Ngô Đ́nh Diệm và Chính Nghĩa Dân Tộc

 

Phụ Lục

 

Minh Vơ

 

 

Một lá thư dài của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm

 

 

Đây là thư riêng của Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm đề ngày 29-5-1956, trả lời thư của kư giả Joseph Buttinger viết cho ông trước đó 9 tháng. Trong cuốn Vietnam, The Unforgettable Tragedy xuất bản năm 1977 Buttinger đă phổ biến cả hai lá thư này để thanh minh với bạn bè trong báo giới về liên hệ phức tạp giữa ông và ông Diệm. Đồng thời cũng chứng tỏ ông đă từng vận động với ông Diệm để các lănh tụ đối lập có chỗ trong chính phủ lúc ấy như thế nào.

 

Chúng tôi chỉ dịch đăng bức thư phúc đáp của Thủ Tướng Diệm, để nói lên sự liên hệ thân t́nh của ông đối với một kư giả Mỹ, đồng thời cũng cho thấy nhận xét và thái độ của thủ tướng đối với vài nhân vật đảng phái lúc ấy, tại sao ông không trọng dụng họ theo đề nghị của Buttinger.

 

Trong phần tiểu sử Tổng Thống Diệm, chúng tôi đă trưng dẫn lời kư giả Buttinger hết lời ca tụng thủ tướng Diệm, coi việc ông làm như một phép lạ chính trị. Cho đến măi năm 1957, ông c̣n được Tổng Thống Diệm tin dùng để cho ông làm thông dịch viên chính thức trong các cuộc diễn thuyết hay họp báo tại Hoa Kỳ, nhân chuyến viếng thăm chính thức của Tổng Thống Diệm

 

Nhưng sau khi ông Diệm bị lật và bị giết, nhất là sau khi Hồ Chí Minh đă toàn thắng và chiếm trọn miền Nam, th́ lập trường của Buttinger thay đổi 180 độ. Ông quay ra mạt sát Tổng Thống Diệm và hết lời ca tụng Hồ Chí Minh, và nặng lời chê trách các nhà lănh đạo Mỹ. Bạn đọc của Hồ Chí Minh nhận định tổng hợp của Minh Vơ, chương 19 hẳn đă biết.

 

Joseph Buttinger (1906-1992), người Đức gốc Áo, từng là chủ tịch ban chấp hành đảng Dân Xă Áo Quốc khi mới 28 tuổi. Năm 33 tuổi ông sang Mỹ. Và 4 năm sau thành công dân Mỹ. Ông viết nhiều tác phẩm về Việt Nam trong đó có: Con Rồng Nhỏ, lịch sử chính trị Việt Nam, 1958; Dân thiểu số ở Việt Nam, 1961; Con Rồng nghênh chiến, lịch sử chính trị Việt Nam, 1967; Con Rồng Thách Đấu, lịch sử Việt Nam, 1972 và Việt Nam: Thảm Kịch không thể nào quên, 1977. Đọc Con Rồng Nghênh Chiến gần 1300 trang th́ thấy rơ tác giả có xu hướng xă hội tả phái rơ rệt.

 

 

Sau đây là thư phúc đáp của Thủ Tướng Diệm:

(bản dịch của MV từ bản dịch Anh văn của J. Buttinger từ nguyên bản bằng Pháp văn)

 

Sài G̣n ngày 29 tháng 5 năm 1956

 

Ông Buttinger thân mến,

 

Gần đây, nhân khi sửa chữa văn pḥng, nhân viên của tôi đă t́m thấy lá thư tôi trả lời thư tháng 8 năm ngoái của ông…, kẹt giữa 2 ngăn kéo… Xin ông thứ lỗi cho sự chậm trễ vô t́nh này khiến ông đă phải lo phiền trong một thời gian quá lâu cho Việt Nam mà ông đă tỏ t́nh thân hữu rất tích cực..

 

Nhưng sự bất tiện, phiền hà này lại có lợi cho tôi. V́ nó cho tôi dịp đọc lại một lần nữa với sự xúc động sâu xa thư của ông, một lá thư chứa chan mối thương cảm đối với đất nước tôi và cả sự quan tâm lo lắng nữa. Đó là điều rất đáng trân trọng.

 

Nó cũng đặc biệt trong sáng và biểu lộ sự sáng suốt của tác giả. V́ một năm trước, ông đă tiên liệu là cộng sản sẽ hành động vận dụng danh từ “tổng tuyển cử” mà thế giới tự do rất nhậy cảm, để t́m cách thôn tính miền Nam VN. Chắc ông biết rằng chúng tôi đă theo lời khuyên của ông để tổ chức các cuộc bầu cử tự do ở miền Nam, bất chấp những cố gắng phá hoại của Việt Cộng và sự e sợ vụ lợi của các đảng phái gọi là yêu nước.

 

Một số vấn đề ông nêu lên trong thư đă được giải quyết đúng cách. Mặc dầu thời gian đă trả lời cho nhiều câu hỏi khiến ông bận tâm lúc ấy, tôi vẫn c̣n muốn cùng ông trao đổi về đề tài này, v́ tôi nghĩ ông khó có thể đi sâu vào trọng tâm của người và việc của xứ sở này như tôi. Tuy nhiên tôi không mong muốn ông phải có kinh nghiệm đó.

 

Gần trăm năm đô hộ của thực dân và mười năm chiến tranh khốc liệt đă để lại hậu quả sâu đậm đối với Việt Nam, về thể chất đă đành, nhưng trên hết là về mặt tâm hồn. Thế hệ của những kẻ cấu thành giới thượng lưu để lănh đạo xứ sở này, tất cả đều được đào tạo tại các trường của Pháp. Vào thời gian họ theo học ở đó, có một cái mốt thời thượng, hoài nghi những điều nghiêm chỉnh, ảnh hưởng cả đến thái độ thờ ơ và thế tục.

 

Nước Pháp đă trả giá và hăy c̣n đang trả giá đắt cho sự sa sút tinh thần và trí tuệ trong khoảng thời gian 1930 đến 1940. Nhưng phản ứng của sự sa sút về văn hóa này là những thanh niên Việt khác tự lao đầu vào chủ nghĩa Phát-xít hay chủ nghĩa Cộng Sản. Chính do nhóm sau này mà các đảng CS ở Đông Dương ra đời. Trong khi đó lần lượt theo thứ tự thời gian các nhóm Việt Quốc, Cao Đài, Đại Việt, Ḥa Hảo cũng thành h́nh. Trái với CS được đào tạo một cách nghiêm chỉnh, các đảng quốc gia Việt và các nhóm Phát-xít vắng bóng giới trí thức không thích dính líu, v́ vậy chẳng đóng vai tṛ ǵ quan trọng cho Việt Minh hay tổ chức nào khác, những đảng quốc gia của chúng tôi rất kém cỏi về mặt chủ thuyết cũng như về tổ chức.

 

V́ vậy mà họ dễ bị Việt Minh loại trừ và thực dân chế ngự. Không thực tiễn và thiếu tinh thần, họ nghĩ chỉ cần tự xưng là chống cộng cũng đủ để thắng cộng, và họ c̣n nghĩ tất cả những ǵ cần làm là tự xưng cách mạng để được phép làm mọi sự dưới ánh sáng mặt trời. Trong chương tŕnh hành động của những đảng phái này, không thấy có một chữ chống phong kiến hay chống nạn bè phái.

 

Ngoài ra, mặc dù những tuyên bố của họ, không có lấy một đảng nào thực sự tin tưởng là có thể chống lại CS. Tôi chỉ đă nhận ra điều đó sau sáu tháng cầm quyền. Khi tôi ở sân bay Orly để lấy máy bay về nước với tư cách thủ tướng chính phủ Sài G̣n, ông Hoàng Xuân Hăn đă bảo tôi, ông ta sẽ sẵn sàng để tôi dùng nếu tôi sẵn ḷng thương thuyết với Việt Minh. Đàng khác ông Nguyễn Mạnh Hà lại đang cố gắng thực hiện kế hoạch sống chung (với CS). C̣n ông Hồ Hữu Tường, một người từng theo phe Tờ-rốt-kít (đệ Tứ) th́ đă thiếu lương thiện hơn những kẻ khác, khi giấu không cho ông (Buttinger, MV) biết cái chương tŕnh “Trung Lập Chế “ (Neutralism), mà ông ta có ư dùng làm b́nh phong che giấu chủ nghĩa sống chung cùng tồn tại với Việt Minh, nhưng là cam chịu sự chỉ dẫn của Việt Minh. Qua trung gian một người em là điệp viên CS, Tường đă bắt liên lạc với ông Phạm Công Tắc, ḥng đưa Cao Đài vào bẫy Việt Minh. Một trung tá Cao Đài từng là chính trị viên và cận thần của Phạm Công Tắc đă tiết lộ rằng tất cả những mánh lới đó đă khởi sự ngay từ tháng 7 năm 1954, sau cuộc gặp gỡ giữa Phạm Công Tắc và Phạm Văn Đồng ở Genève.

 

V́ thế Hồ Hữu Tường đề nghị “cung cấp cho ông Phạm Công Tắc phương tiện tài chính tối cần thiết để thành lập phong trào trung lập tại Đồng Tháp Mười trước đó đă tuyên bố tự trị.

 

Cũng chính Hồ Hữu Tường khi trở thành cố vấn của Bảy Viễn đă thúc đẩy Bảy Viễn khai chiến chống chính phủ. Vào thời gian anh ta phàn nàn với ông rằng anh ta bị chính phủ săn đuổi, chính là lúc anh ta di chuyển tự do từ Sài G̣n tới Paris nhiều lần. Ai cũng biết anh ta không thể có phương tiện tự túc để có thể di chuyển rất nhiều chuyến đi loại đó.

 

C̣n về bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn, ông này đă ba lần từ chối làm việc với tôi, viện cớ rằng chỉ có bộ Quốc Pḥng, chứ không thể bộ nào kém hơn, mới xứng với tham vọng của ông ta. Đàng khác các phe Cao Đài, B́nh Xuyên và Ḥa Hảo, không phe nào đồng ư cho Nguyễn Tôn Hoàn nhận bộ đó, v́ tất cả đều âm mưu tranh đấu để riêng phe ḿnh nắm bộ Quốc Pḥng. Đúng là Nguyễn Tôn Hoàn có nói với tôi rằng anh ta sẽ đảm nhận bộ đó với sự cộng tác của một nhóm nhỏ Ḥa Hảo dưới quyền Lâm Thành Nguyên, và nếu không được trao bộ quốc pḥng th́ sẽ nhận chức đại sứ tại Thái Lan. Thực ra, điều mà Hoàn thực sự hằng ước mơ là trở thành lănh tụ của một phái Đại Việt mới có quân đội riêng và một vùng tự trị. Anh ta đă luôn luôn theo đuổi giấc mộng đó một cách hăm hở không ngừng nghỉ. Anh ta đă hợp tác với người Pháp, để có được một vùng riêng cho ḿnh. Chẳng may, thủ lănh biệt động quân Đại Việt mà Pháp đặt ở Cai Lậy, có thể trở thành cái nhân của một phe phái mới, lại ly khai khỏi nhóm Nguyễn Tôn Hoàn để tranh đấu cho mộng riêng của anh ta. Tới nước đó, Hoàn bèn phải quay trở lại vói Lâm Thành Nguyên, một tiểu tướng của Ḥa Hảo ở Châu Đốc. Nguyên lúc ấy đang cố xin tôi cho y coi tỉnh Hà Tiên trong vịnh Xiêm La như phần thưởng về ḷng trung tín. Nguyễn Tôn Hoàn cũng đang vận động một cách hào hứng cho việc thương lượng đó. Khi Hoàn nói sẵn ḷng nhận chức đại sứ ở Băng Cốc, th́ một trong những lư do của anh ta là để có thể giúp Lâm Thành Nguyên một tay (buôn vũ khí, xây dựng chiến khu bí mật ở Thái Lan với những dân tỵ nạn nhờ sự giúp đỡ của bạn hữu, những người thuộc phe Ḥa Hảo). Một lư do khác là anh ta không tin rằng có thể có cách nào chống lại nổi Việt Minh hay Pháp. Đó chính là điều anh ta nói với Ngô Đ́nh Nhu em tôi khi anh ta xin chú ấy can thiệp với phe B́nh Xuyên, đang nắm Cảnh Sát Công An, cấp chiếu khán cho anh ta có thể bay sang Pháp.

 

Khi Hoàn từ chối không nhận tham gia chính phủ trung ương, tôi đă đưa ra một giải pháp khác mời Đại Việt hợp tác ở những cấp thấp hơn. Bằng cách đó, họ đă được giao ngành Cảnh Sát, Công An và nhân dân tự vệ cấp tỉnh của một tỉnh quan trọng là Quảng Trị ở ngay vĩ tuyến 17. Nhưng Hoàn cho đàn em tin rằng họ sẽ được Mỹ và Pháp ủng hộ, và ra lệnh cho đảng viên ở Quảng Trị và Thừa Thiên, cấu kết với phe Nguyễn Văn Hinh, và với sự khuyến khích của Pháp, quay lại ly khai với chính phủ và thành lập một khu bí mật ở Ba Ḷng. Tuy được Pháp vũ trang và tiếp tế, nhóm ly khai này đă bị đánh bại hầu như ngay tức khắc. Bởi v́ hầu hết binh sĩ đă từng theo họ đă rời bỏ khi vừa nhận ra ḿnh bị lợi dụng và phản bội. Nhóm Đại Việt Nguyễn Tôn Hoàn hiện đang ẩn náu nhờ người Pháp che chở, trước nhất ở trong trại Chanson. Tại đây người Pháp đă lập cho họ một đài phát thanh mạnh dùng để đả kích loạn xạ chính phủ hàng ngày bằng những luận điệu tuyên truyền bỉ ổi. Sau đó là ở Seno (Ai Lao. MV) là nơi họ tiếp tục vai tṛ phản bội. Vừa đây Việt Tấn Xă đă công bố một lá thư của Nguyễn Tôn Hoàn gửi cho Guy Mollet xin Pháp can thiệp để bảo vệ Việt Nam. Nguyễn Tôn Hoàn không phải là thí dụ duy nhất về chính trị gia, không được huấn luyện (về chính trị), t́m cách chiếm quyền bằng sức mạnh, mà họ cũng chẳng có.

 

Một số khác cố vận dụng một nhóm Cao Đài ly khai để thực hiện mộng đảo chính kiểu Phát xít với sự trợ giúp của ngoại bang, như trường hợp bác sĩ Phan Quang Đán chẳng hạn. Anh này đánh lừa tướng Nguyễn Thành Phương bằng cách làm cho Phương tin rằng anh ta được đảng Dân Chủ Mỹ ủng hộ, và được coi như con cưng của đảng Dân Chủ. Một người trong nhóm Phan Quang Đán là Nguyễn Bảo Toàn đă dựng một cửa hàng tại Nữu Ước. Anh ta tới đó sau khi lấy cắp 5 triệu Đồng tức toàn bộ ngân quỹ của đảng Dân Xă Ḥa Hảo do tướng Nguyễn Giác Ngộ lănh đạo. Hiện tướng Ngộ đang chờ anh ta về để nhả số tiền đó ra. Nguyễn Bảo Toàn thường nói tiếng nói Dân Chủ thuần túy, nhưng lại là kẻ chống bầu cử ở miền Nam. Đă bao lần Toàn đến gặp tôi để khuyên không nên dùng biện pháp bầu cử để bầu quốc hội, lấy cớ là chắc chắn Việt Minh sẽ thắng. Theo ông ta, cách khôn ngoan hơn là trưng cầu dân ư về một chủ tịch đoàn gồm những thành viên của nhiều đảng phái khác nhau mà có lẽ tôi sẽ có thể chỉ định. Thực ra đă không có ai trong những vị đó dám đưa tên ứng cử trong các cuộc bầu cử hồi tháng 3. V́ vốn không được nhân dân tín nhiệm, họ sợ sẽ thất bại.

 

Đây là một vài loại người hay tổ chức cho rằng họ có thể cai trị xứ này, ở giữa những hoàn cảnh ngoại lệ như hoàn cảnh mà Việt Nam đang trải qua. Ngay cả những chính quyền tự do nhất cũng luôn luôn dự trù phải có một hệ thống chuyển quyền đối với một dân tộc đang trải qua trạng thái từ một thuộc địa chuyển sang một nước độc lập, v́ sợ sẽ thụt lùi về trạng thái nô lệ với những thành phần phong kiến đang tồn tại. Hoặc giả v́ thiếu nhân tài để điều hành chính phủ hay để bảo vệ xứ sở khỏi những tham vọng của đế quốc ngoại lai. Khi nh́n vào những khó khăn gặp phải hàng ngày từ mọi lănh vực, người Việt chúng tôi hầu như muốn tin rằng những thế lực (đảng phái) nói trên có thể có lư khi họ nghĩ vậy. Bỏi v́ chúng tôi đă phải cố gắng liên tục căng thẳng không ngừng nghỉ trong khi cơ chế chính quyền quốc gia bị ung thư Cộng Sản tàn phá. Nhưng tự buông thả để rơi vào sự cám dỗ của những giải pháp dễ dàng nhưng cũng ảo tưởng là một sự phản bội đối với vận mệnh của chúng tôi. Bởi v́ không có ǵ dễ dàng trong cuộc sống của một con người hay của một dân tộc. Điều chính yếu là phải có một lư tưởng và cố gắng thực hiện lư tưởng đó bất chấp mọi gió băo thời cuộc. Đó chẳng phải là tinh túy của dân chủ sao?

 

Bởi v́ dân chủ không phải là thứ ǵ có thể đạt được một lần là xong, mà là một cố gắng kiên tŕ đi t́m những phương tiện thích hợp để bảo đảm cho nhân loại một sự tự do tối đa, một trách nhiệm tối đa và một cơ hội tốt nhất cho cuộc sống tinh thần. (Xin xem thông điệp tôi gửi Quốc Hội ngày 12-4-1956). Mục đích của chúng tôi là với những phương tiện hiện có và trong giới hạn mà lịch sử áp đặt lên chúng tôi, tạo được một thể chế cởi mở, để phân biệt khỏi một hệ thống chính trị đóng kín được dựng lên xung quanh một người hay một đảng.

 

Trong quá tŕnh tranh đấu và tiến bộ của chúng tôi, lối đi càng ngày càng mở rộng, nhờ Ơn Trên. Chúng tôi đă có một quốc hội dân cử. Nay mai sẽ có hiến pháp. Khi nghĩ đến những nước khác ở Đông Nam Á dù không gặp những khó khăn như chúng tôi mà cũng cần tới 5 năm, hay 8 năm mới có được bản hiến pháp, th́ chúng tôi có thể cảm thấy hài ḷng về những ǵ đă đạt được trong một thời gian ngắn như vậy. T́nh h́nh hiện nay chắc hẳn đă tốt hơn cách nay một năm. Nhưng năm nay là năm quyết định của chúng tôi. Không thể có chỗ cho những chính khách mạo hiểm hay tay mơ. Phải đối diện với một kẻ thù không thể thắng, bậc thầy về nghệ thuật chính trị, chúng tôi cần phải đưa ra một mặt trận vững chắc để kháng cự, không t́ vết nứt rạn từ mọi góc độ.

 

Nêu ra như thế để, thưa ông Buttinger thân mến, cho ông biết tôi biết ơn dường nào đối với ông và các bạn của chúng ta ở bên ấy đă nâng đỡ chúng tôi. Tôi hy vọng ông sẽ có dịp trở lại Việt Nam này một lần nữa. Nơi đây chắc chắn ông sẽ được tiếp đăi một cách nồng hậu nhất. Dịp đó ông nên dẫn ông Sachs theo, v́ không dễ dàng để mà viết về lịch sử hiện đại của dân tộc Việt Nam từ Paris. Trong ṿng một năm qua đă có nhiều thay đổi tại đây. Các ông sẽ có thể thấy rơ hơn nhiều những ǵ đang xảy ra khi đến xem tại chỗ.

 

Nhưng tôi thấy đă muộn rồi và phải chuẩn bị tiếp khách đă lấy hẹn. Trong khi mong chờ cái thú được gặp lại ông sớm, xin gửi ông lời chúc tốt đẹp nhất.

 

 

NGÔ Đ̀NH DIỆM

 -ooo0ooo-

 

 

 

Lời cuối sách

 

 

Qua gần 400 trang sách với những chứng pệu rơ ràng minh bạch chúng tôi hy vọng bạn đọc đă thấy một Ngô Đ́nh Diệm khác hẳn những ǵ mà một số đông tác giả có thiên kiến hay ác cảm với ông đă mô tả về ông.trong mấy thập niên qua.

 

Chẳng những ông không quá kém cỏi về chính trị mà c̣n là một chính khách có khả năng phi thường và những viễn kiến lạ lùng như một nhà tiên tri. Ông không phải là người chẳng làm được ǵ mà chỉ may mắn được Mỹ và Vatican “bồng lên đặt vào ghế thủ tướng”. Trái lại kể từ khi rũ áo từ quan năm 32 tuổi, ông đă không ngừng vận động, tranh đấu cho nền độc lập hoàn toàn của Tổ Quốc, luôn luôn nêu cao ngọn cờ chính nghĩa dân tộc. Những việc ông làm trong thời gian cầm quyền, nhất là trong hai năm đầu đă vượt xa hẳn những người đả kích, phê b́nh ông. Ngay cả những kư giả thiên cộng hay tả phái cũng gọi đó là phép lạ về chính trị.

 

Người ta đă phê b́nh ông độc tài. Nhưng so sánh với nền độc tài đẫm máu của miền Bắc, th́ đó chỉ là một nền độc tài nhân từ khó tránh trong một nước đang có chiến tranh. Không thiếu người c̣n phê b́nh ông độc tài chưa đủ.

 

Người ta đă cáo buộc ông kỳ thị, đàn áp Phật Giáo. Nhưng phái đoàn điều tra của pên Hiệp Quốc đă kết luận không có kỳ thị hay đàn áp. Những nhân vật nổi tiếng như Nixon, Bảo Đại đều khẳng định những hoạt động đấu tranh của một phe nhóm Phật Giáo quá khích là mưu đồ chính trị, chứ không phải v́ tự do tôn giáo.

Chỉ cần đọc lại hai trang 91-92 (chú thích 65) th́ thấy rơ vị thượng tọa đầy tham vọng và có ảnh hưởng Thích Trí Quang, mà cho đến nay vẫn c̣n nhiều người lầm tưởng là có công tranh đấu cho đạo Phật, thực ra chỉ là một chuyên viên khuấy động quần chúng. Ông đă pên lạc, mưu tính với những người Mỹ muốn giết ông Diệm, như Cabot Lodge với mưu đồ thỏa măn tham vọng quyền lực chính trị. Ông không phải là một vị chân tu đáng kính. Người cung cấp chứng pệu đó chính là một tướng làm đảo chính.

 

Cứ đọc hai trang 204-205 (chú thích 22), th́ sẽ thấy người Mỹ đă “tổ chức, và khởi động” (nguyên văn của bộ trưởng Quốc Pḥng Mỹ McNamara: Organize and set in motion) cuộc đảo chính ra sao, và đă cử đại diện đến chứng kiến, điều khiển, theo dơi, giúp đỡ, ủy lạo cuộc đảo chính ra sao. Chứng pệu này do chính một tướng làm đảo chính khác cung cấp. Quân sĩ Việt Nam Cộng Ḥa trước đây thật xấu hổ v́ trong hàng ngũ ḿnh có những kẻ muối mặt đi nhận tiền của ngoại bang để giết một nhà ái quốc.

 

Chỉ khi nào chúng ta nh́n ra mối nhục đó và trả lại danh thơm tiếng tốt cho lănh tụ khả kính nhất của người Quốc Gia th́ mới mong con cháu chúng ta có cơ hội chiến thắng Việt Cộng là những kẻ đang bắt toàn dân tôn thờ thần tượng Hồ Chí Minh và thần phục đàn anh phương Bắc.

 

 

Thư Mục

 

* Tác giả Việt Nam

 

Bảo Đại:  Con Rồng Việt Nam, bản dịch của Nguyễn Phước Tộc, Capfornia, 1990

Bùi Diễm:In The Jaws of History, viết chung với David Chanoff, nxb Houghton Miffin Co, Boston, 1987

Bùi Tín:Hoa Xuyên Tuyết, Nhân Quyền, Paris, 1991.

Cao Thế Dung (viết với Lương Khải Minh):

  • Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống? Ḥa B́nh, SàiG̣n, 1965

  • Việt Nam 30 năm máu lửa, nxb Alfa, Falls Church, VA, 1991

Duyên Anh: Ngày Dài Nhất, Xuân Thu, USA, 1988

Đoàn Thêm: Hai Mươi Năm Qua: 1945-1964, việc từng ngày, Xuân Thu, California.

Đỗ Mậu: Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, Văn Nghệ, California, 1993.

Đỗ Thọ: Nhật Kư Đỗ Thọ, Ḥa B́nh, Sài G̣n, 1970

Hoàng Hữu Quưnh: Tôi Bỏ Đảng, Paris, 1989.

Hoàng Lạc  Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1965 Những sự thật chưa hề nhắc đến, 1991

Hoàng Ngọc Thành Thân Thị Nhân Đức: Những Ngày Cuối Cùng của TT Ngô Đ́nh Diệm, Cali, 1994

Hồ Sỹ Khuê: Hồ Chí Minh, Ngô Đ́nh Diệm và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, Văn Nghệ, Cali, 1992

Huỳnh Văn Lang: Nhân Chứng Một Chế Độ, Văn Nghệ, Nam Cali, 1999 (?)

Lư Đông A:

  • Huyết Hoa, Vạn Thắng thư cục, 1992

  • Đạo Trường Ngâm, Vạn Thắng, 1992

Minh Vơ: Ngô Đ́nh Diệm, Lời khen tiếng chê, Thông Vũ, tái bản lần 2, 2002

Nguyễn Cao Kỳ: Twenty Years And Twenty Days, Stein and Day, NY, 1076

Nguyễn Chánh Thi: Một Trời Tâm Sự, Xuân Thu, Cali, 1987

Nguyễn Hữu Duệ: Nhớ Lại Những Ngày Ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm, Nam Cali, 2000

Nguyễn Ngọc Phách: Việt Sử Đương Đại qua 200 câu vè bất hủ, Melbourne, Australia, 2007

Nguyễn Văn Châu: Ngô Đ́nh Diệm Và Nỗ Lực Ḥa B́nh Dang Dở, Xuân Thu, 1989, bản dịch của Nguyễn Vy Khanh từ nguyên tác Pháp văn “Ngô Đ́nh Diệm en 1963: Une autre paix manquée”, luận án sử học, trường Đại Học Paris VII, 1982.

Nguyễn Văn Chức: Việt Nam Chính Sử, hay là Những sai lầm trong “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi” và gian trá của Đỗ Mậu, 1992

Nguyễn Văn Minh:

  • Ḍng Họ Ngô Đ́nh, Giấc Mơ Chưa Đạt, Hoàng Nguyên, Nam Cali, 2003

  • Những Bí Ẩn Về Cái Chết Của Việt Nam, Kissinger trong bẫy sập, Người Việt, Cali, 1977.

  • Việt Nam Tự Do, từ Ngô Đ́nh Diệm đến lưu vong, Nam Cali, 1987

Phạm Văn Bính: Ông Vua của nền Cộng Ḥa Đệ Nhất: Ngô Đ́nh Diệm

Phạm Văn Sơn: Việt Sử Tân Biên, Đại Nam, Sài G̣n, 1972

Phan Bội Châu: Phan Bội Châu Niên Biểu, Nhóm Nghiên Cứu Sử Địa, Sài G̣n, 1971.

Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm: Lịch sử Phật Giáo Xứ Huế, nxb Tp HCM 2006

Trần Thị Liên: Les Catholiques et La République Démocratique du Vietnam

Trần Văn Đôn:

  • Our Endlless War: Inside Vietnam, San Rafael, Calif. Presidio Press, 1978

  • Việt Nam Nhân Chứng, nxb Xuân Thu, Cali, 1989

Trương Như Tảng (viết chung với David Chanoff Đoàn Văn Toại): A Việt Cộng’s Memoir, Harcourt Brace Jovanovich, San Diego, 1985

Văn Tiến Dũng: Về Cuộc Kháng Chiến Chống Mỹ Cứu Nước, nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội, 1996

Vĩnh Phúc: Những huyền thoại và sự thật về chế độ Ngô Đ́nh Diệm, Tam Vĩnh, London, 2006.

Vũ Thư Hiên: Đêm Giữa Ban Ngày, Văn Nghệ, Nam Cali, 1997

Xuân Vũ: Mạng Người Lá Rụng, Xuân Thu, 1990

 

 

* Tác giả ngoại quốc:

 

Bouscaren, Anthony Travick: The last of the mandarins: Diem of Vietnam, Duquesne University Press, Pitsburg, PA, 1965

Buttinger, Joseph:

  • The Smaller Dragon, Frederick A. Praeger, NY, 1958

  • Vietnam: The Unforgettable Trageedy, Horizon Press, 1977

Catton, Phipp E.: Diem’s Final Failure, Prelude to America’s War In Vietnam, University Press Of Kansas, 2002

Colby, William E. and Peter Forbath:

  • Honorable Men, My life In The CIA, Simon and Schuster,NY, 1978

  • Lost Victory, Contemporary Books, NY, 1989

Devillers, Philippe:

  • Histoire du Viet-Nam de 1940 à 1952, Troiśeme édition revue et corrigée, Édition du Seuil, Paris VI ème, 1952

  • End of A War, from French original: La Fin d’une Guerre, Frederick A. Praeger, Inc. NY, 1970

Dooley, Thomas A.: Deliver us from evil, the story of Vietnam’s flight to freedom, Farrar, Straus and Giroux, 1977 (21st edition)

Duncanson, Dennis J.: Government And Revolution in Vietnam, Oxford University Press, 1966

Fall, Bernard: The Two Vietnams, Frderick A. Praeger, USA 1967

Halberstam, David:

  • The Making of a Quagmire, Random House, NY, 1965

  • The Best And The Brightest

Hammer, Ellen:

  • The Struggle for Indochina, Stnaford University, 1954

  • A Death in November: America In Vietnam, 1963, E. P. Dutton, 1987

Hayslip, Le Ly: When Heaven And Earth change places, Double Day, NY, 1989

Higgins, Marguerite: Our Vietnam nightmare, Harper & Row, 1965

Jacobs, Seth: America’s Miracle Man in Vietnam, Duke University Press, Durham & L’Oneon, 2004

Karnow, Stanley: Vietnam, A History, Pinguin Group, NY, 1991

Kissinger, Henry: Years Of Renewal, Simon and Schuster, NY, 1999

Ladejinsky, Wolf: Agrarian Reform in The Republic of Vietnam, Free Press of Glencoe, 1961

Lindholm, Richard W.: Vietnam the first five years (1954-1959), Michigan State University Press, 11959

Lodge, Henry Cabot: The Storm has many eyes, W. W. Norton Inc. NY, 1973.

McNamara, Robert:

  • In Retrospect: Tragedy and Lessons from Vietnam, random House Inc, NY, 1995

  • Argument without end, in search of answers to the Vietnam tragedy, Public Affairs, NY, 1999

Mark Moyar: Triumph Forsaken The Vietnam War, 1954-1965, Cambridge University Press, 2006

Maneli, Mieczyslaw: War Of The Vanquished, bản Anh ngữ của Maria De Gorgey, Harper & Row, 1971

Miller, Edward: Vision, Power And Agency: The Ascent of Ngô Đ́nh Diệm, Journal Of SEA Studies, Oct. 2004

Newman, John M.: JFK And Vietnam. A Time Warner Co.1992

Nixon, Richard M.:

  • The Real War, Warner Books Inc., NY, 1980

  • Real Peace, Warner Books Inc., NY 1984

  • No More Vietnams, 1985

  • 1999, Victory Without War, Simon and Schuster, NY, London, Toronto, Syney, Tokyo, 1988

Nolting, Frederick: From Trust to Tragedy, Praeger, NY, 1988

Schlesinger, Jr., Arthur M.: A Thousand Days: John F. Kennedy In The White House, The Riverside Press, Cambridge, 1965

Shah, Ikbal Ali, Sirdar: Vietnam, 1960

Shaplen, Robert: A Reporter in Vietnam, NY, Sept 22, 1962

Sheehan, Neil:

  • A Bright Shining lie, Random, NY, 1988

  • After The War Was Over, 1999

Strausz-Hupé, Robert: Prootracted Conflict, Harper and Brothers, NY, 1959

Suzanne Labin: Vietnam, An Eye-Witness Account, Crestwood Books, VA, 1964 (Bản Anh ngữ của tác phẩm này xuất bản và tái bản 3 lần liền trong 3 tháng 7, 8 và 9 năm 1964. Bản tham khảo ở đây là lần thứ 3. Không biết đă phải là lần chót chưa.)

Taylor, Maxwell D.: Swords And Plowshares WW. Norton and Company Inc. NY, 1970

Thompson, Robert: Defeating Communist Insurgency: The lesson of Malaya and Vietnam, NY, Frederick A. Praeger 1967

Warner, Denis: The Last Confucian: Vietnam, South-East-Asia, and the West, The Macmillan, NY, 1963

Winters, Francis X.: The Year Of The Hare: America in Vietnam, Jan.25, 1963 to Feb.15, 1964, University of Georgia Press, Athens, 1997

Young, Marilyn B.: The Vietnam Wars, 1945-1990, Harper Collins, 1991

 

* Báo chí Việt Ngữ:

 

Báo Ánh Sáng, số 11-11-1935

Chính Việt số 11, tháng 11-2007

Con Đường Chính Nghĩa

Diễn Đàn Phụ Nữ, Quận Cam, 1992-1998

Đời số 29, Sài G̣n, 23-10-1970

Tân Văn số 9, tháng 4,2008

Thế Kỷ 21, Quận Cam, số 208, tháng 8 năm 2006

Tiếng Dân 27-12-1933

* Báo chí ngoại ngữ:

 

Journal of Southeast Asian Studies, London, October 2004

Life May 2nd, 1955

New York Times Dec. 31, 1990

The Commonwealth, September 21, 1962

Time April, 1955 & Jan. 14, 1966

US News & World Report Aug. 10, 1998

Washington Post Nov 11, 1995

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính