60 năm Hiệp định chia đôi đất nước!
Mặc Giao
Cây cầu chia đôi đất mước
Hiệp
Định Genève chia đôi đất nước được kư ngày 20-7-1954 và liền sau đó là
cuộc di cư chưa từng có của gần một triệu người từ Bắc vào Nam. Tính tới
tháng 7 năm nay, 58 năm trời đă trôi qua. Trẻ thơ ngày ấy nay đă thành
người già. Cả dân tộc vẫn trông ngóng an b́nh và hạnh phúc trên nửa thế
kỷ. Trên nửa thế kỷ của chết chóc, tàn phá, chia ly. Nhân dịp này, chúng tôi
xin kể hầu độc giả về Hiệp Định Genève và kư ức về cuộc hành tŕnh t́m tự
do của dân miền Bắc, trong đó có chúng tôi, để gọi là “ôn cố tri tân”.
HIỆP ĐỊNH GENÈVE 20-7-1954
Cuộc chiến tranh giữa Pháp (với quân đội Quốc Gia VN tiếp tay) và Việt
Minh đă bước sang năm thứ 9 vào năm 1954. Lực lượng Việt Minh càng ngày
càng lớn mạnh từ khi Mao Trạch Đông chiếm trọn Hoa Lục năm 1949. Mao đă
giúp Hồ Chí Minh tổ chức và trang bị các đơn vị lớn đến cấp sư đoàn và đại
đoàn. Trong khi đó tướng Henri Navarre, tư lệnh lực lượng viễn chinh Pháp
tại Đông Dương, lại phạm lỗi lầm lớn về chiến lược. Ông đưa quân đến đóng
tại ḷng chảo Điện Biên Phủ với ư định chặn đường quân Việt Minh tiến sang
Lào và nhử quân Việt Minh đến để tiêu diệt. Navarre không ngờ Trung Cộng
đă tiếp tế cho Việt Minh hàng ngàn đại bác và cao xạ pḥng không, đồng
thời gửi nhiều tướng lănh của Hồng Quân sang giúp việc tham mưu và chỉ
huy. Đường tiếp tế cho Điện Biên Phủ bị cắt, chỉ c̣n trông vào không vận,
trong khi không vận bị hạn chế khả năng hoạt động v́ thời tiết và hệ thống
pḥng không của địch. Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7-5-1954 là chuyện đương
nhiên phải xảy ra.
Trước áp lực quân sự của Việt Minh, Pháp muốn điều đ́nh để t́m lối thoát.
Việt Minh cũng sẵn sàng nói chuyện v́ qúa mệt mỏi, bị tổn thất nặng về
nhân sự và hy vọng có thể chiếm được nhiều lợi thế trên bàn điều đ́nh. Các
nước lớn cũng muốn giải quyết vấn đề Đông Dương cho xong sau khi đă dàn
xếp chấm dứt chiến tranh Cao Ly. V́ thế, một hội nghị quốc tế về Đông
Dương, trong đó vấn đề Việt Nam là chính, được triệu tập tại Genève, Thụy
Sĩ, ngày 8-5-1954. Đồng Chủ tịch hội nghị là Anh và Liên Xô. Chu Ân Lai
đại diện Trung Cộng. Phạm Văn Đồng đại diện Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa.
Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định cầm đầu phái đoàn Quốc Gia Việt Nam. Sau
ngày 7-7-1954, Bác Sĩ Trần Văn Đỗ, tân Ngoại Trưởng, được Thủ Tướng Ngô
Đ́nh Diệm cử sang thay. Lào và Cao Miên cũng có đại diện tham dự.
Về phiá chính phủ Pháp, vài ngày sau khi hội nghị khai diễn, Thủ Tướng
Laniel bị lật đổ. Tân Thủ Tướng Mendès France thuộc đảng Xă Hội lên cầm
quyền. Khi nhận chức, ông hứa với dân Pháp là ông sẽ đạt giải pháp cho vấn
đề VN trong 100 ngày. Nếu không, ông sẽ từ chức. Đích thân Thủ Tướng
Mendès France đi phó hội v́ ông kiêm luôn chức bộ trưởng ngoại giao. Điều
này chứng tỏ quyết tâm t́m ḥa b́nh của ông, nhưng cũng cho thấy thế yếu
của ông khiến đối phương gia tăng đ̣i hỏi, gây thiệt hại cho quyền lợi của
Pháp và của phe Quốc Gia VN.
Ngày 20-7-1954, Hiệp Ước Ngưng Chiến Tại Việt Nam được kư kết giữa Thiếu
Tướng Delteil, đại diện Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp tại Đông
Dương và Thứ Trưởng Quốc Pḥng Tạ Quang Bửu, thay mặt Tổng Tư Lệnh Quân
Đội Nhân Dân của Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa. Hiệp Ước Ngưng Chiến có 47
điều với nội dung chính như sau:
- Giới tuyến quân sự được ấn định từ cửa sông Bến Hải theo ḷng sông đến
biên giới Lào-Việt (gần vỹ tuyến 17). Thiết lập khu phi quân sự rộng 5 cây
số mỗi bên. Phiá Bắc giới tuyến do VNDCCH kiểm soát. Phiá Nam do Pháp và
chính phủ Quốc Gia VN.
- Việc rút quân, chuyển quân, vật liệu và dụng cụ quân sự của hai bên phải
làm xong trong thời hạn 300 ngày.
- Trong thời hạn này, dân chúng được tự do chọn và chuyển đến vùng kiểm
soát của bên này hay bên kia theo ư muốn.
- Trao trả tù binh và thường nhân bị giam giữ.
- Không được đem quân đội, nhân viên quân sự, vơ khí vào VN. Có thể đổi
hay thay thế không qúa 50 người mỗi tháng. Không cho ngoại quốc lập căn cứ
quân sự.
- Thành lập Ủy Ban Liên Hợp hai bên để thi hành Hiệp Ước và Ủy Ban Giám
Sát và Kiểm Soát Quốc Tế gồm đại diện 3 nước Ấn Độ, Canada và Ba Lan.
Kèm theo Hiệp Ước Ngưng Chiến c̣n có Bản Tuyên Cáo Chung Kết không có chữ
kư của phái đoàn nào, nhưng được coi như tất cả các phái đoàn đều thỏa
thuận, trừ hai phái đoàn Quốc Gia VN và Hoa Kỳ. Hai phái đoàn này công bố
tuyên ngôn riêng.
Bản Tuyên Cáo Chung Kết có 14 điều. Quan trọng nhất là Điều 7 dự trù tổng
tuyển cử tự do tại VN vào tháng 7-1956, tức 2 năm sau ngày kư Hiệp Định.
Điều 9 của Tuyên Cáo nói tới việc không chấp nhận những sự phục thù cá
nhân hay đoàn thể đă tham gia tranh đấu ở bên này hay bên kia.
Hiệp Ước ấn định như thế nhưng chẳng bên nào áp dụng nghiêm chỉnh, ngoài
các điều khoản liên quan tới ngưng bắn và phân vùng.
Hiệp Định Genève 1954 là kết qủa của một sự dàn xếp giữa các đại cường
Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Cộng. Mỹ giữ thái độ không chống không ủng hộ.
Việt Minh và phe Quốc Gia đă ngậm đắng nuốt cay, bất lực nh́n những kẻ
khác quyết định số phận của ḿnh. Không một phe VN nào muốn đất nước bị
chia đôi. Việt Minh nghĩ rằng họ đang kiểm soát được đa số lănh thổ, trừ
các thành phố lớn. Nếu có một cuộc ngưng bắn tại chỗ, họ sẽ có nhiều lợi
thế. Phe Quốc Gia đề nghị quân hai bên rút về những vùng tập trung tạm
thời, dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp quốc, trong khi chờ đợi một cuộc
tổng tuyển cử tự do. Phe Quốc Gia có lợi thế riêng trong việc đang kiểm
soát những thành phố lớn, Hà Nội, Hải Pḥng, Huế, Sài G̣n, tất cả các
thành phố khác ở miền Trung và miền Nam, trừ Quy Nhơn nằm trong Liên Khu 5
của Việt Minh. Ngoài ra, phe Quốc Gia cũng rất quan tâm tới sự an toàn của
giáo khu Phát Diệm. Khu này được Giám Mục Lê Hữu Từ thành lập từ những năm
1946, 1947, được bảo vệ bằng một lực lượng quân sự riêng, không cho Việt
Minh đến quấy phá, cũng không cộng tác với Pháp. Nhiều lănh tụ Quốc Gia,
trong đó có Ngô Đ́nh Nhu, Lê Quang Luật… bị Việt Minh truy bức và không
muốn sống trong vùng Pháp kiểm soát, đă đến nương náu tại khu tự trị Phát
Diệm. Đến năm 1949, khu tự trị mới cộng tác với chính quyền Quốc Gia vừa
được thành lập.
V́ vậy, việc chia đôi đất nước khiến phe VN nào cũng bị thiệt hại. Hai bên
đều cố tranh đấu nhưng không thể thay đổi ư định của các đại cường. Khi
biết việc chia đôi đất nước là điều không thể tránh, đại diện Việt Minh Tạ
Quang Bửu đưa đề nghị lập giới tuyến ở vỹ tuyến 13 với ư định đặt Huế và
Đà Nẵng vào nửa phía Bắc. Dĩ nhiên Pháp và Anh không chịu. Phạm Văn Đồng
đề nghị nhích lên vỹ tuyến 16. Chu Ân Lai thỏa thuận với Mendès France và
Molotov phân vùng ở vỹ tuyến 17 để khai thông hội nghị và áp lực Việt Minh
phải chấp thuận. Dù phải nhận một giải pháp bất như ư, trái với tham vọng
của họ, Việt Minh phải làm bộ hân hoan ca ngợi chiến thắng và ḥa b́nh,
trong khi bắt đầu sửa soạn đường lối hành động cho tương lai: chiến thắng
trong cuộc tổng tuyển cử được dự trù 2 năm sau, và khi cần, sẽ phát động
một cuộc đấu tranh vơ trang mới để chiếm miền Nam.
Tổng tuyển cử để thống nhất đất nước là đ̣i hỏi và hy vọng của phe cộng
sản. Họ tính toán rằng tại miền Bắc họ có thể kiểm soát dân chúng hầu như
100%. Ở miền Nam cũng vẫn có người ủng hộ họ, chưa kể những cán bộ nằm
vùng do họ gài lại sẽ thực hiện công tác tuyên truyền, vận động, phá rối
và cả tổ chức gian lận cục bộ trong cuộc bầu cử. Như vậy chắc chắn họ sẽ
có đa số phiếu và họ sẽ thống nhất đất nước dưới sự thống trị của họ. Họ
đă sốt sắng liên lạc với chính quyền miền Nam từ 1955 để hối thúc thi hành
tổng tuyển cử, kêu gọi các chính phủ đă tham dự hội nghị Genève làm áp lực
với chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa (danh xưng chính thức của miền Nam từ
26-10-1955) để chính phủ này phải tôn trọng hiệp định, nhất là điều khoản
tổng tuyển cử. Khi VNCH quyết liệt từ chối, cộng sản mở chiến dịch trên
khắp thế giới tố cáo VNCH và Mỹ vi phạm hiệp định, có t́nh kéo dài t́nh
trạng chia đôi đất nước.
VNCH công bố chỉ chấp nhận tổng tuyển cử khi nào dân chúng cả hai miền có
tự do như nhau, có sự thông thương và tự do bỏ phiếu không sợ một áp lực
nào, dưới sự kiểm soát hữu hiệu của Liên Hiệp Quốc. Xét về thực tế, lời
biện minh này có cơ sở. Nhưng cũng cần xét thêm về mặt pháp lư để xem việc
từ chối tổng tuyển cử có vi phạm Hiệp Định Genève hay không.
Trước hết, Hiệp Định Ngưng Bắn chỉ do đại diện của Pháp và Việt Minh kư,
đại diện chính phủ Quốc Gia VN không kư. Phe Quốc Gia chỉ bị ràng buộc về
những ǵ liên quan tới quân sự, v́ Quân Đội Quốc Gia được Quốc Trưởng Bảo
Đại tạm thời cho đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư Lệnh Quân Đội Viễn Chinh
Pháp tại Đông Dương (các thỏa ước quân sự 30-12-1949 và 30-12-1950). Pháp
không có quyền quyết định nhân danh Quốc Gia VN về các vấn đề có tính cách
chính trị. Hành động trái nguyên tắc này phải được coi là lạm dụng ḷng
tin (abuse de confiance).
Thứ đến, việc tổng tuyển cử được nói trong Điều 7 của Bản Tuyên Cáo Chung
Kết. Bản Tuyên Cáo này coi như được đương nhiên chấp thuận (tacitement
consentie) nhưng không có chữ kư của bất cứ phái đoàn nào. Riêng hai phái
đoàn Quốc Gia VN và Hoa Kỳ đă ra tuyên ngôn bầy tỏ sự không đồng ư. Tuyên
Ngôn do Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ công bố nói rơ: “Việt Nam long trọng phản
đối việc kư kết Hiệp Định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện
vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi nhận
rằng Chính Phủ tự dành cho ḿnh quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ
quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống
Nhất, Độc lập và Tự Do cho xứ sở” (1). Khi một chính phủ không kư văn kiện
chung và công khai tuyên bố chống lại nội dung của văn kiện đó, tại sao
lại có thể bị kết án vi phạm hiệp định, không tôn trọng cam kết?
CUỘC DI CƯ TỪ BẮC VÀO NAM
Chiếu điều 14, khoản d của Hiệp Ước Ngưng Chiến, dân chúng có quyền tự do
chọn vùng sinh sống trong thời hạn 300 ngày, dân miền Bắc đă lũ lượt t́m
cách vào Nam ngay sau khi Hiệp Định được kư kết. Dân các thành phố Hà Nội,
Hải Dương, Hải Pḥng may mắn nhất, v́ nếu muốn đi Nam, họ có thể đi ngay
từ thành phố của họ, không gặp trở ngại ǵ, lại có thể bán đồ đạc, xe cộ,
nhà cửa trước khi đi, dĩ nhiên với giá vừa bán vừa cho. Trong khi đó dân ở
các thành phố cộng sản đă tiếp thu, nhất là ở các miền quê xa xôi, việc đi
Hà Nội hay Hải Pḥng để từ đó vào Nam không phải là chuyện dễ dàng. Trước
hết, họ phải bỏ lại tài sản, nhà cửa, ruộng vườn. Kế đó, phải thoát được
những ngăn chặn trá h́nh hay công khai của Việt Minh. Dù vậy, khắp nơi,
đặc biệt vùng đồng bằng Bắc Việt, dân chúng vẫn kéo nhau đi Nam từng đoàn
từng lũ, bất kể những khó khăn và nguy hiểm.
Bỏ phiếu bằng tầu (bay) tại phi trường Gia Lâm
Tôi
đă được chứng kiến cảnh dân quê, đặc biệt từ Bùi Chu, Phát Diệm, Ninh
B́nh, lũ lượt kéo nhau đến thành phố Nam Định, trên đường đi Hà Nội để
xuống Hải Pḥng vào Nam. Theo Hiệp Định, Hải Pḥng được chính quyền Quốc
Gia và Pháp cai trị thêm 300 ngày trước khi trao lại cho Việt Minh. Mỗi
ngày có hàng ngàn người đến tạm trú trong nhà chơi có mái của trường Lê
Bảo Tịnh, chung quanh nhà thờ, nhà xứ và nhà người quen. Họ không tạo ra
những vấn đề ăn ở, vệ sinh, trật tự. Họ ngừng ở Nam Định như chỗ nghỉ chân
hoặc đợi người nhà. Mỗi đợt chỉ tạm trú một hai đêm rồi kéo nhau đi,
nhường chỗ cho đợt khác. Họ tự lo việc ăn uống và dọn dẹp. Chính quyền gửi
đến nhiều cán bộ nam nữ gọi là giúp dân, nhưng thật ra là để thuyết phục
những người này quay về, đừng đi Nam nữa. Cán bộ tỉ tê là tại sao lại bỏ
cửa bỏ nhà, bỏ mồ mả ông bà tổ tiên để đi đến nơi xa lạ, không biết tương
lai sẽ ra sao. Họ c̣n dọa rằng chính quyền tay sai của Pháp Mỹ trong đó
rất hung ác, chuyên môn hứa láo và bóc lột dân lành, rằng nay nước nhà đă
độc lập rồi, chỉ hai năm nữa là tổng tuyển cử thống nhất Nam Bắc, chẳng lẽ
lúc đó lại bồng bế nhau về có phải là phí phạm thời giờ, của cải và khó ăn
khó nói với bà con ở lại. Nhưng những người đă quyết đi không nao núng v́
những lời tuyên truyền, dụ dỗ. Có vài trường hợp dành giật, níu kéo giữa
cán bộ và dân ra đi, khiến Ủy Hội Quốc Tế có văn pḥng ở Nam Định phải đến
can thiệp. Nói chung, những người đi sớm đều đi được v́ cộng sản không dám
làm mạnh lúc đó để tỏ ra tôn trọng Hiệp Định. Ngoài ra, họ cũng chưa có kế
hoạch ngăn cản v́ việc dân ùn ùn bỏ đi xảy ra qúa bất ngờ, ngoài sự ước
tính của họ. Thời gian sau, việc ngăn cản người đi Nam được thực hiện có
bài bản. Ai đi trễ sẽ gặp rất nhiều khó khăn và cũng khó đi lọt.
Sau ngày việt Minh tiếp thu Hà Nội, 9-10-1954, Hải Pḥng trở thành nơi duy
nhất phải đến trên đường đi Nam. Vào thời gian cao điểm, tháng 4-1955, mỗi
ngày Hải Pḥng đón nhận khoảng 2,000 người đến từ các nơi. Trong khi đó có
trên 70,000 người đang đợi các chuyến tàu và máy bay. Tàu của hải quân
Pháp và Hoa Kỳ mỗi ngày chở hàng chục ngàn người vào bến Sài G̣n. Khoảng
70 phi cơ quân sự Pháp, không kể máy bay của Air Vietnam, được trưng dụng,
lập cầu không vận chở dân di cư vào phi trường Tân Sơn Nhứt. Ngày
26-5-1955, tàu Gascogne của Pháp là chuyến tàu cuối cùng chở 888 người di
cư tới Sài G̣n. Dân di cư từ Bắc vào Nam có 533,868 người đi đường biển,
243,657 người đi bằng máy bay. Nếu tính luôn công chức, quân nhân và gia
đ́nh, thêm những người vượt tuyến bằng phương tiện riêng, tổng số dân di
cư lên tới trên 800,000 người.
Cuộc ra đi bằng tầu thuỷ tại Hải Pḥng
Cuộc
di cư 1954-1955 là cuộc bỏ phiếu bằng chân của trên 800,000 người dân miền
Bắc cương quyết rời bỏ chế độ cộng sản để đi đến vùng do chính phủ Quốc
Gia kiểm soát. Nếu dân được đi tự do, con số này sẽ cao hơn nhiều. Nên nhớ
rằng dân số miền Bắc lúc đó, tính từ vỹ tuyến 17 trở ra, chỉ có khoảng 13
triệu người. Khi gần một triệu người bỏ đi, cộng sản VN mới thấy dân không
yêu họ như họ tưởng. Miền Bắc mất đi một tiềm lực nhân sự lớn. Đa số dân
có học và có khả năng cao về doanh thương và công nghệ ở các thành phố lớn
đều đi vào Nam. Ngoài ra, cộng sản c̣n bị mất mặt về phương diện tuyên
truyền. V́ thế họ phải ngụy biện rêu rao rằng đa số người di cư là giáo
dân Công Giáo, bị các cha cố tuyên truyền, dụ dỗ đi Nam, số khác là những
kẻ có quyền lợi gắn bó với Pháp và những kẻ phản quốc theo gót thực dân đế
quốc Pháp Mỹ. Lư do tôn giáo đúng một phần nhưng v́ đức tin, không phải v́
dụ dỗ mê hoặc. Ngoài ra, giáo dân dù chiếm phần đông cũng không phải là
tất cả. Sự thực, dân miền Bắc đă thấy tận mắt cách cai trị độc tài, tàn
bạo, dối trá của Việt Minh, đă nếm mùi tiền cải cách ruộng đất qua những
cuộc đấu tố, dù mới chỉ là những bước dạo đầu nhẹ nhàng nhưng đă đủ làm
dân khiếp sợ. Họ đă thấy chủ nghiă cộng sản vô thần đang được từ từ áp
dụng, giết dần giết ṃn truyền thống văn hóa của dân tộc. Đó là lư do
khiến người ta bỏ miền Bắc di cư vào Nam. Bỏ hết để đi vào một miền đất
chỉ hứa có tự do, không hứa thiên đàng hạ giới. Số người di cư đă vượt qúa
mọi dự đoán. Người Pháp dự trù có 60,000 người. Thủ Tướng Ngô Đ́nh Diệm
chỉ hy vọng 100,000. Thực tế đă có 860,000 người chạy cộng sản vào Nam
(2).
Ngày 11-5-1955, Việt Minh tiếp thu thành phố Hải Pḥng. Luật Sư Lê Quang
Luật, Đại Biểu Chính Phủ Quốc Gia tại Bắc Việt, rước một hộp đất miền Bắc
vào trong Nam, chấm dứt sự hiện diện của chính quyền Quốc Gia Việt Nam tại
miền Bắc.
Cuộc di cư 1954-1955 của gần một triệu người từ Bắc vào Nam vừa là một
gánh nặng vừa là một chiến thắng đầu tiên cho miền Nam. Số người đông đảo
này, tuy mới chỉ là một tảng băng nổi, đă chứng tỏ sự oán ghét của nhân
dân đối với chế độ cộng sản. Nó cung cấp nhiều bộ óc, nhiều bàn tay để
cùng đồng bào miền Nam xây dựng một xă hội tiến bộ vượt xa xă hội miền
Bắc. Nó đóng góp xương máu để bảo vệ miền Nam. Nó tạo sự thông cảm, ḥa
đồng Bắc Nam qua tiếng nói, tập tục, hôn nhân, thức ăn thức uống. Nói tóm
lại, con người và văn hóa đồng bằng sông Hồng đă được đem vào đồng bằng
Cửu Long để ḥa hợp thành một văn hóa mới: văn hóa Việt Nam thống nhất.
Không cần sự áp đặt bằng súng đạn như năm 1975.
CUỘC TRỐN CHẠY CỦA GIA Đ̀NH TÔI
Là dân thành phố ở lại sau khi Việt Minh đă tiếp quản Nam Định từ tháng
6-1954, gia đ́nh tôi chưa có quyết định dứt khoát đi hay ở. Chúng tôi
nhiều lần sững sờ v́ những vụ ra đi bất ngờ của những người thân quen.
Việc đi Nam được giữ bí mật, không ai nói với ai, đôi khi được giữ kín với
cả anh chị em ruột. Buổi sáng khi thức dậy, nếu thấy nhà hàng xóm đóng kín
cửa, không một tiếng động, không một bóng người, là biết nhà đó đă đi rồi,
đi rất sớm, bằng xe hàng hay bằng phương tiện nào khác lúc trời chưa sáng
hẳn. Lúc đó người ở lại vừa buồn vừa phân vân. Đi hay ở? Đi th́ phải bỏ
lại hết và làm cách nào để có thể sống nơi xa lạ? Lịch sử tái diễn với
những cuộc vượt biên 20 năm sau.
Đến
tháng 11-1954, bố mẹ tôi mới mới sửa soạn đưa gia đ́nh di cư vào Nam. Yếu
tố quyết định là việc cán bộ kinh tế đ̣i xát nhâp xưởng tiểu công nghệ của
bố mẹ tôi vào công ty hợp doanh với nhà nước. Bố tôi biết đây là thủ đoạn
nhà nước kiểm soát trước rồi chiếm hữu sau. Sưu cao thuế nặng đă bắt đầu
đè trên tư nhân. Tôi có chiếc xe đạp “demi course” rất nhẹ bằng duras do
Đức sản xuất, chiếc xe tôi dùng đi học và đă đạp tới tận Thái B́nh để thu
tiền hàng. Khi sửa soạn di cư, tôi đem chiếc xe thân yêu ra bán ở chợ
trời. Khi vừa ngă giá 800,000 tiền cụ Hồ với người mua th́ một cán bộ mặc
sơ-mi nâu, đeo sắc cốt, xuất hiện ngay sau lưng và đ̣i tôi đóng thuế
400,000. Tôi không bán nữa, đưa xe về để lại cho một người bà con với giá
thấp hơn, nhưng không bị mất tiền thuế cao đến vô lư như vậy. Ngay lúc đó,
tuy mới chỉ là một đứa con nít 14 tuổi, tôi đă nhận ra thật khó sống với
mấy ông Việt Minh này.
Gia đ́nh tôi phải đi Hải Pḥng làm hai đợt. Đợt đầu bố tôi dẫn tôi và hai
em trai đi theo. Mẹ tôi, chị họ tôi và hai em nhỏ phải đợi đi đợt sau.
Chúng tôi đi xe hàng lên Hà Nội rồi từ đó đi xe hỏa xuống Hải Pḥng. Hà
Nội đă được Việt Minh tiếp thu từ tháng 10. Muốn đi Hải Pḥng phải có giấy
phép v́ là đi vào vùng địch c̣n kiểm soát. Rất may bố tôi đă dự liệu và có
giấy phép đi mua hàng. Địa điểm ranh giới giữa hai vùng kiểm soát là ga Đỗ
Xá thuộc tỉnh Hải Dương trên quốc lộ số 5. Tại ga này, trước khi sang vùng
địch kiểm soát, mọi hành khách đều bị lục xét tỉ mỉ. Nhiều phụ nữ và trẻ
em bị lột quần áo để khám xem có dấu vàng và tiền Đông Dương Ngân Hàng
trong người hay không. Vàng và tiền Đông Dương bị tịch thu hết. Nhiều
người khi bị lột hết vàng và tiền đă khóc lóc quay về, không dám đi Nam
khi chỉ có hai bàn tay trắng.
Bố tôi biết trước chuyện này nên đă nghĩ ra cách dấu vàng rất hiệu qủa.
Ông cho ba anh em chúng tôi đi guốc mộc. Mỗi chiếc guốc được dùi hai lỗ
xuyên chỗ đóng quai. Mỗi lỗ có một lượng vàng lá Kim Thành được cuộn lại
và luồn vào. Sau đó quai guốc được đóng lại bằng đinh và che lỗ. Bố tôi
c̣n lấy nước muối xoa trên đinh để làm cho đinh dỉ xét trông như đinh cũ.
Thế là ba anh em tôi với ba đôi guốc có thể mang theo 12 lượng vàng. Chỉ
khổ cho tôi phải canh chừng các em, một đứa 10 tuổi, một đứ 7 tuổi, để
chúng đừng tiết lộ bí mật và đừng đánh rơi guốc từ trên xe lửa. Riêng bố
tôi, ông c̣n đánh lừa cán bộ bằng một mánh khác. Ông cuốn giấy bạc 100
đồng Đông Dương trong những điếu thuốc lá được rút ruột, rồi ấn lại chút
thuốc ở hai đầu. Ông bỏ 15 điếu thuốc có tiền vào vào phiá trong bao thuốc
thơm Du Kích hay Điện Biên, 5 điếu phiá ngoài là thuốc thật. Ông tỉnh bơ
rút thuốc hút trước mặt cán bộ, đôi khi c̣n mời cán bộ hút một điếu cho
vui. Nhờ có chút vốn liếng nhỏ mang theo, gia đ́nh tôi mới dễ xoay sở
trong những ngày đầu đặt chân đế Sài G̣n.
Đến Hải Pḥng, bố tôi giao chúng tôi cho một người anh họ của ông đang ở
trại tạm trú để nhờ bác trông coi chúng tôi trong khi bố tôi trở lại Nam
Định đón mẹ, chị và hai em tôi. Chúng tôi ở với bác và anh Thanh con bác
tại căng (camp) Hạ Lư nằm giáp ranh thành phố Hải Pḥng. Đây là một khu
trại được dựng với hàng trăm lều vải lớn của quân đội, có thể cung cấp nơi
tạm trú cho hàng ngàn dân di cư trong thời gian làm giấy tờ và chờ tàu hay
máy bay chở vào Nam. Trong thời gian ở trại, chúng tôi được phát gạo nhưng
phải tự túc mua thức ăn. Bên cạnh trại, mỗi buổi sáng có những người buôn
thúng bán bưng đến bán rau, thịt cá và gia vị. Việc ăn ở kể như tạm ổn.
Đối với tôi chỉ có hai nỗi khổ. Một là lều vải nhà binh tỏa hơi nóng, mùi
vải bố rất ngột ngạt khi trời nắng và nền đất lầy lội sũng nước khi trời
mưa. Hai là sự mong ngóng từng giờ từng phút bố mẹ tôi từ Nam Định đến
đoàn tụ với chúng tôi. Tôi đă nghĩ nếu có chuyện ǵ xảy ra khiến bố mẹ tôi
không đi được, tôi sẽ dẫn các em trở về, không thể đi Nam khi không có bố
mẹ.
May
mắn thay, chỉ một tuần sau, bố mẹ, chị và các em tôi đă đi lọt và có mặt ở
Hải Pḥng. Bố tôi hú hồn v́ thoát được bàn tay công an. Tối hôm trước ngày
bố tôi về lại Nam Định để đưa nốt gia đ́nh đi đợt hai, loa phát thanh của
khu phố đă gọi rơ tên bố tôi và tố cáo bố tôi đi vào vùng địch để nhận
công tác gián điệp cho địch. Nghe tin này, bố tôi cùng gia đ́nh rời khỏi
nhà ngay trong đêm. Sáng sớm hôm sau lấy xe đi Hà Nội ngay. Công an không
trở tay kịp nên bố tôi đă thoát và gia đ́nh tôi mới được đoàn tụ.
Ở Hải Pḥng, bố tôi đưa mẹ con tôi đến ở nhờ nhà một người quen tại phố
Dinh. Trong thời gian lo giấy tờ và chờ đi Sài G̣n, chúng tôi có dịp thăm
viếng Hải Pḥng, thành phố lớn thứ nh́ của miền Bắc. Chúng tôi đi thăm chợ
Sắt, phố Khách, nhà hát lớn, đi lễ nhà thờ phố Dinh…, nh́n cảnh thành phố
đ́u hiu chờ ngày đổi chủ.
Ngày 8-12-1954, chúng tôi được xe nhà binh chở từ điểm hẹn tại nhà hát lớn
Hải Pḥng tới phi trường Cát Bi. Từ đó chúng tôi được máy bay cánh quạt
của Air Vietnam chở vào Sài G̣n. Lần đầu tiên tôi được đi máy bay, được
một cô chiêu đăi viên mời nước ngọt miễn phí. Nhưng v́ ly nước có “gaz”,
tôi đă ói ra mật xanh mật vàng, quên cả nh́n xuống quê hương miền Bắc để
nói lời giă biệt.
60 năm đă trôi qua. Tôi vẫn chưa về thăm lại quê hương miền Bắc. Nếu Trời
cho có ngày tôi về được, th́ chắc cây đa bến cũ con đ̣ đă khác xưa! Và
người cũ sẽ c̣n lại ai?
Mặc Giao
|