Phản tỉnh – Phản kháng: Thực hay Hư

 

Minh Vơ

 

Chương 5

 

Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên 

 

 

“Đêm Giữa Ban Ngày” (1) là cuốn hồi kư viết về những ǵ xảy ra trong tù Cộng Sản giữa tác giả và tên cai tù và từ đó về những ǵ xảy ra trong đầu tác giả nhân những cuộc hỏi cung, liên quan đến “nhóm xét lại chống đảng”, rồi từ đó về cả những nhân vật khác trong chế độ Cộng Sản miền Bắc. Khung cảnh thời gian, không gian rất nhỏ hẹp. Nhưng nội dung tác phẩm th́ rất lớn, rất đa dạng: đề cập đến rất nhiều vấn đề, rất nhiều sự việc và rất nhiều nhân vật.

 

Tác giả là một nhà văn, nên ông đă tŕnh bày những sự kiện có thực một cách rất văn vẻ, linh động, sắc nét, làm cho người đọc có cảm tưởng như đọc một tác phẩm văn chương, nhờ vậy có đủ hứng thú đọc hết 767 trang sách mà không cảm thấy mệt mỏi.

 

Vũ Thư Hiên là con Vũ Đ́nh Huỳnh, một trong những cận thần của ông Hồ, đồng chí và là bạn của những nhân vật trụ cột của chế độ Cộng Sản như Nguyễn Lương Bằng, Trường Chinh, Vơ Nguyên Giáp…, đă từng ngồi tù Sơn La của Pháp cùng với Nguyễn Lương Bằng, Lê Đức Thọ, Trần Quốc Hoàn, Đặng Kim Giang, Tô Hiệu, Kỳ Vân, Lưu Động v.v… Ông Huỳnh đă từng có thời làm bí thư cho HCM, luôn luôn ở bên cạnh họ Hồ trong thời gian thương thuyết với Pháp ở hội nghị Fontainebleau, năm 1946. V́ vậy con ông cũng đă có nhiều dịp tiếp xúc trực tiếp với hầu hết các cấp lănh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam, từ Hồ Chí Minh trở xuống.

 

Với tư cách nhà văn, nhà báo ông đă quen biết rất nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng trong chế độ Cộng Sản và biết rơ tính t́nh, cũng như xu hướng chính trị của rất nhiều người trong văn giới và báo giới. Là người thông hiểu Nga ngữ, đă nhiều năm du học ở Liên Xô, ông cũng có những liên lạc với một số người Nga, nhà văn Nga. Những kiến thức của ông nhờ tính ham đọc sách đă lôi cuốn người đọc v́ chúng cung cấp những thông tin rộng răi về nhiều lănh vực.

 

Tác giả khởi sự viết tác phẩm này vào mùa hè năm 1985 tại Saigon. Nó được tiếp tục ở Hà-Nội, ở Liên Xô, ở Balan, rồi hoàn tất ở Paris. Tại Liên Xô bọn “côn đồ” đă cướp bản thảo, đập máy vi tính của ông, đâm ông trào máu, cố ngăn cản không cho ông thực hiện ư định. Nhưng ông đă ôm ấp dự tính viết một cuốn sách về “vụ án xét lại chống đảng” này ngay những ngày đầu trong nhà đá Hỏa Ḷ (trang 295.) Trong những ngày quá đau khổ đến tuyệt vọng có nhiều lúc ông đă muốn tự sát. Nhưng “tôi phải sống sót để nói lại cho đồng bào tôi nghe về thực chất cái xă hội trong đó con người VN bị tước đoạt mọi quyền tự do tối thiểu mà mỗi công dân b́nh thường của thế giới b́nh thường phải có.” (trang 513).

 

Chính cha ông cũng là người thúc đẩy ông, góp ư với ông, trong việc viết cuốn hồi kư này. Mục đích của cuốn sách đă được tác giả nói đến rất cặn kẽ, chính xác, không thể hiểu lầm nơi những trang 303-305, và 513 vừa nêu. Tác giả hoàn thành cuốn sách này c̣n là để nói lên niềm hối hận của cha con ông. Sau đây là một vài đoạn nói lên niềm hối hận đó:

“Với đảng của ông, cha tôi đoạn tuyệt hoàn toàn”.

– Con ạ, những ngày gần đây bố suy nghĩ nhiều về tương lai đất nước ḿnh. Con có biết bố đi đến kết luận ǵ không? Kết luận của bố là thế này: muốn cho dân tộc ta không thua kém các dân tộc khác, muốn cho đất nước được thịnh vượng, dân ta không nghèo khổ măi th́ không thể thiếu một điều kiện tiên quyết: ấy là phải gạt bỏ sự lănh đạo của đảng Cộng Sản. (M.V. tô đậm) Đảng đến nay đă hết là đội quân tiên phong của cách mạng giải phóng dân tộc rồi. Bây giờ nó trở thành chướng ngại vật trên đường phát triển của dân tộc….

“Tôi sửng sốt. Tôi có thể chờ đợi ở cha tôi bất cứ ư nghĩ nào khác, nhưng không phải ư nghĩ ấy.

“Cần phải có dũng khí vượt qua nỗi đau mới đoạn tuyệt được với quá khứ dứt khoát đến như vậy.

“- Con có hiểu v́ sao lâu rồi bố không về quê không? Một hôm khác, cha tôi buồn rầu nói -Bố nhớ làng xóm lắm. Nhưng bố xấu hổ. Sau này con về nhớ nói bố xin lỗi bà con. Bố đi làm cách mạng không phải để mọi người phải sống cuộc sống như thế này. Là con người ai cũng vậy không khổ v́ thiếu thốn bằng khổ v́ nhục. Một chế độ hạ nhục con người không phải chế độ nhân dân ta lựa chọn.”

 

Xóm làng mà ông Huỳnh nói đến ở đây là làng Kiên Lao (2), phủ Xuân trường, tỉnh Nam định, sinh quán của ông. V́ “cách mạng” ông đă bỏ, chẳng những làng xóm của ông, mà cả tôn giáo của ông, đạo Công Giáo. Con ông viết rằng từ cái tôn giáo đó ông chỉ c̣n giữ có lời “Đức Chúa Giêsu Ki-ri-xi-tô dạy là hăy yêu người như ḿnh vậy”. (3)

 

Nếu đọc không kỹ, người đọc có thể bảo tác giả chỉ nhắm mục đích đả kích bọn Duẩn – Thọ là những kẻ chủ mưu trong việc bắt giam cha con ông. Nhưng ông đă cố giữ lời cha ông dặn khi gần chết: “…Không phải v́ mục đích vạch tội ai mà con làm việc này, không phải v́ mục đích ấy. Mục đích lớn hơn:…” Đó là cổ vơ dân chủ pháp trị, tránh độc tài. (Xin đọc tiếp giữa trang 305.) Và tôi thiết nghĩ, Vũ Thư Hiên đă làm đúng lời trăn trối của cha ông.

 

Vài nét về Vũ Thư Hiên:

Vũ Thư Hiên sinh ngày 18-10-1933, nguyên quán Trung lao, trực Ninh, Nam định. Mẹ ông là người Hà-nội. Năm 1945, khi mới 12 tuổi ông đă xung vào đội tuyên truyền xung phong. Bốn năm sau ông vào lính và được theo học trường lục quân Trần Quốc Tuấn. Do cương vị của cha ông bên cạnh ông Hồ, và cũng do vai tṛ của cán bộ thiếu nhi tuyên truyền ông có cơ hội gặp ông Hồ rất sớm và giữ những kỷ niệm về t́nh cảm tốt đẹp dành cho “người bác” của ông cũng như hàng tá các bác khác từng chiến đấu cam khổ bên cạnh cha ông trong thời chống Pháp. Chỉ cho đến khi ôm ấp ư định viết cuốn hồi kư này, những t́nh cảm ban đầu mới phai lạt và được thay thế bằng những nhận định thực tiễn chua cay.

 

Tuy cha ông đă bỏ đạo, mẹ ông lại là người gốc đạo Phật, và cả hai đều duy vật, nhưng mẹ ông không chống đối việc các con được các ông bác bà cô đưa đi rửa tội và xem lễ. Sau khi cha ông bị bắt lúc ông lên sáu, ông đă sống một số ngày thơ ấu ở quê nội, là nơi đă để lại trong ông nhiều kỷ niệm êm đềm tha thiết. Hồi 24 tuổi ông lại có dịp về làng và gặp lại bà cô và được nghe bà khuyên nên tránh xa Cộng Sản v́: “Cộng Sản bất nhân lắm”…(trang 248). Vợ ông khi đi du học ở Ba Lan về, với những ǵ nh́n thấy ở Balan cũng đă nhủ chồng ḿnh không nên theo Cộng Sản v́ nó “không được ḷng dân.” (trang 249). Nhưng ảnh hưởng bên nội và lời khuyên của chính vợ ông không làm ông kém hăng say đi theo lư tưởng của cha mẹ. Nhất là cha ông sau khi bất măn về những sai lầm trong cải cách ruộng đất vẫn c̣n bênh đảng, nói rằng đảng đă biết lỗi và sửa sai. V́ vậy, tuy không phải là đảng viên Cộng Sản như họ, nhưng ông vẫn lấy làm hănh diện là đă ở trong hàng ngũ những người kháng chiến. Cho đến khi ông cảnh tỉnh th́ đă quá muộn. Cho nên ông bảo ḿnh “đần”, “ngu lâu”. (trang 250)

 

Nhờ thế lực của cha, Vũ Thư Hiên đă được cử đi học về Điện Ảnh ở Liên Xô. Chính trong thời gian du học này ông đă được chứng kiến tại chỗ việc tân lănh tụ Cộng Sản nước này hạ bệ thần tượng Staline, mở đầu một giai đoạn mới, chủ trương “các nước có xu hướng chính trị khác nhau có thể sống chung ḥa b́nh”.

 

Trong hồi kư, Vũ Thư Hiên đă nói rơ ông làm cách mạng, cũng như ông theo chủ nghĩa duy vật chỉ v́ cha mẹ ông làm cách mạng và theo chủ nghĩa duy vật, v́ lúc ấy duy vật là cái mốt. Vậy thôi. (trang 177)

 

Trong số gần chục tác phẩm của ḿnh, Vũ Thư Hiên có nhắc đến, (trang 419), những cuốn: “Đường Số 4”, bị lên án v́ chủ nghĩa ấn tượng; “Đêm mất ngủ”, bị Tố Hữu gọi là “bất măn với chế độ hiện hành”; “Đêm cuối cùng ngày đầu tiên”, bị ông Nguyễn Chí Thanh đánh. Cuốn “Miền Thơ Aáu”, xuất bản năm 1988, được ông viết trong xà lim, bằng những cây viết mà vợ ông lén đưa cho ông trong lúc tên cai ngục ngó đi chỗ khác. Cuốn thứ năm được ông nhắc đến (trang 179) là tiểu thuyết “Pháo Đài Xanh” nói về quê nội của ông do cảm t́nh gắn bó với cái quê nghèo bùn lầy nước đọng hơn cái quê ngoại ở thủ đô là nơi ông sống nhiều hơn. Ngoài ra người ta cũng được biết tác phẩm đầu tay của ông là vở kịch “Lối Thoát” ra đời khi ông mới 20 tuổi. Năm 1962 ông có thêm cuốn “Bông Hồng Vàng”, dịch từ một tác phẩm tiếng Nga. Tập truyện ngắn “Đêm Mùa Xuân” của ông do nhà xuất bản Lao Động cho ra năm 1963 đă bị thu hồi v́ sai lập trường.

 

Cuốn “Đêm Giữa Ban Ngày” không biết sẽ chịu số phận ǵ, nếu nó được công bố ở trong nước. Chỉ biết tác giả nó đă bị đâm và chết hụt ở Liên Xô cũng v́ nó.

 

Sơ lược nội dung tác phẩm

Cuốn “hồi kư chính trị của một người không làm chính trị” mang tên “Đêm Giữa Ban Ngày”, na ná như tên tác phẩm của Arthur Koestler mà dịch giả Daphner Hardy dịch là “Darkness At Noon”. Tác phẩm của Koestler là tiểu thuyết dựa vào người thực, việc thực trăm phần trăm. C̣n ĐGBN là hồi kư có những đoạn hơi “văn vẻ” quá khiến có người bảo không phải văn hồi kư.

 

Sách gồm có 41 chương tổng cộng 767 trang, thuật lại cuộc đời lao tù của tác giả trong gần 9 năm trường, từ 24-12-1967 đến ngày 2-9-1976. Trong quăng thời gian đó tác giả đă lần lượt trải qua những ngày biệt giam ở xà lim Hỏa ḷ (Hà-nội), xà lim huyện Bất Bạt, rồi chuyển đến các trại cải tạo Tân lập (Phú thọ) và cuối cùng là trại Phong Quang gần biên giới Hoa-Việt.

 

Tác phẩm mở đầu như chuyện tiểu thuyết, một cảnh xi nê. Người ta đón đường bắt cóc ông đem đi biệt tăm lúc ông đang cỡi xe đạp trên đường phố Hà-nội vào một ngày hưu chiến dịp Lễ Giáng Sinh, 1967. Măi 27 tháng sau gia đ́nh mới được thông báo chỗ ông bị giam để thăm nuôi, mỗi năm chỉ hai lần. Người mà ông phải đối đầu trong các cuộc hỏi cung là cục phó cục chấp pháp Huỳnh Ngự được nhắc đến nhiều nhất trong cuốn hồi kư. Y tiêu biểu cho lớp cán bộ trung thành với đảng, một mẫu người trong guồng máy áp chế của xă hội “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà” thời ấy. Người ta cũng thấy ở y cái mặt nạ đạo đức giả mà những lănh tụ thời ấy thường đeo. Nhưng vốn nóng tính y đă nhiều lần đánh rớt nó trong những buổi hỏi cung khó khăn mà tác giả kiên quyết giữ vững lập trường bất khuất của ḿnh, coi thường những lời hứa hẹn hay đe dọa của y. Tuy nhiên nh́n chung người ta phải công nhận cái tài dụ dỗ và khéo dẫn dắt tù nhân tới những điều mà y muốn. Trong toàn bộ, tác phẩm cho thấy cái pháp lư của chế độ là cố tạo ra bằng chứng; không được, th́ dựa vào lời cung khai của nạn nhân để buộc tội. Cho nên có rất nhiều người không có tội vẫn bị xử hay bị giam. V́, tuy cấm tra tấn, nhưng những lời đe dọa, những h́nh phạt cùm, phạt biệt giam trong một thời gian dài khiến nhiều người mất kiên nhẫn, đành nhận tội để được yên thân.

 

Điều mà các tên chấp pháp muốn moi từ tác giả là một lời thú tội, một lời khai hớ hênh, một tin tức vô t́nh về một người nào đó trong số những người đang bị kết vào tội “xét lại chống đảng”.

 

Huỳnh Ngự đă hỏi ông về cha ông, về những người có liên hệ với cha ông từ Nguyễn Lương Bằng, (trang 309),Vơ Nguyên Giáp, Ung Văn Khiêm, Đặng Kim Giang, Lê Liêm, Hoàng Minh Chính, Minh Tranh, (Giám Đốc nhà Xuất Bản Sự Thật) Tôn Thất Tùng, Tạ Quang Bửu, (chủ nhiệm ủy ban khoa học nhà nước), Lê Quư Quỳnh (bí thư tỉnh ủy Hưng Yên)… cho đến những nhà văn, nhà báo, họa sĩ… và một lô các nhà trí thức khác… mà ông từng quen biết hay có dịp gặp mặt như Nguyễn Đ́nh Thi, Nguyễn Tuân, Phan Kế An và Phan Kế Hoành (2 người con cụ Phan Kế Toại), Văn Cao, Bùi Xuân Phái (họa sỹ), Phạm Kỳ Vân, Dương Tường (nhà thơ), Mạc Lân (nhà báo), Huy Vân (điện ảnh), Vũ Huy Cương (điện ảnh), các nhà văn Hứa Văn Định, Châu Diên, Xuân Khánh, Phù Thăng vân vân…

 

Có lần Huỳnh Ngự hỏi tác giả về sự liên hệ giữa ông và một nhà ngoại giao Nga tên Rashit, và trong cuộc hỏi cung này y đă quyết đoán tác giả làm gián điệp cho ngoại nhân. Nhưng y không làm sao khiến tác giả nhận tội hay cung khai những điều bất lợi cho người khác.

 

Căn cứ vào những buổi hỏi cung của Huỳnh Ngự và những tin tác giả nhận được trước khi vào tù th́ được biết những người có dính líu trong cái gọi là vụ án XLCĐ gồm có những người sau đây:

Hoàng Minh Chính, viện trưởng viện triết học; Phạm Viết, phó tổng biên tập tờ Hà-nội Mới; Kỳ Vân phó tổng biên tập tạp chí Học Tập; Minh Tranh. Giám đốc nhà xuất bản Sự Thật. Những người này, ngoài Minh Tranh chỉ bị cách chức, đă bị bắt tháng 7 năm 1967. Sau vài tháng đến lượt các ông Vũ Đ́nh Huỳnh, vụ trưởng vụ lễ tân phủ chủ tịch, cha tác giả; thiếu tướng Đặng Kim Giang, nguyên tổng cục phó tổng cục Hậu Cần, chủ nhiệm cục hậu cần chiến dịch Điện Biên Phủ, rồi thứ trưởng bộ Nông trường, các ông Trần Minh Việt, phó bí thư thành ủy kiêm phó chủ tịch ủy ban hành chính thành phố Hà-nội; Nguyễn Kiến Giang , biên tập viên tạp chí Học Tập; Đinh Chân, biên tập viên báo Quân Đội Nhân Dân; Nguyễn Văn Thẩm, bí thư của thứ trưởng bộ Văn hóa Lê Liêm. Cha tác giả bị bắt vào đúng ngày sinh con, 18 tháng 10. Về ông Hoàng Minh Chính xin xem chương 2.

 

Tác giả đă nhân lúc bị hỏi cung về những nhân vật này để nói thêm những ǵ ông biết về họ, và cũng nhân lúc nêu ra tên tuổi họ, ông c̣n nói miên man tới những người khác, việc khác mà họ quen, biết hay có liên hệ ở một phương diện nào đo,ù khiến cho cuốn hồi kư bao gồm luôn một số chi tiết lư thú về cuộc đời của một số nhân vật. Về những nhân vật quan trọng trong bộ máy đảng và nhà nước Cộng Sản, chúng tôi sẽ dành cho mỗi người ít hàng trích dẫn của tác giả ở những trang sau.

 

Trong hai năm đầu khi bị giam tại xà lim Vũ Thư Hiên đă thuật lại những câu chuyện giữa ông và người bạn tù cùng xà lim tên Thành (Mỗi xà lim giam tối đa hai người). Và khi chỉ c̣n một ḿnh th́ ông nói chuyện về con cóc Arquelin mà ông bắt được khi nó vừa mới đứt đuôi ṇng nọc.

 

Sau hơn hai năm tác giả được biết cha ông cũng đương bị giam trong cùng một khu và hai cha con liên lạc được với nhau qua bao thuốc lá mà người mang cơm trao cho.

 

Sau 27 tháng tù VTH được gặp mẹ và vợ con. Trong dịp này ông đă gửi được mấy hàng cho ông Nguyễn Lương Bằng lúc ấy nắm quyền thanh tra trong đảng và chính phủ, để xin can thiệp cho cha con ông. Nhưng không có kết quả. V́ ông Bằng chỉ hứa suông mà không dám! Về sau, trước khi chết ông Bằng có cho mời cha tác giả đến bên giường bệnh, “xin tha thứ”.

 

Những năm sau, sau khi gây gỗ, sừng sổ với chấp pháp, chửi luôn lănh đạo, và sau mấy tuần lễ bị cùm trong xà lim biệt giam gần chết để trừng trị tội phạm thượng, ông được áp giải tới trại cải tạo lao động Tân Lập, tỉnh Vĩnh Phú. Rồi vài năm sau đó lại được chuyển tới trại Phong Quang, gần biên giới Hoa Việt. Trong hai trại cải tạo này ông được gặp một số người quen. Ông cũng gặp cả những tên tù h́nh sự lưu manh và cả những thiếu nhi giết người, những tù chính trị thuộc các tôn giáo, và đảng phái quốc gia.

 

Tại trại Phong Quang ông đă viết khá nhiều về một số phạm nhân đặc biệt người Trung Quốc, trong đó có Cố Thủ Chẩu và anh chàng Marinết, quốc tịch Trung Quốc nhưng mang ḍng máu Hà Lan, một người suốt đời trung thành với đảng nhưng đă trở thành nạn nhân của đảng. Chính nhân vật này đă nói với tác giả:

“Anh thử nghĩ mà xem có biết bao nhiêu người thành tâm đi theo chủ nghĩa Cộng Sản và trở thành nạn nhân của nó.”

 

Những cái tên người mà tác giả nhắc đến ở những chương cuối gồm có một số tên có lẽ không lạ lắm với độc giả trong chế độ Cộng Sản, đặc biệt có Nguyễn Chí Thiện (nhà thơ nổi tiếng chống Cộng, mới được tha gần mười năm và đă được cho ra ngoại quốc, xin xem chương 13).

 

Một số nhận định của tác giả về chủ nghĩa Mác, về đảng Cộng Sản Việt Nam và một số nhân vật quan trọng trong các chính quyền Cộng Sản Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô.

 

Trước hết về chủ nghĩa Mác Vũ Thư Hiên viết:

“Cả hai cái đó – chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lê-nin – hiểu đúng và hiểu không đúng, đều không phải là chủ nghĩa Cộng Sản ở Việt Nam. Ở Việt Nam có một chủ nghĩa Cộng Sản không dính dáng ǵ tới Mác hoặc Lê-nin hết. Nó là chủ nghĩa Cộng Sản b́nh dân. Nó kêu gọi đấu tranh cho một xă hội không có người bóc lột người, một cuộc sống tự do công bằng và hạnh phúc, một địa cầu không biên giới. Đó chính là chủ nghĩa Cộng Sản mà cha mẹ tôi theo, là cái mà ông bà muốn trao lại cho chúng tôi…Chính chủ nghĩa Mác dung tục, thô thiển, chứ không phải chủ nghĩa Mác hàn lâm hay chủ nghĩa Mác cường đạo, mới là cái hữu ích cho phong trào giải phóng dân tộc. Hấp lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Có người nô lệ yêu nước nào lại từ chối một viễn cảnh huy hoàng như thế?

“Vào thời cha mẹ tôi phần lớn những người cách mạng đều tự hào nhận ḿnh là Cộng Sản. Chính sự lầm lẫn này về sau đă sinh ra một nghịch lư: những nhà lănh đạo cách mạng Việt Nam thường tỏ ra là những chiến sĩ tài ba khi họ ít được học chủ nghĩa Mác, c̣n khi bập bơm chủ nghĩa Mác rồi th́ họ lại sa vào hết sai lầm này đến sai lầm khác.” (trang 322-323)

“Tôi hiểu các nhà lănh đạo qua cha tôi. Phần lớn họ thuộc thế hệ cha tôi, trạc tuổi cha tôi. Họ có tiểu sử na ná như nhau, tất cả đều là những người yêu nước trước khi thành Cộng Sản. Họ nhập vào hàng ngũ Cộng Sản mà không hiểu chủ nghĩa Cộng Sản là ǵ. Chỉ cần biết chủ nghĩa Cộng Sản hứa hẹn một tương lai tốt đẹp cho công cuộc giải phóng dân tộc là đủ.” (trang 323)

 

Về Đảng Cộng Sản Việt Nam, Vũ Thư Hiên tin rằng nó có công thực – chứ không phải cướp công – trong việc lănh đạo cuộc khởi nghĩa thắng lợi mùa thu năm 1945. Nó có sức thu hút các người Việt Nam có tinh thần yêu nước, đến nỗi ông cho rằng thời đầu những người cách mạng đều cho ḿnh là Cộng Sản! (trang 322) Nhờ có tinh thần yêu nước, các đảng viên Cộng Sản đă kiên cường chịu cực chịu khổ, hy sinh để cuối cùng giành được thắng lợi vẻ vang.

 

Nhưng từ sau kháng Pháp thành công, đảng Cộng Sản đă phạm phải những lỗi lầm không thể tha thứ trong các chiến dịch giảm tô, cải cách ruộng đất, và các cuộc trấn phản đối với những người có tư tưởng khác với tư tưởng chính thống, như trong các vụ án Nhân Văn -Giai Phẩm và cái gọi là nhóm xét lại chống đảng. Cuối cùng chắc ông cũng cùng một phán xét như cha ông là phải gạt bỏ sự lảnh đạo của đảng Cộng Sản th́ nước nhà mới khá. Sau đây là một vài đoạn trích dẫn:

“Một trong những điều khó hiểu đối với tôi hồi ấy là tại sao, v́ lẽ ǵ những nhà cách mạng Việt Nam thuộc thế hệ cha chú tôi, lúc đó c̣n đông đúc, lại chịu chấp nhận một mô h́nh xă hội quỷ quái như vậy? (trang 508)

“Những người cách mạng năm xưa đă xây dựng nên cái ǵ vậy?

“Theo cái que chỉ của thợ cả , những người thợ rèn ngày đêm quai búa, h́nh dung ḿnh đang làm nên bông hoa hạnh phúc cho nhân dân. Nhưng khi ngẩng đầu lên để lau mồ hôi đầm đ́a trên mặt họ chợt nhận ra rằng trước mặt ḿnh không phải bông hoa, mà là cái cùm kiên cố.”(trang 316)

“Từ cải cách ruộng đất trở đi tập tục này (tôn vinh Đảng, chú thích của M.V.) lan rộng và ăn sâu trong sinh hoạt của dân chúng. Người dân mở miệng ra là “Nhờ ơn Đảng, Chính phủ”. Người ta nói: “Nhờ ơn đảng, chính phủ, mùa màng năm nay khá, gia đ́nh em tạm đủ ăn”, “Nhờ ơn Đảng, chính phủ, nhà em vừa sinh thằng cu”. Quen miệng người ta c̣n nói: “Nhờ ơn đảng, chính phủ, cái mụn chốc thằng cu nhà em đỡ rồi, em lấy cao nhà ông lang Sửu đấy ạ.!” Trong nhân dân cũng vào thời kỳ này xuất hiện câu ca dao thú vị nói rất trúng cách tuyên truyền của Đảng về những thành tựu lănh đạo:

 

Mất mùa là tại thiên tai,

Được mùa là tại thiên tài Đảng ta…

Đảng là đấng Tối Cao, như Chúa Trời.

 

“Đảng c̣n hơn cả Chúa Trời nữa, v́ Chúa Trời vô h́nh vô ảnh, c̣n đảng là có thực, cũng như những nhà tù của Đảng là có thực, Đảng là người quyết định hết thảy, Đảng cho th́ có, Đảng lấy th́ mât.”(trang 414)

 

Về Các chiến dịch giảm tô và cải cách ruộng đất:

“Tôi chỉ bắt đầu ngờ vực đức hiền minh của các lănh tụ vào thời gian cuộc giảm tô giảm tức được phát động ở khu 4 kháng chiến, năm 1953…

“Tôi kinh hoàng nh́n cảnh tượng không hiểu nổi: nườn nượp lướt qua mắt tôi từng bày đàn người bị kích thích bởi mùi máu, hăm hở đi dưới lá cờ đỏ sao vàng không phải để chiến đấu với quân xâm lược, mà với chính đồng bào ḿnh.

“Tại xă Ngô xá, làng Ng̣ Thanh Hóa, nơi có dinh cư cụ cử Nguyễn Thượng Hiền, người ta trói chặt hai tay rồi dong mẹ bạn tôi đi khắp làng chỉ v́ bà trót dại nói điều ǵ đó mất lập trường hoặc không vừa ḷng cán bộ giảm tô giảm tức. Trước bà là hội trưởng hội Liên Hiệp Phụ Nữ Thái B́nh. Mất đất, bà mang con cái chạy vào Thanh Hóa, làm nghề hàng xáo buôn thúng bán mẹt. Chúng tôi nghe tiếng kêu khóc chạy tới th́ thấy mấy anh du kích quen đang xềnh xệch kéo bà đi. Hai tay bị trói giơ lên trời, bà xiêu vẹo bước sau họ, kêu gào thảm thiết: “Đi cụ Hồ ơi, cụ trông xuống mà xem người ta đối xử với con dân cụ thế này đây.”

“Ở một xă khác, một người đàn bà bị trói vào hai cây nứa bắt chéo, bên dưới là một đống lửa. Con mẹ ni là phú nông phản động, ngoan cố lắm, những người bâu quanh nhao nhao nói thế. Người đàn bà quằn quại măi đến khi ngất đi rồi mới được người ta hạ xuống.

“Cha bạn tôi, hoạt động cách mạng từ trước 1945, bị tống giam v́ bị vu là đảng viên Quốc Dân Đảng, thắt cổ tự tử, để lại bức thư tuyệt mệnh: “Oan cho tôi lắm, cụ Hồ ơi. Tôi trung thành với cụ, với đảng. Tôi không phản bội. Hồ Chí Minh muôn năm.”

“Người ta lấy gai cắm vào đầu ngón tay một cô gái, có trời biết cô ta bị tội ǵ, có thể cô ta chỉ có tội là con địa chủ, cứ mỗi câu hỏi lại cắm cái gai sâu thêm một chút, làm cho cô ta rú lên v́ đau, quằn quại trong giây trói.

“Một cụ già tóc bạc phơ bị tṛng giây vào cổ, bị lôi xềnh xệch trên đường như một con chó. Lũ trẻ làng rùng rùng chạy theo sau. Chúng vỗ tay, chúng reo ḥ, chúng cười ngặt nghẽo. Tôi nh́n chúng rùng ḿnh—những đứa trẻ này chắc chắn sẽ lớn lên với trái tim không phải của giống người. Rồi đây với tâm hồn chai sạn, làm sao chúng có thể sống chung với những anh em khác màu da và tiếng nói trong một thế giới đại đồng mà chủ nghĩa Cộng Sản hứa hẹn?

“Tôi cảm thấy trong ḿnh cục cựa một cái ǵ giống như sự thức tỉnh. (trang 32-33)

 

Về cá nhân ông Hồ Chí Minh, Vũ Thư Hiên có một nhận định phức tạp do cảm t́nh của ông đối với một người tương đối thân của gia đ́nh, và một “anh hùng dân tộc”, b́nh dị, đáng yêu trong những năm đầu khi tâm hồn ông c̣n non trẻ, pha lẫn với những nhận thức của một trí óc đă phát triển khi va chạm với thực tế của cuộc đời về một Hồ Chí Minh, lănh tụ sắt đá cố t́nh làm ngơ trong những vụ tàn sát hàng vạn sinh linh, như trong cải cách ruộng đất v.v… Chúng ta hăy nghe một vài đoạn trong tác phẩm của ông:

“Không biết tôi đúng hay không đúng, đúng được bao nhiêu, trong ư nghĩ rằng thế hệ cha chú tôi bị sự sùng bái Hồ Chí Minh làm cho mù quáng, tước bỏ nơi họ tinh thần độc lập suy nghĩ. Rất nhiều hậu quả tồi tệ mà một cuộc cách mạng trong sáng về mục đích đem lại cho dân tộc là do sùng bái cá nhân.

“Sau cách mạng tháng tám uy tín của ông Hồ Chí Minh vút lên như diều gặp gió. Cùng với thắng lợi của cuộc kháng chiến uy tín của ông càng lên cao hơn nữa. Ông không phải chỉ là “cha già dân tộc” của Việt Nam, mà c̣n là đấng chí thánh của phong trào giải phóng dân tộc.

“Người ta sẵn sàng chết cho Bác Hồ, đồng hóa Bác với Tổ Quốc. Các chiến sĩ sung trận hô lớn “V́ Đảng, v́ Bác tiến lên”. Những đảng viên trong lễ kết nạp giơ tay tuyên thệ trước chân dung ông đặt trang trọng trên “bàn thờ tổ quốc”, trên nền đảng kỳ. Hiện tượng sùng bái này, nói cho đúng, một thời có tác dụng tốt, nó kích thích quần chúng tham gia kháng chiến chống Pháp. Không có nó cuộc kháng chiến chống Pháp khó ḷng đạt được những thành công như nó đă đạt được.

“Điều đó không lạ. Quần chúng châu Á cần có minh chủ trong mọi cuộc nổi dậy. Không có minh chủ th́ không có phong trào là hiện tượng đặc thù và phổ biến của những quốc gia lạc hậu.” (trang 508)

“Trong xà lim tôi có thừa thời gian để suy gẫm. Trong những điều tôi suy ngẫm có sự rà soát lại bệnh sùng bái ông Hồ Chí Minh mà thế hệ chúng tôi, kẻ ít người nhiều, đều mắc phải. (trang 457)

“Bây giờ tôi mới hiểu: th́ ra con người đối với Hồ Chí Minh không là ǵ cả…Con người là vốn quư nhất, tôi từng nghe ông nói với mọi người trong lần gặp anh hùng La Văn Cầu ở Thác Dẫng, mùa thu năm 1950. Staline cũng nói thế. Mao trăch Đông cũng nói thế.

“Mà đúng: con người chỉ là vốn thôi, để kinh doanh cái ǵ đó. Khi là vốn nó thôi là người.

“Trong hành xử ông là một diễn viên kỳ tài, như sau này tôi được biết. Cha tôi có kể chuyện khi đi thăm bức tường công xă Paris ở nghĩa trang Père La Chaise (1946), có các quan chức Pháp tháp tùng, ông Hồ sụt sùi khóc, lấy khăn tay thấm nước mắt. Trở về khách sạn, cha tôi hỏi làm sao ông khóc đuợc, ông trả lời: “Ḿnh làm chính trị, khi cần khóc phải khóc được, khi cần cười phải cười được, mới làm chính trị được chứ”. Cha tôi có ghi lại việc này trong hồi kư “Tháng Tám Cờ Bay” (trang 459)

“Đến bây giờ chẳng c̣n ai không biết tác giả Trần Dân Tiên của cuốn “Những Mẩu Chuyện Về Cuộc Đời Hoạt Động Của Hồ Chủ Tịch” là chính Hồ Chí Minh.

“Trong lịch sử thế giới có lẽ đây là lần đầu tiên và duy nhất nhân vật đứng đầu quốc gia tự viết tiểu sử ḿnh với những lời lẽ ca ngợi chính ḿnh. Những lời ca tụng Bác Hồ trong tập kư sự kư tên T.Lan , những bài báo kư tên T.L., A.G. và nhiều tên khác nữa cũng chẳng có thể đổ cho người khác được. Ông Hồ tự ca tụng, chuyện đó là có thực. Một việc làm thừa, hơn nữa ngớ ngẩn—không cần đến những bài báo ấy uy tín của Hồ Chí Minh chẳng những đă tràn ngập mà c̣n vượt ra ngoài bờ cơi”.(tr.510-511)

 

Nơi trang 249, sau khi đă thuật lại lời người cô và chính vợ ḿnh khuyên không nên theo Cộng Sản, Vũ Thư Hiên đă thuật lại lời một người bạn là tiểu đoàn trưởng Đích cũng cảnh giác ông y như vậy. Hăy nghe Đích nói về ông Hồ Chí Minh, qua lời thuật của tác giả:

“Tôi không bực v́ vụ án, lầm là chuyện thường, huống hồ trong vụ này tôi cũng có cái sai. Nhưng tôi sai là một chuyện. Cái cách đồng chí đối xử với nhau thế nào là chuyện khác. Nhà tù cho tôi thấy một điều: Không có t́nh đồng chí! Chúng ta nhầm. Bây giờ tôi mới hiểu. Ông Hồ không phải đồng chí của ta, ông ấy cũng là vua như các ông vua khác, lại không phải vua hiền. Ông ấy biến những con người lương thiện thành những con quỷ. Ông ấy là quỷ vương.

 

Hẳn trong đầu tác giả đă phải có ư nghĩ tiêu cục về ông Hồ đến độ nào đó ông mới thuật lại nguyên lời nói trên.

 

Nơi chương 15, khi thuật lại trường hợp ông Dương Bạch Mai đột tử với nhiều nghi vấn, tác giả đă để cho người đọc kết luận ông bị đầu độc. Tác giả cũng nói đến chuyện Họ Dương chống Mao, họ Dương thân các người Trốt Kít như Pham Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, cả ba người này, tác giả nói là đều bị Việt Minh giết. Sau đó ông trưng dẫn lời Hồ Chí Minh báo cáo cho quốc tế Cộng Sản năm 1939, khẳng định: “Đối với bọn tờ rốt kít không thể có một thỏa hiệp hay nhân nhượng nào cả. Phải lột mặt nạ chúng như là tay sai của Phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị.”

 

Những điều tác giả viết khiến người đọc thấy ngay: Dương Bạch Mai chống Mao, thân tờ- rốt- kít. Hồ Chí Minh đ̣i phải tiêu diệt Tờ-rốt-kít. Dương Bạch Mai đột tử ngay trước khi đại hội trung ương sắp sửa họp để ra nghị quyết 9 đầu năm 1964. Nghị quyết này chủ trương theo đường lối của Mao, ngấm ngầm chống Khrutsh-chev.

 

Trưng dẫn lời ông Hồ nói trên, sau khi thuật lại các sự việc cụ thể về Dương Bạch Mai, hẳn tác giả muốn dẫn độc giả đến kết luận: Ông Hồ, nếu không chỉ thị thủ tiêu họ Dương, th́ cũng đồng ư hay làm ngơ cho đàn em thi hành.

 

Mấy trang đầu chương 33 Vũ Thư Hiên đă dành để nói lên “sự kính mến”, thật ḷng -hay giả dối -của tên cai ngục Huỳnh Ngự đối với Hồ Chí Minh, khi y phá bỏ khoảng cách thường có giữa cai tù và phạm nhân, thân hành vào trong xà lim, “hiền lành ngồi xuống bên cạnh tôi” để báo “tin buồn”, mắt rưng rưng: “Bác của chúng ta…Bác đă…đă… Bác mất rồi!” Hăy nghe phản ứng của tác giả trước cái chết đó:

“Ư nghĩ đầu tiên đến với tôi là cùng với cái chết của ông Hồ bọn chuyên quyền càng rảnh tay hoành hành. Nói ǵ th́ nói ông Hồ c̣n sống vẫn là một vật cản. Bởi v́ ông ta đă hô hào đoàn kết, ông có đạo đức giả khi nói thế th́ ông cũng không cho phép cấp dưới bóc nốt cái vỏ của câu nói. Không c̣n quyền, nhưng ông c̣n cái uy cái thế, buộc chúng phải nể. Có làm ǵ chúng cũng phải ngó ông một cái, xem ông phản ứng ra sao.

…Tin ông Hồ qua đời không làm tôi xúc động. Tôi không vui mà cũng chẳng buồn. Bây giờ đối với tôi ông là người dưng. Ông đă bị xóa sổ trong trí nhớ của tôi. Ông đă đi khỏi cuộc đời tôi.

…Tôi cũng chẳng căm thù người đứng đầu cái nhà nước đang hành hạ tôi. Tôi biết ông không phải là thủ phạm. Nói cách khác không phải đầu vụ. Cũng không phải tôi muốn bào chữa cho ông Hồ. Khi ông đă kề đùi kề vế với Duẫn, với Thọ, th́ mọi việc làm của họ ông đều có dự phần, vinh cũng như nhục.

“Nhưng tôi tin nhận xét của cha tôi -ông Hồ không phải người ác. Không hiểu sao ông lại làm ngơ để xảy ra vụ án thảm khốc này.” (trang 579)

 

Nơi trang 359, sau khi nói về cái tật hay tránh né một cách lép vế của Vơ Nguyên Giáp, Vũ Thư Hiên đă thuật lại trường hợp của tướng Lê Liêm đă được ông Hồ đồng ư về quan điểm “nên tránh bị cuốn vào cuộc đấu tranh giữa hai cường quốc xă hội chủ nghĩa” và hy vọng trong hội nghị sẽ đưọc ông Hồ lên tiếng bênh vực. “Nhưng ông Hồ tránh ánh mắt của ông, quay đi nơi khác.”

“Điều tôi không ngờ là Bác đă hứa, nhưng lại không giữ lời. – Lê Liêm kết luận – Tôi không hiểu v́ lẽ ǵ.”(trang 360)

 

Mẹ tác giả đă từng là một chiến sĩ cách mạng bên cạnh ông Hồ, đă từng tôn thờ, cung phụng săn sóc ông những lúc ông đau ốm. Nhưng đến khi thấy chồng bị bắt mà ông Hồ làm ngơ, th́ “trong ḷng bà ông Hồ Chí Minh chết vào đêm cha tôi bị bắt. (bà bảo con:) – Ḷng người khôn lường, con ạ! Mới biết không thiếu ǵ kẻ quên đạo làm người khi ngồi vào ghế vương giả.” (trang 28)

 

Về tội ác giết hàng vạn người trong cải cách ruộng đất, tác giả cho biết “cha tôi khẳng định người chịu trách nhiệm chính trong việc gây ra những sai lầm trong CCRĐ là ông Hồ Chí Minh chứ không phải Trường Chinh, như đă có sự ngộ nhận kéo dài nhiều năm. Trường Chinh là con dê tế thần cho sai lầm của ông Hồ.” Nhưng cha ông lại bênh ông Hồ khi nói với con rằng “Ông (Hồ) đă buộc ḷng phải làm CCRĐ khi bị Mao nhắc nhở.” (trang 221)

 

Tác giả đă trích dẫn Hoàng Văn Hoan nói về việc ông Hồ yêu cầu họ Mao đưa hơn 300 ngàn lính Tàu vào miền Bắc vào nửa cuối thập niên 60. Ông cũng nhấn mạnh là lúc ấy Hoàng Văn Hoan là ủy viên bộ chính trị, nên sự kiện này ông không thể không biết, và đáng tin cậy. Ai cũng biết Hoàng Văn Hoan thân Trung Cộng ra mặt từ lâu. (Trang 229)

 

Trong toàn bộ tác phẩm, tác giả nói đến ông Hồ rất nhiều, thuật lại nhiều việc , nhiều nhận xét của người nọ người kia, kể cả của cha ông, mẹ ông nhận xét về ông Hồ. Tổng kết tất cả những sự việc và nhận xét đó, người đọc phải hiểu tác giả kết tội ông Hồ hơn là bênh, tuy ông không đưa ra một kết luận minh thị, xác quyết nào. Ông muốn độc giả tự kết luận. Hơn nữa ông là người đă từng ngưỡng mộ, nếu không nói là mến yêu ông Hồ khi c̣n nhỏ. Cho nên thật khó cho ông để có thể kết tội ông Hồ một cách phũ phàng khi ông đă lớn khôn và ông Hồ không c̣n nữa.

 

Cái tâm trạng và cách hành xử này không phải chỉ có ở Vũ Thư Hiên mà c̣n ở rất nhiều cán bộ, cũng như văn nghệ sĩ đă từng theo kháng chiến chống Pháp và đă từng hoan hô ông Hồ, mặc dầu ngày nay họ tỉnh ngộ và nhận ra bộ mặt thật của ông ta.

 

Tưởng cũng nên xem tác giả nói ǵ về một số nhân vật ngồi làm v́ trong các chức vụ nhà nước như Nguyễn Lương Bằng, Tôn Đức Thắng chẳng hạn:

“Đến nhà cách mạng cao niên rất mực hiền lành Tôn Đức Thắng cũng không thoát khỏi con mắt cú vọ của Lê Đức Thọ. Mà cụ đâu phải người thèm muốn chức quyền. Với đám con cháu, cụ Tôn bảo: “Tụi bay đừng có kêu tao bằng phó chủ tịch nước, nghe ngứa con ráy lắm! Người ta đặït đâu tao ngồi đó, chứ tao không màng cái chức chi hết”. Ngoài việc dự các nghi lễ long trọng bắt buộc phải có mặt cụ, cụ không làm một việc nào khác ngoài một việc là sửa xe đạp. Làm phó chủ tịch nước, ông thợ máy ngày truớc buồn tay buồn chân. Hết xe đạp hỏng cho cụ chữa, anh em bộ đội bảo vệ và nhân viên phục vụ phải lấy xe của người nhà mang vào cho cụ kẻo ngồi không cụ buồn. Thương cụ quá nhiều khi họ c̣n làm cho xe trục trặc đi để giắt đến nhờ cụ sửa giùm. Một người bạn tôi quen thân với cụ Tôn, cha anh trước kia là đàn em cụ, vào thời gian nghị quyết 9… cụ dắt anh vào pḥng riêng th́ thào: “Mày có thấy lính kín theo mầy tới đây không mầy?” Anh ngạc nhiên quá. Tưởng anh lo lắng cho cụ, cụ mỉm cười hiền hậu: “Là tao lo cho tụi bây, chớ tao hổng lo cho tao. Trong nhà tao nè, lính kín hổng có thiếu”.

 

Về chế độ lao tù

“…Cứ nh́n cái hỏa ḷ này đủ thấy. Thằng công dân bị bắt, chưa biết ất giáp ra so , cán bộ đă khăng khăng bắt nó nhận tội cái đă. Nhỡ oan người ta th́ sao? Cái sai, cái tồi tệ từ đó mà ra. Làm cho ḷng dạ con người thành ra cằn cỗi, hận thù, như thế là lỗi tại ai? Bác đâu có dậy cán bộ như vậy?” (trang 475)

 

Trong cuộc đối thoại giữa tác giả và bạn tù Thành, ông đă để cho người đọc hiểu ông kết án chế độ lao tù miền Bắc là phát xít như sau:

“ (Thành: …): Cứ như thể Hỏa Ḷ là một lằn ranh , bước qua nó ḿnh hết là ḿnh. Có lẽ mục đích của nhà tù là thế. Nó làm cho ḿnh có cảm giác rời bỏ cái thế giới mà ḿnh sống, rời bỏ hẳn, không trở lại…

“(Hiên) : -Chỉ có nhà tù ta mới như vậy. Nhà tù khác đâu có thế.

-Tôi không biết ở các nhà tù khác thế nào, nhưng tôi nghĩ trên thế giới chắc cũng có những nhà tù giống nhà tù ḿnh”.

“Tôi hiểu anh muốn ám chỉ nhà tù của Phát Xít Đức.” (trang 383-384)

Vũ Thư Hiên có nhiều chỗ gọi xà lim bằng một cái tên cũng giống Đào Hiếu: “Chuồng Người”:

“Nó không phải là một cái xà lim b́nh thường mà là một sáng tạo độc đáo trong nghề làm chuồng người.” (trang 530)

 

Ngay ở chương 3 ông đă có ư nghĩ nó là “nấm mồ chôn người sống” (trang 57)

 

Những lời sau đây của tên Huỳnh Ngự cục phó cục chấp pháp dẫn tác giả đến một kết luận bi-hài cười ra nước mắt:

“Sở dĩ đảng giao các anh cho cơ quan an ninh chúng tôi, v́ cơ quan chúng tôi có điều kiện tốt nhất, thích hợp nhất để giúp đỡ các anh cải tạo tư tưởng…

“Tôi không nhịn được cười. Th́ ra người ta tin rằng xà lim Hỏa Ḷ là điều kiện thích hợp nhất, tốt nhất cho sự cải tạo tư tưởng. Cứ đà này đảng sẽ lần lượt cho hết thảy cán bộ vào ở xà lim để cho tư tưởng họ tiến bộ hơn, trung thành hơn với chủ nghĩa xă hội.” (trang 136)

 

Sau đây là lời của anh bạn tù cùng xà lim với tác giả, tên Thành nói với ông khi hai người đă tin được nhau:

“Rồi ra ông c̣n biết ối chuyện lạ hơn nữa kia. Tôi biết có người hoàn toàn vô tội, ở tù sơ sơ cũng vài năm, thế mà ra tù cậy miệng anh cũng không dám nói anh ta bị oan. Thậm chí anh ta c̣n nói đảng bắt anh ta là đúng, rằng sở dĩ anh ta được tha, không bị xử là nhờ lượng khoan hồng của Đảng…Ông có biết v́ sao không? Là v́ anh ta nhận tội rồi, kư vào bản cung người ta mớm cho rồi, bây giờ há miệng mắc quai, lại c̣n sợ bị trả thù v́ phản cung nữa chứ. Tôi nghiệp, bị oan rồi mà đến một cái lệnh tha cũng chẳng được cấp, chỉ được thí cho một cái lệnh tạm tha thôi. Tạm tha là thế nào? Là người ta tạm cho về, nhưng coi chừng, bất cứ lúc nào anh cũng có thể bị bắt lại, đừng có đùa. Trong lệnh tạm tha người ta ghi: Xét tội trạng chưa tới mức phải xử lư theo pháp luật…” (trang 202)

 

Về những biện pháp tương tự ở Liên Xô thời Staline, tác giả viết:

“Dưới thời Staline không ít người vô tội bị hăm hại, giờ ai cũng biết. Điều ít ai biết là những người này, sau một thời gian bị xử lư tại các xà lim, đă nhận những tội họ không hề phạm, đă nói những lời ăn năn hối lỗi. Những nhà nghiên cứu đă t́m hiểu hiện tượng này và họ thống nhất trong nhận định: nguyên nhân của sự đầu hàng chóng vánh là bộ máy đàn áp hứa hẹn chắc chắn sẽ thanh toán cả gia đ́nh họ, nếu họ không chịu nhận tội.

“Trong nỗi tuyệt vọng trước viễn cảnh đen tối những người bị trấn áp chỉ c̣n một con đường duy nhất: làm ra vẻ khuất phục để ít nhất cũng cứu được vợ con.” (trang 218-219)

 

Dưới phần cước chú, tác giả đă cho biết về trường hợp cha con ông: “Chín năm sau, hai cha con gặp nhau tôi mới biết chính Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn đă vào tận xà lim dụ hàng. Chúng hứa hẹn nếu cha tôi nghe theo chúng chấm dứt cuộc tuyệt thực đă kéo dài hơn 10 ngày, th́ chúng sẽ không khủng bố gia đ́nh. Nhưng sau đó Lê Đức Thọ đă cho bắt tôi mà không cho cha tôi biết.”

 

Về chế độ sắt máu của Staline, Liên Xô:

“Những đứa trẻ cũng không được yên khi cuộc trấn phản đă bùng lên thành cơn cuồng sát. Nhân danh cách mạng người ta chuyên chính cả với con nít. Cách suy nghĩ của những nhà chuyên chính vô sản thật đơn giản: Nếu cha mẹ đă là kẻ thù của nhân dân Xô Viết th́ con cái họ lớn lên cũng nhất định sẽ là kẻ thù của nhân dân Xô Viết. Một trong những nghị định của bộ nội vụ thời Staline ghi rơ: “Vợ con những tên phản bội tổ quốc phải bị giam giữ trong các trại tập trung với thời hạn không dưới 5-8 năm tùy theo mức độ nguy hại cho an ninh xă hội. Những đứa trẻ có hại cho an ninh xă hội phải đem xử án, tùy theo tuổi, tùy theo mức độ nguy hại và khả năng cải tạo của chúng, chúng phải bị giam giữ trong các trại tập trung, các trại cải tạo lao động của bộ nội vụ hoặc giam giữ tại các nhà trẻ với chế độ đặc biệt.(Trích chỉ thị của bộ trưởng nội vụ nhân dân số 00486, đề ngày 15-8-1937).

 

Nhân nhắc lại biến cố Khrutshchev hạ bệ Staline tại đại hội đảng Cộng Sản Liên Xô lần thứ XX vào năm 1956 là năm tác giả đang du học ở đây, ông đă cho ta thấy những con số sau đây nói lên sự tàn bạo của Cộng Sản:

  • “30,000 sĩ quan và binh lính Ba Lan bị cộng quân thủ tiêu tại khu rừng Katưn thuộc tỉnh Smolensk vào năm 1940. “Không thể nạ tưởng tượng nổi: Bắn chết 30,000 người rồi vùi trong các huyệt tập thể. (chú thích: Sau khi Yeltsin lên làm tổng thống, ông đă xác nhận việc này và xin lỗi nhân dân Ba Lan).

  • “98 ủy viên trung ương đảng trong số 139 người được bầu lên trong đại hội đảng XVII (1934) đă bị bắn và tống giam.

  • “1,108 đại biểu trong số 1,956 người đi dự đại hội này về sau đă bị bắt và bị giết. (trang 100-101)

 

Dĩ nhiên Vũ Thư Hiên chưa nói đến hơn 20 triệu đảng viên thường và nhân dân Nga bị thủ tiêu hay tàn sát. Ông cũng không nói đến cuộc thanh trừng đẫm máu nhắm vào phe “Tờ-rốt-kít” hồi Staline mới lên nắm chức tổng bí thư đảng.

 

Về chế độ ở Liên Xô trong thời Krutshchev, Vũ Thư Hiên có cảm t́nh và chắc cũng mong Việt Nam đi theo con đường đó hơn là ôm lấy chủ nghĩa Mao.

 

“Tại Liên Xô đang manh nha một nhà nước pháp quyền…Nhà nước này chủ trương hoà b́nh tiến lên chủ nghĩa xă hội, chứ không lấy bạo lực áp đặt chủ nghĩa xă hội lên các dân tộc…

 

“Chế độ xă hội Trung Quốc, cũng như chế độ xă hội VN không hứa hẹn một cái ǵ tương tự. Nếu ở Trung Quốc là chế độ toàn trị cởi truồng, th́ ở Việt Nam c̣n giữ lại manh khố.” (trang 108)

 

Riêng về chế độ ở Trung Quốc, Vũ Thư Hiên cũng để ra 3 trang nói qua về cuộc cách mạng văn hóa với Hồng Vệ Binh mà ông gọi là những “âm binh của tay đại phù thủy Mao Trạch Đông”. Chúng được đặt dưới quyền của Giang Thanh, vợ Mao Trạch Đông, tha hồ bắn giết bừa băi, tha hồ hủy diệt những thành tích văn hóa mà không ai dám đụng tới. Ông cũng viết rằng các nhà lănh đạo Việt Nam chẳng những không dám phê b́nh hay thắc mắc mà c̣n ca ngợi, cổ vơ trên báo trên đài. Những cán bộ Mao-ít được chứng kiến những biến loạn tại Trung Quốc do hồng vệ binh gây ra trở về nước tŕnh bày nhận xét của ḿnh chẳng những không được để ư mà c̣n bị trù dập, như trựng hợp Lê Chân, phó tổng biên tập Việt Nam Thông Tấn Xă, hay nhà văn Vũ Bội Kiếm chẳng hạn…( trang 375-379)

 

Có lẽ Vũ Thư Hiên cũng đồng ư với Dương Bạch Mai (phó chủ tịch quốc hội Việt Cộng) khi ông thuật lại rằng Dương Bạch Mai “gọi chủ nghĩa Mao là món tạp pí lù của thổ phỉ. Giữa lúc ngành tuyên truyền Việt Nam đưa Mao Trạch Đông lên hàng thánh sống th́ ông ngang nhiên gọi Mao là tên đao phủ của đại pháp trường Trung Quốc” (trang 278-279) Chính v́ vậy mà DBM đă đột tử như đă nói trên.

 

Liên hệ giữa đảng và các nhà văn:

Những đoạn trích dẫn sau đây sẽ nói rơ tác giả nghĩ ǵ về mối liên hệ này:

“Cái sự lúng túng không t́m ra chỗ của ḿnh có trong tâm trạng nhiều nhà văn nhà thơ Việt Nam. Mọi người sau khi đặt số phận ḿnh vào bàn tay d́u dắt của Đảng đều phải g̣ ḿnh vào cái tôi chung, cái tôi tập thể, là một cái tôi vô h́nh vô ảnh, chui vào trong đó để tự biến ḿnh thành nó….

“…Kim Lân viết Con Chó Xấu Xí và Vũ Tú Nam cho ra Văn Ngan Tướng Công. Cả hai con vật này cũng bị đánh nốt. Người ta giải thích rằng Kim Lân ví đảng như ông chủ, c̣n trí thức như con chó. Ông chủ hắt hủi con chó, khi nó ghẻ lở gầy c̣m, ông chỉ quan tâm tới nó khi nó hứa hẹn những đĩa luộc, đĩa dồi và nồi nhựa mận bốc mùi ngào ngạt. Con chó khốn khổ th́ cứ một mực trung thành với chủ cho đến chết. Miêu tả thân phận con chó c̣i cọc đói khổ trên nền xám của nông thôn Việt Nam, Kim Lân có ng̣i bút cực hay. C̣n Văn Ngan Tướng Công th́ bị buộc tội ám chỉ Đảng bay không biết bay, bơi không biết bơi, chỉ nỏ mồm cạc cạc.

“Chớ có viết về những con vật. -Kim Lân nói-Không hiểu sao cứ nói chuyện súc vật là y như rằng có người động ḷng. Mà nhiều, mới chết chứ.

“Không rơ các nhà văn tác giả bôi nhọ đảng bao nhiêu, nhưng chính các nhà phê b́nh mới là người có công vạch ra những cái xấu của đảng.” (trang 421)

Những câu đối đáp sau đây giữa tác giả và nhà thơ nổi tiếng Chế Lan Viên cho thấy “cái hèn một chút” – hay hèn nhiều -ấy:

“-Này anh Chế, theo anh thơ và từ của Mao Trạch Đông có hay lắm không mà thiên hạ tán tụng om x̣m đến thế?

“-Thơ phú ǵ cái thằng cha ấy? Vũ Thư Hiên thấy hay à?

…-Thơ phú là chuyện tôi mù tịt mới phải hỏi anh.

Chế Lan Viên hạ một câu xanh rờn:

-Làm đến hoàng đế nước Tầu rồi th́ cục cứt của hắn thiên hạ cũng khen tuốt.

Tôi ngẩn người. Chẳng lẽ đó là tác giả câu thơ ca ngợi hai lănh tụ vĩ đại:”Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao.” (trang 422)

 

Câu nói sau đây của Hữu Loan với tác giả năm 1988 cũng cho thấy lư do tại sao văn nghệ sĩ trong chế độ Cộng Sản không thể không “hèn một chút”:

“-Khổng Tử đúng mới buồn chứ: “Đời đục ta trong làm sao được!” Thân ḿnh, thôi chẳng nói làm ǵ, v́ muốn lương tâm trong sạch nên ḿnh mới chọn con đuờng làm dân, nghèo mà thanh thản. Nhưng các con ḿnh v́ thế mà không được học hành, th́ ḿnh sai rồi.”

V́ thế tác giả không lấy làm lạ khi thấy trong vụ đánh Nhân Văn-Giai Phẩm có cả những tên tuổi đáng kính của nền văn nghệ như Tú Mỡ, Thế Lữ… (trang 245)

Đă không ngại chịu “hèn một chút”, nhiều văn nghệ sĩ đua nhau “ăn cắp văn” của đảng:

“Không ai trách anh nếu anh viết giống bài nào đó đă in rồi trong báo đảng. Nhai lại những ǵ báo đảng viết đă không mang tội đạo văn th́ chớ, lại c̣n được khen: ư thức tổ chức cao. (trang 129)

 

Câu chuyện giữa Vũ Thư Hiên và một người bạn, bác sĩ Phan, cho thấy giới trí thức miền Bắc rất ghét lănh đạo cộng đảng, coi họ như một thứ hủi, tốt nhất đừng dây vào. V́ vậy họ không lên tiếng chỉ v́ khinh, hay sợ. Chứ không phải “im lặng là tán thành”.

 

“Anh (Phan) không thích cái xă hội nhố nhăng với một lũ Cẩm Bá Nhạ (tiếng Pháp campagnards có nghĩa những tên nhà quê), một lũ hủi ở trên đầu.

“Mà hủi th́ tốt nhất là không dây. Anh biết giữ mồm giữ miệng cho nên bọn công an theo dơi trí thức vẫn đinh ninh Phan là một bác sĩ giỏi nhưng mít đặïc về chính trị.” (trang 531)

 

Về vụ án “Nhân Văn-Giai Phẩm”, tác giả thuật lại lời nhạc sĩ Văn Cao nói rằng chủ mưu không phải ông Hồ, “ông cụ không nghĩ ra cái đó. Ông cụ không tệ đến thế.” Cũng không phải Tố Hữu hay Nguyễn Chí Thanh mà “tác giả chính là “Longue Marche”. Cậu nghe rơ chưa? Là -Trường Chính”. Văn Cao cũng nói cho Vũ Thư Hiên biết nhận định của ḿnh về thái độ của văn nghệ sĩ và của các nhà lănh đạo:

“Hồi ấy văn nghệ sĩ c̣n tin đảng lắm. Ǵ th́ ǵ đảng vẫn là đảng của ḿnh. Là ruột thịt của ḿnh. …Chẳng ai hô hào lật đổ các ông ấy cả. Chỉ có các ông ấy chu chéo lên: ối giời ơi có địch, có địch ngay trong hàng ngũ chúng ta, rồi dựng thành vụ để trấn áp.”

Nhưng không phải ai cũng nghĩ như Văn Cao. Một nhà báo trong một cuộc kiểm thảo đă chửi toáng lên. “Nhà báo Hùng Thao gầm lên: “Nuôi cán bộ như lợn, mắng như chó, thời trước địa chủ đối với tá điền cón tử tế hơn.” (trang 576)

 

Tác giả có thuật lại rằng sau đám tang Dương Bạch Mai đột tử trước khi đọc diễn văn chống đường lối thân Mao của lănh đạo, thấy tác giả vẫn c̣n đeo băng tang, có một người trong pḥng vệ sinh giả vờ đi tiểu để được đứng gần ông và nói: “—Tôi xấu hổ—anh th́ thầm—Tôi hèn. Anh khinh tôi cũng được, anh chửi tôi cũng được, nhưng xin anh thông cảm cho tôi—tôi có 4 đứa con nhỏ và một người vợ bệnh tật. Nếu không tôi đă không xử sự như vậy.” Tác giả viết rằng:”Trong buổi học tổ trước đó anh ta hùng hổ lên án “bọn phản bội xét lại hiện đại”, như một người “Mác xít lê ni nít” chính cống.” Rồi ông kết luận:

“Cái chế độ làm cho con người hèn đi không thể là chế độ xứng đáng với con người. Con người cần phải được sống trong tư thế đứng thẳng, ngẩng cao đầu.” (tr.282)

 

Nhưng trong xă hội mà ông đương sống “hầu như các nhà văn vào thời kỳ đó đều hèn một chút nếu không nhiều. Đó là bản năng tự vệ, có sẵn trong bất cứ sinh vật nào. Không hèn, chính anh sẽ rơi vào sổ đen, nhẹ th́ không đuợc lên lương, hoặc mất đứt cơ may được ra nước ngoài một chuyến. Nặng anh có thể bị đẩy đi lao động, chuyển công tác, hoặc bị tống ra ngoài biên chế. (trang 189)

 

Trần Dần được coi như một trong những trụ cột của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, thế mà sau khi bị bắt cũng không thoát được tiếng ch́ tiếng bấc. Chính Văn Cao nói với Vũ Thư Hiên: “Thằng Dần tiếng thế mà không có gan. Mới bị đánh đă gục, đă phản tỉnh lung tung. Nó khai với Tố Hữu rằng Văn Cao bảo tụi nó phục xuống mà đánh. Mà ḿnh có nói thế bao giờ đâu…” Tác giả bảo “tôi tin Văn Cao, nhưng tôi không nghĩ Trần Dần hèn. Tôi biết chỉnh huấn là thế nào. Trong không khí chỉnh huấn con người có thể bị biến đổi do tự kỷ ám thị trong một tập thể tự kỷ ám thị như trong cuộc lên đồng. Trần Dần khi tâm thần hoảng loạn, lại bị xúi dục, có thể bị ám thị rằng Văn Cao đă nói như thế. C̣n Văn Cao trong tâm trạng hậm hực cũng dễ hiểu nhầm bạn ḿnh lắm.”

 

Cái cách lư giải của Vũ Thư Hiên, ai không có kinh nghiệm về các h́nh thức tẩy năo, cải tạo tư tưởng và chỉnh huấn th́ không thể nào chấp nhận hay hiểu nổi. Mà đó là cái tàn ác đến tinh vi được Cộng Sản áp dụng thường xuyên, đối với đảng viên cũng như đối với nhân dân.

 

Nơi trang 118, nhắc đến Trần Dần tác giả viết:

“Tôi nhớ một hôm anh thủ thỉ: “Này, ḿnh cũng người Nam định đấy, cậu ạ. Cái vùng đất thịt này nổi tiếng v́ những văn tài và những kẻ bất phục. E rằng trong máu chúng ta có cả hai thứ,”…

“Trần Dần thương tôi, muốn tôi học được nết sợ hăi. Như anh đă học.

“Thế hệ chúng tôi bất hạnh: Chúng tôi ra đời trong thân phận nô lệ, lớn lên trong khói lửa chiến tranh và trưởng thành trong nỗi sợ hăi các đồng chí.”

Tâm trạng sợ sệt của Trần Dần, một cự tướng trong mặt trận Nhân Văn Giai Phẩm, và của Vũ Thư Hiên, một người muốn “đứng thẳng, ngẩng cao đầu”, cho thấy sức mạnh tàn bạo của đảng mà họ ghét nhưng sợ. Có hiểu được nỗi sợï hăi này mới hiểu được sự dè dặt trong những lời tuyên bố hay những trang sách của các tác giả mà chúng tôi chọn trưng dẫn trong soạn phẩm này.

 

Về một số nhân vật khác:

 

Trường Chinh:

Tác giả dựa vào nhận xét của cha ông để gán cho Trường Chinh những tội chủ trương tiêu thổ kháng chiến làm tan hoang các tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh hồi cuối thập niên 40 và tội chủ trương “tích cực cầm cự, chuyển mạnh sang tổng phản công” do chính ông thảo trong nghị quyết 9 vào đầu năm 1964. Ông cũng trưng dẫn Văn Cao bảo thủ phạm vụ án Nhân Văn Giai Phẩm là Trường Chinh.

 

Lê Duẩn:

“Vốn là một tên bẻ ghi đường sắt trước khi trở thành nhà độc tài, Lê Duẩn tất nhiên muốn chỉ bằng một cú gạt là bắt được con tầu quốc gia chạy theo ư ḿnh muốn.” (Trang 273)

“Theo nhận xét của các ông Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm th́ Lê Duẩn là người cực đoan về tính cách, phóng túng về hành xử.” (trang 324)

“Bằng vào những câu chuyện kể của họ (tác giả có ư nói những người bạn miền Nam tập kết của ông) khi họ c̣n ngưỡng mộ “anh Ba” th́ Lê Duẩn là người độc lập trong suy nghĩ, có biệt tài tổ chức, trong chỉ đạo có vẻ chặt chẽ, nhưng lại linh hoạt, thoáng đấy mà nghiêm đấy. Hồi kháng chiến chống Pháp, mặc dầu ở xa trung ương, nhưng chủ trương của ông đề ra vẫn khớp với chủ trương của trung ương trong mọi mặt. Người ta sùng bái ông, gọi ông là Cụ Hồ miền Nam.” (trang 325)

 

Tác giả nói về nghi vấn trong việc tướng Nguyễn B́nh, khá nổi danh ở miền Nam, bị giết. Ông bảo cha ông và một số người khác nói B́nh có mâu thuẫn với ban lănh đạo trung ương cục miền Nam (đứng đầu là Lê Duẩn ). Do đó “bị điều ra Bắc và hy sinh dọc đường trong t́nh trạng không được bảo vệ đầy đủ và lộ tŕnh bị lộ… Nhiều người nói bàn tay Lê Duẫn trong vụ này là rơ ràng, nhưng lại không chỉ ra được chứng cứ.” (trang 348)

 

Nguyễn Văn Linh:

“Nguyễn Văn Linh, theo cha tôi nhận xét, là người hiền lành , chân thật. Ông cũng đă trải qua nhà tù đế quốc, có tinh thần cách mạng kiên định, là người thực hiện chứ không phải người sáng tạo.

“Dưới thời tổng bí thư Nguyễn Văn Linh trên văn đàn Việt Nam đă xuất hiện một số tác phẩm dám nói lên sự thật, tuy không nhiều….

“Chính là nhờ có Nguyễn Văn Linh mà các văn nghệ sĩ bị buộc tội oan trong vụ Nhân Văn – Giai Phẩm mới được phép xuất hiện trở lại với người đọc.

“Không có Nguyễn Văn Linh th́ Dương Thu Hương không thể xuất bản được Bên Kia Bờ Ảo Vọng, Thiên Đường Mù, cho dù sau đó chị có bị trấn áp, bị bỏ tù rồi được thả ra, được xin lỗi, sau này c̣n được cầm hộ chiếu đi Paris.” (trang 296-297)

 

Vơ Nguyên Giáp:

“Nói đến Vơ Nguyên Giáp, cha tôi nhận xét ông Giáp có nhược điểm hay tránh né khi xảy ra bất đồng ư kiến. Với vẻ ngoài b́nh thản, pha chút cao ngạo, nhiều người tưởng ông kiêu ngạo đặt ḿnh trên những cuộc tranh luận. Thực ra ông bao giờ cũng sẵn sàng chịu lép vế trước người đối thoại hùng hổ. Tất nhiên, ở cương vị của ông số người dám áp đảo và áp đảo được ông không nhiều.” (trang 358)

“Rồi xem Văn (Vơ Nguyên Giáp) nó có dám chống lại thằng Duẫn với thằng Thọ không? –cha tôi nói—Tính nó vậy đấy, đứa nào to mồm là nó im. Chán lắm!

Sự việc diễn ra đúng như cha tôi tiên đoán. Vơ Nguyên Giáp im lặng ngay từ đầu, trong cuộc họp bộ chính trị trước khi họp trung ương.” (trang 359)

“Đúng là trong thời gian này trí thức có hướng về Vơ Nguyên Giáp thật. Người ta tin tướng Giáp, bởi v́ ông đă từng là giáo sư trường Thăng Long, chẳng ǵ cũng là trí thức, là người co ùhọc, chứ không phải loại dùi đục chấm mắm cáy.

“Nhưng tướng Giáp lại chẳng phải như người ta nghĩ. Ông đă phụ ḷng tin của trí thức. Thậm chí khi những đ̣n chuyên chính vô sản giáng xuống những người thân cận của ông, ông đă không dám hé răng nói một lời, mà chỉ ngoan ngoăn né sang một bên, mặc cho Lê Duẫn và Lê Đức Thọ muốn làm ǵ th́ làm.” (trang 334)

 

Nơi trang 350 và 351 tác giả đă nói lư do tướng Giáp bị thất sủng là do Lê Đức Thọ, dưới sự chỉ đạo của Lê Duẫn, đă khui ra bằng chứng ông tướng này khi c̣n là học sinh đă khúm núm trước Pháp để xin du học, và khoảng năm 1964 có tin đồn Giáp “lén lút liên lạc với Nikita Khrutshchev’’ bị đảng phát hiện. Nếu Hồ Chí Minh không can thiệp có lẽ tướng Giáp đă bị thanh trừng. Có lẽ những tỳ vết đó trong lư lịch ông làm ông đành cam phận? Nghĩa là chịu hèn cũng như nhiều người khác trong chế độ Cộng Sản?

 

Phạm văn Đồng:

“Tôi là thủ tướng lâu nhất thế giới và cũng là thủ tướng khổ nhất thế giới. Làm thủ tướng thật, tôi chẳng có quyền ǵ hết….”

“Ông Ưng văn Khiêm b́nh luận: Anh chàng này có một cái tội: đó là biết ḿnh không có quyền làm bất cái chi không có phép Ba Duẫn với Sáu Thọ mà lại không dám từ chức. Ông Trần Văn Giầu hóm hỉnh: “Cái đít con người ta có trí nhớ. Nó nhớ cái ghế.” Tôi được nghe Phạm Văn Đồng nói chuyện nhiều lần. Ông tỏ ra là người biết nhiều hiểu rộng, nhưng tôi thấy ít ai nói chuyện vô duyên như ông.” (trang 294)

“…Mai Lộc vốn rất sùng kính Phạm Văn Đồng buồn rầu nói với tôi: “Thần tượng của tôi sụp đổ rồi. Không ai mời ông ta cứ đ̣i đến, leo lên bục mà ba hoa, chẳng ai buồn nghe mà vẫn cứ nói.”

“Phạm văn Đồng, theo bà (mẹ tác giả) nhận xét là người không xấu, nhưng ba phải, vụng về và vô tích sự…Dư luận ca ngợi ông liêm khiết, ông đứng đắn, nhưng những ai quen biết ông đều hiểu ông không làm nổi tṛ ǵ trong những việc lẽ ra ông phải làm….

“…Ông không nuốn mất ḷng một ai, nhất là mất ḷng cấp trên. Quả nhiên đúng. Một đồng chí cũ thương mẹ tôi đến nói với Phạm Văn Đồng chuyện cha tôi bị bắt. Ông nghe rồi thở dài nói: “Việc tập thể quyết định, tôi làm ǵ được!” (trang 27)

 

Lê Đức Thọ (tên thật Phan Đ́nh Khải):

Vũ Thư Hiên coi Thọ là kẻ chủ mưu “vụ án xét lại chống đảng” mà cha con ông là nạn nhân, nên ông đă nói đến con người này ở rất nhiều chương, và đă để hầu trọn chương 31 để nói riêng về y và hai người em là Đinh Đức Thiện (tên thật: Phan Đ́nh Dinh) và Mai Chí Thọ (Phan Đ́nh Đống), với những cá tính và thói xấu của từng người. Ông cũng kể lại câu chuyện về “mồ mả” với khoa “phong thổ” do một người cháu ruột của Lê Đức Thọ, mà tác giả bảo là một nhà khoa học hẳn ḥi, kể cho ông nghe vào năm 1966 là năm thế lực của Thọ bao trùm ở miền Bắc, trong chức vụ trưởng ban tổ chức Trung Ương Đảng, mà y đă cải tổ và biến nó thành bộ máy quyền lực cực lớn cho Đảng và cho riêng ḿnh. Câu chuyện phong thổ này cũng như câu chuyện ông thầy bói mù tiên đoán đúng phoóc về số phận của tác giả đă tác động không ít đến định kiến của người duy vật trong ông. Hăy đọc vài câu của Vũ Thư Hiên nhận xét về Lê Đức Thọ:

“Con người cao to tóc bạc trắng, với giọng nói cố ư kéo dài bắt người nghe chờ đợi câu tiếp theo, để lại trong tôi ấn tượng nhạt nhẽo và khó chịu. Tôi dị ứng với những ǵ không thật. Trong Lê Đức Thọ tôi nh́n thấy đầy dẫy của giả. Mọi người khúm núm sợ sệt. Tôi dửng dưng, bằng con mắt lạnh lùng.

“Nước Việt Nam dân chủ cộng ḥa đă ở tuổi 30, chính quyền đă vững vàng, đám lănh tụ đă học thuộc bài lên xe xuống ngựa xênh xang, đệ tử bâu quanh như ruồi thấy mật. Một chút khiêm tốn giả vờ, một chút b́nh dân đóng kịch, trộn với rất nhiều phô trương quyền thế, là nét nổi bật trong Thọ. Nói tóm lại một tên hănh tiến điển h́nh.” (trang 548)

 

Tác giả có thuật lại lời của nhạc sĩ Văn Cao và của nhà khoa học Bùi Quang Trừng nói với ông về mộng lập liên bang Đông Dương với Lê Đức Thọ làm tổng bí thư. Do đó việc xua quân sang Cam Bốt năm 1978 là chính y chủ động v́ mục đích đó:

“Cuộc phiêu lưu quân sự (sang Cam Bốt, M.V.) được tiến hành theo sáng kiến và sự chỉ đạo của Lê Đức Thọ đă làm cho khoảng 52,000 chiến sĩ chết trận, 200,000 chiến sĩ bị thương….

“…Thọ đă chết trước khi phải ra đứng trước vành móng ngựa một phiên ṭa liên tịch hai nước, với tư cách tội phạm chiến tranh.

“Người duy nhất đủ tư cách thay mặt Thọ hôm nay là Lê Đức Anh.” (trang 562-563)

 

Vũ Thư Hiên đă thuật lại lời Hoàng Minh Chính kể cho ông nghe có lần Lê Đức Thọ đă nói với Hoàng Minh Chính: “ …Nó (một bà nọ) phải hiểu đảng là tao, là tao đây này! C̣n đi xin ở chỗ nào nữa?” (trang 329)

 

Cái người tự cho ḿnh là hiện thân của đảng Cộng Sản Việt Nam, cái đảng tự phụ là đảng yêu nước hơn bất cứ đảng nào ấy được Vũ Thư Hiên nói đến như một tên làm tay sai cho thực dân Pháp, phản bội các chiến sĩ cách mạng, mặc dầu ông bảo chỉ nghe người ta nói, nhưng không phải không đáng tin cậy:

“…Vào thời gian này, những cựu tù nhân Sơn La kể lại, Lê Đức Thọ một hồi được Cousso lấy ra làm tạp dịch tại nhà y. Cũng vào thời gian này một số việc bí mật của ban lănh đạo tù nhân bị lộ.”

Cha tác giả và tướng Đặng Kim Giang cùng bị giam ở Sơn La cùng thời gian đó chia sẻ với nhau về mối nghi ngờ đó. (trang 231)

“Dưới con mắt của ông (Đặng Kim Giang) Lê Đức Thọ là tên hạ lưu hănh tiến.” (trang 232)

 

Trần Ngọc Hoàn (ủy viên Bộ Chính Trị, bộ trưởng bộ Công An)

“Thằng lưu manh khó trở thành người tử tế, -ông (Vũ Đ́nh Huỳnh, cha tác giả) than với ông Đặng Kim Giang…

“… Bố anh không nói theo nghĩa bóng đâu. Nghĩa đen đấy, -ông (Nguyễn Tạo, thứ trưởng bộ Lâm Nghiệp) trả lời thắc mắc của tôi -chả là thằng này đích thực lưu manh anh ạ.”

“Năm 1992, tôi rời Việt Nam lần chót th́ ông Nguyễn Tạo c̣n sống. Tôi hy vọng ông c̣n sống lâu để kể câu chuyện kỳ lạ này cho nhân dân nghe.”

 

Sau đó tác giả đă viết lại những ǵ Nguyễn Tạo kể về cuộc đời của “Cảnh con”, tên của Trần Quốc Hoàn khi c̣n nhỏ, từ nhỏ tới lớn chuyên ăn cắp ra sao. Rồi tới chuyện y, lợi dụng vai tṛ “săn sóc sức khỏe” cho lănh tụ, hăm hiếp và thủ tiêu mấy chị em cô Xuân ra sao. Cô Xuân là vợ bí mật của ông Hồ Chí Minh, đă có với ông này một người con và được cha đặt tên là Nguyễn Tất Trung, sau được trao cho ông “Vũ Kỳ chăm sóc coi như con nuôi”. (4)

 

Hoàng Minh Chính:

“Ban lănh đạo căm ghét anh, quên mất rằng bằng những kiến nghị ấy HMC thể hiện một niềm tin lỗi thời ở Đảng.” (trang 295)

 

Hoàng, tên cán bộ chấp pháp thỉnh thoảng thay Huỳnh Ngự hỏi cung Vũ Thư Hiên, một buổi đă nói nhỏ với ông về Hoàng Minh Chính như sau:

“Anh không biết đấy thôi chứ Hoàng Minh Chính có mưu đồ lớn lắm, anh ta muốn lật đổ trung ương bằng một Đại Hội bất thường (Hoàng không nói đến đảo chính)…” (trang 430)

 

o O o

 

Để kết thúc chương này tôi xin đưa ra một nhận xét riêng rất giản lược về tác phẩm như sau: Một cuốn hồi kư hay. Có nhiều chỗ hay quá khiến có người nghi là không thực. Họ bảo những đoạn đối thoại, tranh luận với chấp pháp trong tù nói lên cái dũng khí của tác giả có vẻ hơi cường điệu, thêm thắt. Tỷ dụ như đoạn ông đập bàn quát mắng cán bộ chấp pháp tên Hoàng. Họ cho là tác giả tự cao mà bịa ra chứ làm ǵ trong tù có cái cảnh đó. Nhưng nếu đọc kỹ tác phẩm th́ thấy sau này tác giả đả được công an Việt Hùng cho ông biết Hoàng đă về hưu và hăy c̣n sống. (trang 756) Chẳng lẽ ông dám bịa ra chuyện đó mà không sợ Hoàng lên tiếng phủ nhận và bắt bẻ? Nếu bạn bị giam trong xà lim nhiều tháng liên tục như tác giả, lại thường xuyên bị hỏi cung theo kiểu tra tấn tinh thần đến phát điên lên được th́ chuyện nổi khùng mà mắng chửi người hỏi cung thậm chí muốn hành hung cũng có thể hiểu đuợc.

 

Riêng về con người tác giả và lập trường của ông, cũng như về t́nh h́nh chính trị theo nhận xét chủ quan của ông, chúng tôi sẽ xin bàn rộng hơn trong mục tổng kết. Tôi chỉ xin nói gọn rằng ông vẫn coi chủ nghĩa Mác có cái đẹp, cái hay của nó ở chỗ nó là một lư tưởng xă hội gần giống với lư tưởng Ky Tô giáo. Ông cho đó là chủ nghĩa xă hội. Ông không nói ǵ đến chủ nghĩa Cộng Sản. Ông không cho chủ nghĩa xă hội là một ảo tưởng.Nhưng ông kết án chủ nghĩa Lê-nin, chủ nghĩa Mao. Nhất là sự tàn bạo của Staline. V́ vậy ông ủng hộ Khrutshchev là người có can đảm đánh đổ thần tượng Staline và đưa ra một đường lối cởi mở hơn. Các bài viết và tác phẩm của ông phản ánh tư tưởng đó cho nên mới bị đánh, bị cấm. Và cũng chính v́ vậy sau này ông mới bị bắt. Nhưng ông lại nói ông chẳng theo chủ nghĩa xét-lại nào cả. Th́ cũng đúng thôi. Chính Khrutshchev có bao giờ nói ông ta chủ trương “xét lại” đâu. “Xét lại” là do những người chống Khrutshchev gán cho ông mà thôi. TH cũng như hầu hết các nhà văn và trí thức Cộng Sản phản tỉnh, đều cho rằng họ theo kháng chiến chống Pháp là đúng và đảng Cộng Sản có công thực chứ không cướp công kháng chiến.

 

Ông Hồ tuy có khuyết điểm, nhưng vẫn là lănh tụ tốt, hay ít ra là con người khó hiểu, chứ không độc ác. Nhận định đó, lập trường đó, dĩ nhiên người quốc gia chống Cộng không chấp nhận. Nhưng cũng phải công nhận tác giả thành thực, và có can đảm nói lên điều ḿnh nghĩ là phải, ở giữa những người không đồng ư với ḿnh. Hơn nữa ở trang 250, ông đă thú nhận ông “đần” và “ngu lâu” v́ không chịu nghe bà cô ông, vợ ông cũng như tiểu đoàn trưởng Đích coi những người Cộng Sản là “bất nhân,” “chế độ Cộng Sản không có tương lai”, và Hồ Chí Minh là “vua quỷ, quỷ vương”.(249,250)

 

Đọc hết cuốn hồi kư tôi có cảm tưởng tác giả đă cố biện minh cho việc cha con ông và một số đồng chí của cha ông theo Cộng Sản, không phải v́ chủ nghĩa Cộng Sản theo đúng nghĩa của nó, đúng bản chất ảo tưởng, cường đạo, tàn bạo v́ chủ trương đấu tranh giai cấp. Cha con ông cũng như họ theo Cộng Sản v́ nó có “dáng dấp Thiên Chúa Giáo, nơi mọi người đều là con cái Chúa” (trang 99), nó hứa hẹn một xă hội tốt đẹp và nhất là v́ nó giúp giải phóng dân tộc khỏi áp bức của thực dân phong kiến. Nhưng đến khi thấy nó thực hiện đấu tố dă man trong cải cách ruộng đất, bắt bớ giam cầm những người vô tội trong các vụ Nhân Văn -Giai Phẩm, chỉnh đốn tổ chức và nhất là vụ “án xét lại chống đảng” th́ mới bừng tỉnh (sau CCRĐ th́ chỉ mới “cảm thấy như có cái ǵ cục cựa trong tôi như là sự bừng tỉnh”), th́ đă muộn. Bừng tỉnh nhưng đành bó tay. V́ những người bạo miệng nói ra ư kiến bất đồng đều bị thủ tiêu. Mọi người đều đành sống hèn một chút cho qua ngày như phần đông văn nghệ sĩ, kể cả Trần Dần, Văn Cao vân vân…, nhưng cũng khối người hèn nhiều nhiều, từ Tú Mỡ, Thế Lữ, Nguyễn Tuân cho đến Nguyễn Đ́nh Thi, Chế Lan Viên vân vân… v́ họ c̣n muốn có cơm ăn, con cái được đi học… Tóm lại chính sách cào bằng kinh tế, thắt hầu bao, kiểm soát chặt chẽ di trú v.v… đă đẩy họ vào chốn sợ hăi liên miên, không dám có phản ứng quyết liệt. V́ vậy mà chế độ Cộng Sản tồn tại lâu ở Việt Nam. C̣n một vài lư do nữa khiến nó c̣n tồn tại cho đến tận ngày nay, sau khi nó đă tan biến ở Đông Âu một thập kỷ, chúng tôi sẽ bàn kỹ nơi chương cuối.

 

Chú Thích

 

(1) Đêm Giữa Ban Ngày, tác giả Vũ Thư Hiên, Văn Nghệ xuất bản năm 1997, trang 303.

(2) Gần xă Hành Thiện, quê của Trường Chinh Đặng Xuân Khu. Nhưng cũng có người nói ông Huỳnh quê Trung Lao, huyện Trực ninh, Nam định (?)

(3) Tờ Phụ Nữ Diễn Đàn của Chử Bá Anh, số 104, tháng 9 năm 1992 có đăng một bài dài về cuộc đời ông Vũ Đ́nh Huỳnh, trong phần kết luận đă cho biết: Theo một người mới từ Việt Nam sang Mỹ định cư, th́ ông Huỳnh trước khi chết vào ngày 3-5-1990, đă được một cán bộ trong ban tổ chức trung ương đảng đến bên giường tuyên bố trả lại đảng tịch cho ông. Nhưng lúc đó ông điếc, lại bị cấm khẩu. Ông chỉ giơ cỗ tràng hạt lên, không biết ai đă đặt vào tay ông lúc nào. Người nhà thấy thế đă đi t́m linh mục đến làm “phép giải tội” cho ông (mặc dù không có phần “xưng tội” về phía ông, v́ đă bị cấm khẩu.) và cho ông rước lễ, như “của ăn đàng”. Chuyện này có thật hay không, không thấy con ông nói đến trong “Đêm Giữa Ban Ngày”.

(4) Trang 597-609. Xin xem chi tiết trong phần phụ lục.

 

Chương 6: Nổi Loạn hay Nỗi Oan của Đào Hiếu

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính