngỡ chừng đang về cửa trời cao

Mây đệm trắng êm đềm thân thể mới

thông rừng xanh gọi gió nhớ lao xao

Thôi Anh rượu đắng thôi đừng rót

Sương khuya chùng lạnh xuống vai em

Như đời băng giá trong đáy cốc

Người đi làm rượu đổ nghiêng nghiêng

 

(Nẻo Cao – thơ Hoàng thị Bích Ni)

 

 

Núi Tà Đôn, Bình Thuận 1969

 

 

Được vui Tết với người Koho là một thích thú tột cùng. Ở đây hoa nhiều không đếm hết nhưng cũng không có hoa gì đẹp hơn hoa mai làm đêm thêm ngát, làm cho lính đã ngây ngất bên ché rượu cần, lại càng ngẩn ngơ hóa bướm vì tiếng hát ngây thơ hồn nhiên của các cô gái vùng cao,khiến cho mấy chục năm qua rồi, mà trong hồn mỗi lần chợt nhớ, như muốn khựng vì mùi chua của rượu cần và mùi hương của núi rừng Tây Bắc. Sáng tới lính lại lên đường, không được như người Koho, sung sướng tiếp tục cuộc vui Tết quanh các gia đình, cho đến hết tháng giêng mới chấm dứt khi cả buôn không còn rượu và thịt:

 

Ớ chàng trai lính ơi,

đùng quên đêm nay bên vũ điệu Lam Tơi,

đôi ta tình cờ quen nhau ngắn ngủi,

nhưng em nguyện chờ chàng trở về…

 

Mai mốt em về em về đâu?

Con sông nước chảy trắng chân cầu

Tiếng hát già nua người bạn cũ

Đêm dài muôn thuở buộc lòng nhau

Ngoài kia buồn buồn không em?

Xa hỡi ngàn xa bóng nhạn chìm

Thương ai ái ngại tìm đôi mắt

Chưa biết đêm nào thức trắng đêm…

(Cõi Nghìn Trùng – Hoàng Trúc Ly)

 

Đón giao thừa một phiên gác đêm

chào xuân đến súng xa vang rền

Xác hoa tàn rơi trên bán súng..

ngỡ pháo tung bay, ngỡ tóc em vương…

 

Bài hát cũ của nhạc sĩ Nguyễn văn Đông, mấy chục năm về trước, nay sao vẫn nhớ như niềm nhớ về một cái tết xa xưa rất tình cờ với đồng bào Thái Trắng, khi tiểu đoàn nằm tiền đồn, giữ an ninh ngoài vòng đai Tùng Nghĩa.

 

Buổi cà phê cuối cùng

Thôi rời trường Thủ Đức

ta lên đường lên đường

tiếng ca buồn ở lại

 

Bốn đứa nhìn bàn ăn

đĩa thịt bò kỷ niệm

những bãi nắng khô cằn

bước chân buồn xa lạ

 

Chung quanh anh toàn là dây cháy chậm

ô vuông bản đồ sao toàn màu rừng man thiên

nhìn một bận bóng thiết tha nhòa bóng tối

anh giật mình kinh rạch nhện đan luôn

 

Anh trằn trọc từng nằm đêm nhẩm từng tọa độ địch

màu bút chì xanh đỏ đứng nghênh nhau

nghe một thoáng tên em nhòa tiếng súng

anh đứng nhìn hoa lửa cháy trăng sao

(Thư gởi người phương cũ của Hoàng Yên Trang cũng là Trần Như Liên Phượng tử trận tại Chương Thiện năm 1965 mới 29 tuổi)

 

“Chốn biên thùy này xuân tới chi, tình lính chiến khác chi bao người,” nên đêm tiền đồn được vui ké với bản làng một cái tết vui nhộn từ đầu thôn tới cuối ấp, nơi nào cũng vang vang tiếng pháo, khiến người lính trẻ xa nhà chạnh lòng để rơi nước mắt, khi nhớ về những ngày xuân cũ, nhớ màu hoa cúc hoa mai, tết đến nở tròn như mắt môi em một thời tuổi học “tay anh ghì nhẹ trên báng súng, cứ ngỡ cùng em sóng bước xuân.”

 

Dưới chân đồi Xích Thổ này có con sông

Con sông có cây cầu bắc qua

Bên này là vườn táo là nghĩa địa là ruộng hoang

Là lô cốt là hầm chông là bãi mìn

Buổi sáng anh ở nơi đây

Đu đưa lời tình bên khóm táo

Với bầy te te với tiếng gió sang mùa

Anh phải ngủ thật hiều vào ban ngày

Để đêm từng đêm ngồi ôm súng gác

Anh phải cười nơi đây thật to

Để khỏi nghe tiếng súng

Mỗi khi đài quân đội đưa lời ‘em yêu lính’

Anh phải văng tục nơi đây cho đã

Vì thiếu bóng đàn bà suốt tháng…

(Huỳnh Hữu Võ viết nơi đồn trú dưới chân Đồi Xích Thổ)

 

 

Đâu đâu cũng là chiến trường, nơi nào cũng chết chóc đau thương kể cả những ngày Tết đến. Bởi vậy chỉ mong gặp nhau một lần thôi để lòng bớt vấn vương thương cảm, rồi thì cứ phó mặc cho số phận đẩy đưa bởi chiến trận đâu phải là trò đùa:

 

…sau những đợt xung phong ào thác lũ

còn lại gì vườn trống cạnh nhà hoang

và hoa cỏ im lìm nghe đón gió

bầy gà con vừa lạc mẹ kêu đàn

 

trên sân nắng nhiều quân thù phơi xác

thanh AK Tiệp Khắc lỏng tay gầy

ngoài bờ lúa nhiều anh em nhắm mắt

vuông đất hồng làm gối lạnh từ đây

 

khi tôi đến quê xa chìm tiếng hát

chiều hành quân vai nặng túi cơm rời

để nép bóng tòa bin đinh cao ngất

trên đường về nghe đắng mặn đầy vơi…

(Sau Chiến Trận – Ý Yên)

 

Chiến tranh tàn nhẫn, oan nghiệt khiến suốt đời lính không quên được hình ảnh chết chóc của những người dân lành vô tội, giữa nhang đèn bánh mứt… chờ đón xuân về.

 

thằng Vũ chết rồi trong trận Pleime đó em

khủng khiếp và khốc liệt

những lần về phép sau này em ra cửa đón anh

sẽ không bao giờ thấy nó

nó chết rồi

nó chết cho quê hương đó…

(Phan Huy Mộng – Người chết ở Pleime)

 

 

Pleime - 23/10/1965

 

 

Cố nhân xa rồi nên đâu còn ai thương nhớ ai, khiến cho người lính trận thêm cô đơn lạc lõng nơi chốn thị thành khi nhớ lại những ngày còn tóc bồng còm em mười sáu thơ ngây, để ngày ra đi người lính trẻ chỉ còn có môi em gói lại làm hồn nhớ bâng khuâng:

 

mai ta trở về với núi cao

có mây xanh ngắt lá reo sầu

đêm chờ đạn nổ ngày tạp dịch

ta còn lúc nào để nhớ thu

 

mai ta trở về cùng khói núi

tình mình còn chăng sợi khói bay

nhớ thu ta đứng trên triền dốc

mà lối đi về mây xám bay

 

đã lỡ một đời thân lính thú

còn mơ ước gì chuyện tương lai

tuổi trẻ cháy dần trong khói súng

ta lấy đời mình đánh cuộc chơi…

(Vũ Hoàng – Với Thu Như Một Giã Từ)

 

Một thời đại chinh chiến bao lớp người nối tiếp ra đi vì nước non nên chỉ biết giã từ tất cả mà Hoàng Trọng đã gom lại để viết thành một ca khúc rất nổi tiếng ngay từ năm 1962:

 

biết đến bao giờ gặp lại người em thời thơ ấu

để báo tin rằng cuộc đời từ nay đã khác xưa

một phút gần nhau rồi tình mãi mãi lìa xa

quà nghèo chỉ có lời ca

tặng nàng trước khi từ giã

(Giã Từ)

 

Em yêu hãy hôn anh một lần trước khi anh đi lính

giữa thời đại chiến tranh cái gì cũng vội vã hết

phải không em

nhưng nhớ hôn anh một lần này thôi

vì không chừng anh sẽ ra đi

hoặc trong mười năm mười lăm năm

hay vĩnh viễn

bây giờ anh còn tay bây giờ anh còn chân

bây giờ anh còn mắt

bây giơ anh chưa đui mù

chưa câm điếc chưa què quặt

nhưng biết mai anh còn đủ không

và cả trái tim anh nữa

biết còn rung động hay im lìm ngừng đập

nhiều lúc anh tự hỏi chiến tranh để làm gì?

(Trần Uyên Phương – Trước Khi Đi Lính)

 

tao để tiểu đoàn 6 cho mày

trạm cứu thương

có thằng Khiên mù

có thằng Nhu ngọng

tao để Vũng Tàu lại cho mày

bãi trước bãi sau

gió biển ngây ngây mùi gái

hỡi thằng Y Sĩ Dù bé nhỏ của chúng tao ơi

đi chưa bao giờ biết mệt

chiến đấu chưa bao giờ biết nằm

Đêm Gio Linh xác địch chất bên miệng hầm

Chiều Cao Lãnh đạn ghìm sâu vào gối

và Dakto mãnh sướt bờ vai

để một sớm mai buồn chúng tao thức dậy

lặng người đau đớn

nghe tin mày hy sinh…

(Trang Châu – Một Bài Thơ Cho Tuấn)

 

 

Gio Linh

 

 

Hình như giao thừa sắp đến, trong mông mênh cùng tận, như những năm nao, tôi lại âm thầm lâm râm cầu nguyện cho mẹ già, em gái, cho ngươi yêu cũ, bạn bè, đồng đội, đồng bào… được may mắn an bình trong buổi hỗn mang dâu bể… Kỷ niệm xưa từng mảng lại trôi bềnh bồng trên mắt, lén lút đẫn dắt hồn người lính trẻ về thuở hoa niên, khi những cánh hoa phượng đỏ ối nối hàng, dọc theo con đường Nguyễn Hoàng dẫn vào lớp học, đã bắt đầu rụng rơi lả tả giữa các trang lưu bút, trên từng rèm mắt ô môi, cũng là lúc bọn học trò nghỉ hè làm gã giang hồ lãng tử, trên những chuyến tàu hỏa chui Phan Thiết-Sài Gòn rồi Sài Gòn-Phan Thiết, đi hoài vẫn không thấy chán. Nhưng em đã đi rồi từ khi tôi vào lính:

 

năm năm rồi không gặp

từ khi em lấy chồng

anh dặm trường mê mải

đời chia hai nhánh sông

 

phong thư tình ngây dại

đường xưa quen lối về

trong mịt mùng gió cuốn

nghe nhạt nhòa mưa qua

 

ngày nhà em pháo nổ

anh cuộn mình trong chăn

như con sâu làm tổ

trong trái vải cô đơn

 

năm năm rồi ly biệt

một màu tang ngút trời

chúa buồn trên thánh giá

nằm chơ vơ gác chuông…

(năm năm rồi không gặp của Phạm Văn Bình)

 

Rồi những ngày dài chinh chiến, định mệnh lại đẩy đưa đời lính về chốn cũ Long Khánh-Bình Tuy-Phan Thiết. Tuy tàu hỏa đã bị gián đoạn nhưng suốt con đường sắt từ Mường Mán về Gia Ray, con đường mòn Võ Xu tới Suói Kiết, kể cả những suối rạch, bãi đá ven sông La Ngà, đều là những lối lại qua quen thuộc, đã cùng tôi chắt chiu suốt đoan đường tuổi trẻ. Làm sao quên được những ngày dừng quân ở Văn Phong, Mường Mán? ngày ngày ngồi ngâm nga tách cà phê đen ngon tuyệt nơi quán lẽ ven sông, ngó nhìn các chuyền tàu xuôi ngược.

 

quê cũ mười năm mây lớp lớp

mười năm mưa khóc buổi sang mùa

dưới trời sương lạnh rơi tan tác

rét mùa đông cũ rét lê thê

 

đường tôi đi có bom và đạn

có hận thù trên mỗi dấu chân

ai thả vào hồn tôi mới lớn

những mùa xương máu ngập tang thương…

(Đi Giữa Chiến Tranh – Phạm Cao Hoàng)

 

 

Phan Thiết

 

Những người tuổi trẻ như chúng ta một thời chinh chiến đã lần lượt rủ nhau đi trong lửa đạn, làm kiếp lang thang mây chiều, cũng vì ai mà xương máu ngất núi trên quê hương hận thù. Tan tác, chia ly kẻ còn người mất, kỷ niệm chỉ còn vương lại một hớp rượu cay mà ta cố giữ lại trên đầu lưỡi.

 

Hồn ta nay đã mất, có còn chăng là dư ảnh của ngày xưa, của đồng đội bạn bè… như những giọt nước mắt cứ chảy dài của những người góa phụ trẻ mà Lê Xuân Hảo đã viết cho chồng là cố Thiếu Tá Pháo Binh VNCH Nguyễn Tấn Hưng thuộc Tiểu Đoàn 155 ly Pháo Binh, đã mất tích tại Kon Tum vào mùa hè đỏ lửa 1972:

 

Ngày anh lên thiếu tá

với chữ cố đứng đầu

em trở thành góa phụ

trầm mình trong vực sâu

 

ngày anh lên thiếu tá

sao chẳng có rượu nồng?

ngoài năm vành khăn trắng

nay dật dờ cô đơn

(Ngày Vinh Thăng của Anh)

 

25 tuổi đầu, tôi làm góa phụ

bốn đứa con thơ tỉnh yêu chưa tròn

10 năm chiến chinh vai đời pháo thủ

chồng tôi bây giờ nằm xuống cô đơn

 

25 tuổi đầu tôi làm góa phụ

má đỏ môi hồng còn gì nữa đâu

thu đến đông sang xuân qua hè lại

màu trắng khăn sô: tôi chít trên đầu

(Góa Phụ 25)

 

 

Kontum

 

Trong số phát hành vào ngày Chủ Nhật, 28 Tháng Tám năm 1994, nữ ký giả Lily Le Diron của tờ Los Angeles Times đã đăng bài “A Viet Nam Odyssey” được Lê Xuân Hảo dịch ra tiếng Việt “Đi tìm cha tôi: một cuộc hành trình vô vọng.” Đây là một câu chuyện có thật do cô Nguyễn Tấn Băng Phương, tức là nữ ký giả trên, ghi lại cuộc hành trình đi tìm xác người cha đã mất tích từ năm1972 trong cuộc chiến “Mùa Hè Đỏ Lửa.” Ông là Cố Thiếu Tá PB/VNCH Nguyễn Tấn Hưng mà vợ là Lê Xuân Hảo đã nhắc tới trong bài thơ “Ngày anh vinh thăng cố thiếu tá và tôi là góa phụ,” đã được Phó Tổng Thống VNCH Trần Văn Hương trao tặng giải nhất trong cuộc thi thơ năm 1973.

 

Gọi là cuộc hành trình vô vọng dù cô Băng Phương đã ròng rã suốt hai tháng trường, đi khắp lãnh thổ Miền Nam, từ Nghĩa Trang Quân Đội tai Biên Hòa ra tới miền Bắc, lên tận Pleiku, Kon Tum… nhưng tin tức của người cha yêu dấu vẫn biền biệt phương ngàn. Thật là cảm động biết bao về tấm lòng hiếu thảo của một người con chí hiếu, xin chân thành dâng lên một nén hương lòng lên các anh: Những người lính oai hùng của VNCH một thời lửa đạn, người có tên, người còn mồ hay người đã biệt tích. Tất cả đều xứng đáng được hậu thế tôn vinh, sử xanh ghi công rạng rỡ:

 

mai về nẻo ấy chiều sương khói

ta biết tìm đâu bước bạn hiền

vượt thác Mé Kông qua cầu khỉ

Paské héo hắt bóng trăng đơn

 

mai về quê mẹ qua biên giới

thăm lại Trường Sơn thuở kiếm cung

rừng núi vẫn xanh màu khát vọng

chỉ ta hờn tủi kiếp tha hương

(Phong Nhân Hoài – Thì Thôi Hãy Khóc Để Quên Đời 1972)

 

Có ai còn nhớ lối xưa để tìm về mà có tìm chăng nữa thì cũng chỉ thấy những thành mộ chí hoang vu, cỏ lau xưa hiu quạnh, khiến cho những người lính già cứ ngẩn ngơ hóa bướm dù bàn tay vẫn ấp trên những trang báo ngày nào. Ngoài đêm bây giờ hình như tiếng ngựa vẫn còn lao xao hí hoài những hồi thúc giục, đời vẫn mỡ ra trước mắt như đang gọi hồn người lính đi vào cõi mông lung muôn trùng.

 

còn ba năm nữa anh sẽ về

anh biết chắc không còn quê hương để ở

em gắng sắm cho anh một cây đàn bầu

làm bằng nắp hòm người lính nghèo

chết ngoài mặt trận

anh sẽ đàn cho mọi người cùng nghe

mà không xin tiền

chỉ tìm lại những đôi mắt trâng tráo

những bước chân đi qua vỉa hè

với nụ cười

mà nhiều năm anh đã mất…

(Khi Giải Ngũ – thơ Hà Nguyên Dũng)

 

 

Mường Giang

 

 

 

Tin Tức - Bình Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính