Hồi kư của một tên Việt Cộng

 

Minh Vơ

 

 

“Nhưng các đồng chí đảng viên không thể nào bị thuyết phục bởi những luận cứ t́nh cảm hay lẽ phải. Họ đă từ bỏ cả lương tâm lẫn cảm quan thực tiễn v́ những tín điều tôn giáo chính trị mà họ cho rằng không thể sai lầm. Giữa niềm tin sắt thép và ngạo mạn của họ”. Trương như Tảng.

 

       VC Trương Như Tảng

 

Hai từ Việt Cộng (thường được người Mỹ gọi tắt là Vi-Xi (V.C.=Vietnamese communists) có nghĩa là người cộng sản Việt Nam. Trong thực tế chúng chỉ những kẻ theo cộng sản để chống chính quyền Quốc Gia, dù họ có phải là đảng viên cộng sản hay không. Cũng như trước kia có nhiều người theo Việt Minh kháng chiến chống Pháp mà Việt Minh th́ do đảng cộng sản lănh đạo, nhưng không phải ai kháng chiến chống Pháp cũng là cộng sản. Hơn nữa, trong sách bộ ngoại ngữ, hai tiếng “Việt Cộng” thường được dùng để chỉ lính hay cán bộ thuộc mặt trận “Giải Phóng Miền Nam”, chứ không phải bộ đội hay cán bộ miền Bắc. Nguyên cái phức tạp của nguồn gốc từ ngữ ấy cũng đă cho thấy phần nào khía cạnh phức tạp của cuộc chiến tranh quốc cộng trong ba thập niên. 

 

Chính v́ vậy Trương như Tảng đă đề tựa cuốn hồi kư của ông ta là Hồi Kư của một Việt Cộng (nguyên văn bằng Pháp Ngữ: “Mémoire d'un Vietcong”, và bản dịch Anh Ngữ: “A Vietcong Memoir”). (1) Mà trong tác phẩm này ông lại cho biết ông không phải là đảng viên cộng sản Việt Nam, và nhiều thành viên trong Mặt trận cũng như trong “chính phủ lâm thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam” cũng không phải là đảng viên cộng sản. 

 

Với cương vị một cựu Bộ Trưởng tư pháp của “chính phủ lâm thời cộng ḥa miền Nam Việt Nam”, là chính phủ đă được ngồi ngang hàng với chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa dưới quyền Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại ḥa đàm Paris, Trương như Tảng đă được người ngoại quốc hết sức chú ư khi ông rời bỏ hàng ngũ cộng sản, để t́m về với thế giới tự do. Nhất là khi ông cho ra cuốn hồi kư viết rất cẩn thận, gồm nhiều chi tiết lư thú lôi cuốn người đọc, như những đoạn tả cảnh sinh hoạt lén lút cực kỳ gian khổ trong rừng ở biên giới Việt Miên, hay cảnh cùng với hàng chục “thuyền nhân” chen chúc trên chiếc tầu nhỏ xíu lênh đênh trên biển cả trong một tuần lễ, với bao trắc trở, hiểm nguy. 

 

Trong cuốn hồi kư này họ Trương cũng nói khá chi tiết về thân thế và công việc làm của ông trong vùng quốc gia cũng như ở ngoài “bưng”, qua đó người đọc có thể biết thêm nhiều thủ đoạn, mưu mô mánh lới của đảng và sự việc những nhà trí thức miền Nam bị cộng sản đánh lừa và phản bội ra sao. 

 

Ông hănh diện được ở trong một gia đ́nh mà cả 6 anh em đều thành đạt gần đúng như sự mong muốn và xếp đặt của cha ông, ngay từ khi ông mới 13 tuổi: Một Bác Sĩ, một Dược Sĩ, một Giám Đốc Ngân Hàng và 3 Kỹ Sư. Sau khi tốt nghiệp Trung Học Chasseloup-Laubat, là nơi ông có những người bạn nổi tiếng như Norodom Sihanouk, Dương quỳnh Hoa, Phạm ngọc Thảo v.v…ông được gia đ́nh gửi sang Pháp du học. Ông là người con duy nhất trong gia đ́nh không theo đúng lời dặn của cha là phải học Dược, v́ đă bỏ khoa này nửa chừng để chuyển sang học Chính Trị và Luật. Ông đă thi đậu cao học chính trị và cử nhân luật năm 1951. Rồi đi theo cộng sản Pháp chống chiến tranh. Cha ông hiểu cộng sản. Gia đ́nh ông đă bị điêu đứng v́ cộng sản. Cơ sở làm ăn buôn bán của gia đ́nh ông bị cộng sản phá sạch. V́ vậy khi nghe tin ông theo cộng sản. Cha ông gọi ông về. Ông không về. Cha ông và cha vị hôn thê của ông bày mưu đưa cô này, lúc ấy mới 17 tuổi, sang Pháp làm đám cưới với ông, rồi đưa đi thăm thú nơi nọ nơi kia với mục đích làm ông mê vợ trẻ, quên chính trị. Nhưng ông lại thuyết phục được vợ theo chí hướng của ông mà cả hai coi là “chủ nghĩa yêu nước”. Đến nước này gia đ́nh hai bên chỉ c̣n cách làm áp lực tài chính. Cắt chuyển ngân. Không tiếp tế  ǵ nữa. Trương Như Tảng bèn để vợ mang bầu về Sài G̣n c̣n ḿnh ở lại đi rửa chén, gọt khoai kiếm tiền sinh sống ngỏ hầu có thể tiếp tục theo hướng đi đă vặch sẵn. Nhưng rồi sau ông cũng mềm ḷng v́ thương gia đ́nh, (cha ông không c̣n đủ tiền cho các anh em ông tiếp tục theo học). Ông về nước vào năm 1954. Ông đă kể rơ trường hợp đó trong hai chương 3 và 4 của cuốn hồi kư. 

 

Khi mới chân ướt chân ráo tới Pháp ông đă được hân hạnh gặp Hồ chí Minh cũng vừa tới để thương thuyết với Sainteny. (1bis) Ông Hồ đă để cả một buổi chiều tiếp ông và một nữ sinh khác cũng người miền Nam tại pḥng làm việc của phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ở Fontainebleau. Cuộc gặp gỡ này đă để lại cho ông một kỷ niệm khó quên và những t́nh cảm sâu đậm dành cho ông Hồ, người luôn bắt ông phải gọi là “bác” chứ không được xưng hô là Hồ chủ tịch, hay chủ tịch. Cũng v́ vậy cho nên khi về nước vào năm 1954, ông đă từ khước lời mời của những Vơ Văn Hải, Ngô Khắc Tỉnh, Trần Hữu Thế là những người quốc gia chống cộng, để rồi chạy theo những người thuộc phe ông Hồ. Ngay từ 1958 ông đă bắt đầu hoạt động bí mật cho cộng sản, tại Sài G̣n. Sau khi Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm bị lật đổ, ông được cử làm Tổng Giám Đốc Công Ty Đường Việt Nam, một công ty quốc gia lớn với trên 5000 nhân viên. Trong thời gian này theo ông cho biết (2) ông đă hoạt động ngầm qua hai tổ chức thân cộng là “Phong trào Tự Quyết” và “Ủy ban bảo vệ Ḥa B́nh” do Bác Sĩ Phạm văn Huyến, cha của Nữ Luật Sư Ngô bá Thành, điều khiển. Năm 1967, do sự “phản bội” của Ba Trà, một cán bộ cộng sản khác, hành tung của ông bị bại lộ và ông bị cảnh sát quốc gia bắt giam. Nhờ có Trần bạch Đằng (3) thu xếp với người Mỹ về trao đổi tù binh, ông được phóng thích cùng với vợ của Trần bạch Đằng để ra bưng hoạt động hẳn cho cộng sản cho đến năm 1976. 

 

Ngày 8 tháng 6 năm 1969 Trương như Tảng được chỉ định vào chức vụ Bộ Trưởng bộ Tư Pháp của “chính phủ lâm thời cộng ḥa miền Nam Việt Nam”, do Huỳnh tấn Phát, một đảng viên cộng sản kỳ cựu, làm Thủ Tướng. Gần 6 năm trời, từ 08.06.1969 đến 30 tháng 4 năm 1975, trong cuốn hồi kư không hề thấy tác giả nói ông làm ǵ trong cái bộ đó và nó hoạt động ra sao. (4) Đó chính là một điểm khôi hài nhất của cái gọi là chính phủ kia, đồng thời cũng là một lỗ hổng to tướng của cuốn hồi kư. 

 

Sau khi Sài G̣n thất thủ, Trương như Tảng có dịp liên lạc với gia đ́nh th́ được biết cha ông mới qua đời, con gái ông đă được Phu Nhân Tổng Thống Thiệu bảo trợ cho đi du học bên Mỹ, con trai ông cũng đă sang Pháp, c̣n mấy người anh em ông th́ bị đi “học tập cải tạo”, trong đó có một người cho đến khi ông viết xong cuốn hồi kư (1985) vẫn c̣n ở trong tù. Ông buồn rầu nhớ lại lời cha ông nói lúc vào thăm ông trong nhà tù của Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia năm 1967:

 

Con à, ba không thể hiểu được con. Con đă bỏ tất cả (một gia đ́nh êm ấm, hạnh phúc, giầu có) để đi theo bọn cộng sản. Chúng sẽ không cho lại con được mảy may những ǵ con đă bỏ đi. Rồi sẽ thấy. Chúng sẽ phản bội con và con sẽ khổ suốt đời. (5) 

 

Ông cho rằng trước kia ông cùng với một số trí thức miền Nam khác vốn tin ḿnh tranh đấu cho một miền Nam có một chế độ riêng, và thi hành chính sách ḥa hợp ḥa giải với phe quốc gia. Nhưng sau 30 tháng tư ông thấy những lời hứa hẹn, cam kết của những Tôn đức Thắng, Phạm văn Đồng và Lê đức Thọ (trang 283-284) chỉ là giả dối. Chỉ một năm sau chiến thắng đảng đă hoàn tất việc thống nhất đất nước, nghĩa là giải tán chính phủ lâm thời cộng ḥa miền Nam của nhóm các ông. Không có ḥa hợp ḥa giải. Không có chính phủ ba thành phần. Mà chỉ có đảng, một đảng duy nhất, từ danh xưng đảng lao động đă đổi ngay trở lại thành “đảng cộng sản Việt Nam”, như trước khi đảng này giả vờ tự giải tán một cách xảo quyệt ngày 11.11.1945. Hơn 300.000 người (con số tối thiểu của ông đưa ra) bị bắt giữ, không có xét xử và không biết ngày về, trong đó có anh em ruột thịt, bà con thân thích, bạn bè của ông, hay của những người tai to mặt lớn trong Mặt trận, kể cả con rể của Luật Sư Trịnh đ́nh Thảo, người bạn vong niên của ông.

 

V́ đă tỉnh mộng, hết tin tưởng ở đảng nên khi được mời làm Thứ Trưởng Bộ Thực Phẩm và Tiếp Tế, ông đă từ chối khéo. Cảm nhận được sự bất măn của ông, chính Vơ văn Kiệt, lúc ấy là Bí Thư thành ủy Sài G̣n, đă t́m cách giải thích và khuyến dụ ông nhận một chức nhỏ hơn tại miền Nam. Nhưng ông đă lợi dụng sự tin cẩn của Kiệt để tính chuyện chuẩn bị vượt biên. Ngày 25 tháng 8 năm 1979 ông xuống thuyền làm “thuyền nhân” và hơn một tuần sau th́ được một tầu hàng Singapore chở tới Đảo Galang, thuộc Indonesia, bắt đầu cuộc sống tha hương.

 

Bây giờ ta hăy xem trong cuốn hồi kư 350 trang của ông, Trương như Tảng đă viết ǵ về những nhân vật và tổ chức có ảnh hưởng quyết định đến t́nh h́nh Việt Nam trong những năm ông bắt đầu nhập cuộc.

 

Về ông Hồ Chí Minh:

 

Như đă nói, sinh viên Trương như Tảng, sau khi được gặp “chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa” tại Pháp, liền bị con người “khéo thu phục nhân tâm” này thu hút. Nhớ lại những giờ được gần ông Hồ trong hoàn cảnh thương thuyết có cơ thất bại ấy, Trương như Tảng nhận định:

 

(Lúc ấy) ông (Hồ) biết rơ ông đang đối diện với khả năng kết liễu sinh mạng chính trị của ḿnh, bằng không th́ cũng là một cuộc chiến cam go, đẫm máu. Chính trong lúc tâm trí bị những ư nghĩ đó dày ṿ mà ông đă dành cả một buổi chiều cho hai sinh viên trẻ miền Nam. Thật khó có thể nghĩ về một nhà lănh đạo thế giới nào, trong hoàn cảnh tương tự, làm được như ông. (6)

 

 

Đầu năm 1969 phái đoàn Liên Minh Trịnh đ́nh Thảo ra Bắc. Trương như Tảng tả cuộc đón tiếp như của một quốc trưởng, và được Hồ chí Minh đích thân tới thăm. Ông viết:

 

Thảo có phần nào ngạc nhiên thấy ḿnh được trọng đăi như một quốc trưởng…Người ta cũng xếp chương tŕnh để phái đoàn tới yết kiến Hồ chí Minh (lúc ấy đang bệnh nặng, và thực sự là chỉ mấy tháng sau ông qua đời). Nhưng ông Hồ, bằng một cử chỉ đặc sắc, đă từ chối không cho phái đoàn đến căn nhà gỗ của ông trong khuôn viên dinh chủ tịch. Thay vào đó ông đă gửi cho Thảo một thông điệp nói rằng đại diện của nhân dân miền Nam hào hùng không cần phải tới thăm ông, tốt hơn nên cho ông vinh dự đến thăm phái đoàn. (7)

 

Rồi ông Hồ đi vào cửa sau không có tiền hô hậu ủng và bắt gặp bà Thảo đang trang điểm. Ông Tảng viết:

 

Tất cả bọn họ cảm động nói không nên lời, v́ cái vinh dự mà ông Hồ dành cho ḿnh qua cử chỉ thân hữu giản dị đó. (trang 141)

 

Trong chương 16, nói về những lủng củng với cán bộ miền Bắc, Trương như Tảng đă bênh ông Hồ, ngụ ư là nếu ông Hồ c̣n sống chắc không có những rắc rối, mâu thuẫn xảy ra. Ông cũng nói là nếu có cơ hội có lẽ ông Hồ đă thân thiện với Tây Phương chứ không đi theo con đường xă hội chủ nghĩa, mặc dù ông ta đă bấu víu lấy sự ủng hộ của cộng sản quốc tế như người sắp chết đuối vớ được cái phao. Lời lẽ của ông Tảng có vẻ cân nhắc, đắn đo:

 

…Nhưng ngay cả khi đắm ḿnh trong chủ nghĩa Quốc Tế III và chủ nghĩa cách mạng chan ḥa ông (Hồ) vẫn giữ ḿnh ở vị thế cởi mở đối với những cơ hội có thể có. Viễn kiến chính trị độc đáo của ông phóng về trước hàng nhiều thập niên đă luôn luôn giữ lại sự bén nhậy đối với những lựa chọn và những đồng minh có thể có. Và những cơ hội đă đến, trong những năm 1944, 1945 khi ông điều khiển cuộc ve văn với Mỹ ở cấp thấp, trong năm 1946 ở Fontainebleau khi ông nghĩ rằng có thể làm thân với Pháp, và cả năm 1954 khi chiến tranh với Pháp chấm dứt, và người Mỹ đứng trước sự lựa chọn của ḿnh. (trang 190-191)

 

Trương như Tảng chê các chính quyền Mỹ (Eisenhower và Kennedy) đánh giá sai ông Hồ, cho rằng ông Hồ là dụng cụ của Trung Quốc dùng để thực hiện chủ nghĩa bá quyền mà không đếm xỉa đến sự toàn vẹn và sức mạnh của ḷng yêu nước của nhân dân Việt Nam. (trang 213)

 

Nhắc lại cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu trong những năm 55-56, Trương Như Tảng cũng bênh ông Hồ bằng cách giải thích rằng khi biết là có sai lầm, ông Hồ đă hủy bỏ chiến dịch cải cách và “trừng phạt” những kẻ có trách nhiệm. Ông c̣n viết: “Đoạn ông Hồ đă làm một cử chỉ bất thường là đích thân xin lỗi nhân dân, công nhận “đă có bất công”. (trang 300). (Trương như Tảng không biết rằng thực ra ông Hồ đă đẩy Vơ nguyên Giáp, với hào quang chiến thắng Điện Biên c̣n rực rỡ, ra thay ông ta xin lỗi nhân dân. Chứ ông Hồ đă chẳng bao giờ đích thân xin lỗi đâu.)

 

Trong hồi kư của ông, Trương như Tảng đă nhiều lần nhắc đến những danh ngôn của ông Hồ và như vậy đă đề cao ông ta một cách gián tiếp. Chẳng hạn: “Những lời ông Hồ nói với chúng tôi trong năm 1946, tôi luôn luôn canh cánh bên ḷng: “Chúng ta phải chống giặc ngoại xâm, chống giặc đói, chống giặc dốt”. Để “thành công, thành công, đại thành công”, chúng ta phải “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” (trang 26) hay: “Càng gần chiến thắng, càng nhiều khó khăn” (trang 239) Hoặc: “Hồ Chí Minh đă viết rằng: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể ṃn. Nhưng chân lư đó không bao giờ thay đổi.” (trang 282) 

 

Về việc huấn luyện cán bộ của mặt trận “Dân Tộc Giải Phóng miền Nam”, Trương như Tảng bảo nhóm các ông không hề dạy thuyết Mác-xít. “trái lại các huấn luyện viên chuyên chú vào việc khai thác những khẩu hiệu yêu nước của Bác Hồ như: “Không có ǵ quư hơn độc lập tự do”… (trang 264)

 

Quả thực ông Tảng đă coi Hồ chí Minh là thần tượng, là “cha già dân tộc”. Nơi trang 68 ông viết: “Hồ chí Minh là cha thiêng liêng của phong trào ở miền Nam cũng như ở miền Bắc.”

 

Về mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam:

 

Trương như Tảng đă để nguyên chương 7 (từ trang 63 đến trang 80) để nói về mặt trận này. Ông nói, v́ thấy ông Diệm “chỉ lo củng cố địa vị mà không làm ǵ cho dân cho nước” cho nên ông cùng một số người muốn có một “tổ chức chính trị ngoài ṿng pháp luật” (8) để thách đố sự độc quyền cai trị của ông Diệm. Ban đầu chỉ có chừng từ 8 đến 10 người họp bàn để dần dần đưa ra một chương tŕnh hoạt động, trong số đó có hai Bác Sĩ: Dương quỳnh Hoa, Phùng văn Cung, Luật Sư Trịnh đ́nh Thảo ông Nguyễn hữu Khương và Kiến Trúc Sư Huỳnh tấn Phát, về sau có thêm các ông Nguyễn văn Hiếu, Ưng ngọc Kỷ, Nguyễn Long và Trần bửu Kiếm. 6 người trong số này thuộc ủy ban vận động gồm Trương như Tảng, các ông Hiếu, Kiếm, Kỷ, Long và Huỳnh tấn Phát.

 

Ông Tảng luôn để ông Huỳnh tấn Phát xuống dưới, như thể không quan trọng. Nhưng Phát lại là người trụ chốt. Sau này ông ta là Thủ Tướng của chính phủ. Ông ta cũng là người đă gia nhập đảng cộng sản Đông Dương ngay từ 1940. Các ông Hiếu, Kỷ, Kiếm cũng vào đảng lao động (tức đảng cộng sản trá h́nh) từ năm 1951. Và ông Hiếu đảng viên này đă được phái ra Bắc để nhận sự chỉ dẫn của ông Hồ (!) trước khi hoàn tất cương lĩnh và chương tŕnh hoạt động của mặt trận. (trang 71)

 

Ông Tảng nói rằng các ông muốn hoạt động trong phạm vi ôn ḥa, chứ không chủ trương vũ trang, nếu có đôi lúc cần đến bạo động cũng chỉ nhằm mục tiêu chính trị, hơn là quân sự. Nhưng ông cũng cho biết là kể từ sau đại hội III của đảng lao động ở Hà Nội vào tháng 9 năm 1960 (9) với chủ trương dành ưu tiên cho việc giải phóng miền Nam, các ông đă quyết liệt hơn, không c̣n dè dặt, lúng túng nữa.

 

Dưới sự điều động của Huỳnh tấn Phát một toán biệt kích cố bắt cóc Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ đang bị chính quyền Quốc Gia giam lỏng ở Tuy Ḥa. Nhưng họ đă thất bại. Cho nên khi tuyên bố ngày thành lập mặt trận 20 tháng 12 năm 1960 đă không có mặt vị chủ tịch. Trương như Tảng cũng măi đến ngày 17 mới rời Sài G̣n lên “mật khu” qua ngả Tây Ninh để dự phiên họp ngày 19. Phiên họp cũng kết thúc vội vă vào sáng sớm ngày 20, rồi lập tức trở lại Sài G̣n, trong ḷng mọi người đều phập pḥng lo sợ không biết bị phát giác và bị bắt lúc nào.

 

Từ đầu đến cuối tuy tác giả vẫn nói cứng là chủ trương và công việc của các ông do các ông tự lo, nhưng lại cũng thuật lại mọi việc đều do Huỳnh tấn Phát điều động, kể cả việc tŕnh danh sách ủy ban lâm thời và việc chỉ định Nguyễn hữu Thọ, vắng mặt, làm chủ tịch và việc bắt cóc sẩy ông chủ tịch mặt trận này, đáng lư phải có mặt trong buổi họp thành lập mặt trận.

 

Ông cũng cho biết ông là một trong những người tổ chức ra mặt trận ngay từ 1958. Nhưng cũng lại nói là măi đến năm 1962 ông mới được bầu vào ủy ban trung ương của mặt trận. (trang 56)

 

Về “chính phủ lâm thời cộng ḥa miền Nam Việt Nam”:

 

Trong chương 13 Trương Như Tảng cho biết đại hội của mặt trận nhằm thành lập và giới thiệu chính phủ được tổ chức ở mật khu sát biên giới Việt Miên vào ba ngày 6, 7 và 8 tháng 6 năm 1969. Nó có mục đích dằn mặt Mỹ và Việt Nam Cộng Ḥa cũng tổ chức gặp nhau (Tổng Thống Nixon và Tổng Thống Thiệu) tại Midway cũng vào ngày 8, để Mỹ tuyên bố rút quân, mở đầu cho công cuộc Việt Nam hóa chiến tranh. (trang 147) Huỳnh tấn Phát đệ tŕnh đại hội danh sách chính phủ vào ngày cuối của đại hội. Y được cử làm Thủ Tướng với Nguyễn thị B́nh làm Ngoại Trưởng, Dương quỳnh Hoa làm Bộ Trưởng Y Tế và Trương như Tảng làm Bộ Trưởng Tư Pháp.

 

Trương như Tảng đă cân nhắc đắn đo khi nhận bộ này. Ông ta có nghĩ tới vụ nhiều người bị quân mặt trận và quân Bắc Việt thảm sát ở Huế hồi Tết Mậu Thân và ông đă có lần chất vấn Huỳnh tấn Phát về việc này. Ông cũng có ác cảm với “thứ công lư cách mạng”. Nhưng ông hy vọng dần dần ông có thể dùng quyền của ḿnh thay đổi t́nh h́nh, hầu đi đến một chính phủ Liên Hiệp ở miền Nam. (trang 155)

 

Về lập trường của đảng đối với vấn đề ḥa hợp ḥa giải:

 

Trong chương 18 Trương như Tảng đă nói nhiều về lập trường ḥa hợp ḥa giải của ông và của mặt trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam cũng như của chính phủ Lâm Thời Cộng Ḥa Miền Nam Việt Nam và Liên Minh của Trịnh đ́nh Thảo.

 

Tôi và các đồng nghiệp của tôi ước mong dùng những cuộc thảo luận này trước hết là để cam kết với nhau là phải đặt sự ḥa họp ḥa giải lên trên hết, như một nguyên lư không thể lay chuyển của chính phủ… (trang 222)

 

Nhưng khi họp chính phủ ông mới ngă ngữa ra rằng “người ta” không muốn những thành phần tư sản, những kẻ đă tham gia chính quyền Việt Nam Cộng Ḥa được hưởng chính sách ḥa giải. Những người thuộc phe ông đă tranh luận gắt gao, viện dẫn lời ông Hồ về sự thống nhất tổ quốc, về nhu cầu xây dựng đất nước v.v... (trang 224 và 225)

 

Nhưng các đồng chí đảng viên không thể nào bị thuyết phục bởi những luận cứ t́nh cảm hay lẽ phải. Họ đă (tôi thấy dường như thế) từ bỏ cả lương tâm lẫn cảm quan thực dụng của họ để đổi lấy những tín điều tôn giáo chính trị mà họ cho rằng không thể sai lầm. Giữa niềm tin sắt thép và ngạo mạn của họ, không thể có chỗ cho thỏa hiệp.

 

Những cuộc tranh luận đă đưa đến sự rạn nứt cơ bản trong cách mạng (a fondamental split in the revolution, trang 225). Và Lê Duẫn đă phải lên tiếng giảng ḥa bằng những lời lẽ mền dẻo hơn:

 

“Chính sách ḥa hợp ḥa giải dân tộc không trả thù là chiến lược trường kỳ và đó là đường lối chính trị và lập trường của Đảng, và cũng là lập trường của giai cấp công nhân.”

 

Với lời nói trên của viên bí thư thứ nhất của đảng, nhóm ông Tảng hí hửng tưởng ḿnh đă thắng. (10)

 

Bốn năm sau Trường Như Tảng và những nhà lănh đạo mặt trận và chính phủ, ngoài đảng, mới vỡ lẽ ra rằng lời tuyên bố của Lê Duẫn chỉ là đ̣n phép, tuyệt chiêu của một tay đại bịp. Nhưng đă muộn.

 

 

Minh Vơ 

 

Chú Thích:

Trích dẫn trong soạn phẩm này theo bản Anh ngữ “A Vietcong Memoir”, viết chung với David Chanoff và Đoàn văn Toại, Harcourt Brace Jovanovich, San Diego, New York and London, 1985. (1bis) Cuộc thương thuyết này đă đưa đến hiệp ước sơ bộ 6.3.1946, được coi như một thất bại của Hồ chí Minh.

2) Sách Đă Dẫn trang 93-95.

 

3)                 Cán bộ tuyên vận cao cấp của cộng sản đặc trách Sài G̣n-Chợ Lớn lúc ấy. Ông là một cán bộ cộng sản thuộc loại trí thức miền Nam, bị “thất sủng” v́ câu nói dại dột tại một buổi họp: “mọi phong trào ở thành phố đều thành công một cách lạ lùng. Chỉ có phong trào công nhân là xệ quá.” (Sách Đă Dẫn trang 236) Trần bạch Đằng, bí danh Tư Méo, bút hiệu Phương Triều, sau 75 c̣n có bút hiệu “Trường thiên Lư” với tiểu thuyết chính trị: “Ván Bài lật ngửa” đề cao Phạm ngọc Thảo trong nhân vật chính (Luân) đầy mưu lược trước mưu trí của Ngô Đ́nh Nhu. Các đạo diễn cộng sản đă đưa tiểu thuyết này lên màn ảnh.

 

4) Trừ khi sắp sửa giải tán, sau 30 tháng tư 1975, ông có vận động với Phạm văn Đồng để việc bắt bớ, giam giữ tại miền Nam, có quy củ, theo nguyên tác pháp lư và đề nghị đưa ra một số luật lệ. Nhưng chính việc ông phải nhờ Thủ Tướng chính phủ miền Bắc can thiệp, làm áp lực với Thủ Tướng của ông (Huỳnh tấn Phát), lại cũng là một chuyện khôi hài không tưởng tượng nổi của cái chính phủ của ông. Và cuối cùng, những luật lệ hay quy định của Bộ Tư Pháp của ông hay của chính phủ trung ương, miền Bắc của Phạm văn Đồng cũng chẳng có hiệu lực ǵ. V́ chính Trương như Tảng phải công nhận: Cán bộ chỉ làm theo lệnh đảng, bất chấp pháp chế của cái gọi là chính phủ kia. (Sách Đă Dẫn. Cuối trang 281, đầu trang 282 ông viết: “Về phần bộ luật tội nghiệp của chúng tôi cũng chẳng đi đến đâu. Đă rơ ràng luật pháp được áp dụng cho cả miền Nam Việt Nam, nhưng lại bị đơn vị hành chánh ngoài Sài G̣n coi như không có. Trong toàn quốc, việc cai trị nằm trong tay các cán bộ đảng đă quen nhận lệnh từ Bộ Chính Trị.”

 

5) Sách đă dẫn trang 260

 

6) Sách đă dẫn trang 17

7) Sách đă dẫn trang 140

8) Sách đă dẫn trang 66, nguyên văn: “an extralegal political organization” (8) SĐD

trang 73.

 

10)  Sách đă dẫn trang 225-226. Nguyên văn: “Reading Lê Duẫn's message, we knew we had won the essential victory”

11)    

 

 

 

Thêm về sự tráo trở của “đảng ta”

A Viet Cong wikipeadia.org

 

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính