Bên Gịng Lịch Sử­ 1940-1965

 

- P8 -

 

Lm. Cao Văn Luận

 

 

35 Ông Diệm đối với B́nh Xuyên và các đảng phái chính trị

 

Tại Nam phần, có mấy lực lượng được coi như không theo ông Diệm, đó là một số đơn vị quân đội dưới quyền chỉ huy trực tiếp của tướng Hinh và các thuộc hạ thân tín, các quân đội giáo phái như Cao Đài, Ḥa Hảo và quân đội B́nh Xuyên.

 

Ông Diệm và ông Nhu khôn khéo tách rời các lực lượng này ra, trước hết ông t́m cách làm cho hai lực lượng Giáo phái là Cao Đài và Ḥa Hảo trở thành trung lập trong cuộc tranh chấp quyền hành giữa ông và Tâm Hinh. Tôi không rơ nhờ may mắn hay nhờ tài giỏi, ông Diệm đă lôi cuốn được một thành phần quân đội Cao Đài dưới quyền Trịnh Minh Thế. Việc đó được coi như một thành công lớn của ông. Ông yên tâm hơn, dựa vào những đơn vị quân đội trung thành với ông thanh toán Nguyễn Văn Hinh, B́nh Xuyên và Lữ đoàn Ngự lâm quân.

 

Về mặt chính trị, ông Diệm cho thành lập tại các tỉnh những ủy ban nhân dân cách mạng, và tại trung ương phong trào Cách mạng Quốc gia ra đời. Nhiệm vụ của tổ chức này là ủng hộ ông Diệm và hạ bệ Bảo Đại cùng bọn Tâm, Hinh.

 

Nhờ có tổ chức và được sự ủng hộ của quần chúng, trong thời gian từ 1955 đến 1956, ông Diệm có thể nói đă nắm được quần chúng trong lúc những kẻ thù ông dần bị cô lập và v́ làm tay sai cho Pháp một cách quá trâng tráo đă mất hết chính nghĩa, không có một hậu thuẫn quần chúng nào. Những chuyện đằng sau vụ truất phế Bảo Đại, đánh đuổi người Pháp, tôi không dám biết đến, và xin nhường cho các nhà chính trị nghiên cứu và phê phán.

 

Vả lại lúc bấy giờ tôi chỉ chú ư đến một vấn đề di cư. Tôi cũng nghe nói đến sự giúp đỡ của Mỹ đối với ông Diệm trong thời gian này, không những chỉ về phương diện xă hội, như các khoản trợ giúp dân di cư mà thôi, mà c̣n nhiều về phương diện chính trị, ngoại giao quân sự nữa. Có một điều làm tôi ngạc nhiên là quân đội Pháp lúc bấy giờ đă phản ứng yếu ớt chiếu lệ đối với việc truất phê Bảo Đại và đuổi họ ra khỏi Việt Nam. Trong cuộc xung đột giữa ông Diệm và Tâm Hinh và B́nh Xuyên, một cách có chừng vậy thôi, không lấy ǵ làm tích cực cho lắm. Tôi tin rằng đằng sau việc đó, tại những kinh đô lớn của các cường quốc, đă có một sự dàn xếp nào đó, hoặc là Pháp đă quá chán ngán chiến tranh Việt Nam và bây giờ không tha thiết đến việc bảo vệ địa vị của nước Pháp ở phần đất Việt Nam c̣n lại nữa.

 

Nếu lúc bấy giờ quân đội Pháp chống ông Diệm ra mặt, không biết chuyện ǵ sẽ xảy ra, và dù ông Diệm có thắng cũng c̣n nhiều khó khăn, và c̣n đổ máu nhiều hơn nữa. Sau khi quân đội Pháp chấp nhận tập trung vào một vài vùng phái bộ quân sự Pháp rút lui th́ người ta thấy Mỹ tăng cường phái bộ của họ: do tướng Harkins cầm đầu. Vai tṛ của phái vộ Mỹ càng ngày càng lớn, hoàn toàn thay thế phái bộ Pháp trong các công tác huấn luyện, cố vấn.

 

Tôi phải công nhận rằng ông Diệm là một người có óc độc tôn, nếu chưa phải là độc tài. Ngay từ đầu ông đă cho rằng chỉ nên có một đảng duy nhất. Có lẽ ông cho rằng để chống lại cộng sản, th́ phe quốc gia không thể rơi vào những hỗn loạn chính trị do chế độ đa đảng gây ra, cho nên ông không muốn tại miền Nam có trên hai đảng. Về mặt nổi, ông thành lập phong trào Cách mạng Quốc gia, và trong bề sâu của sinh hoạt chính trị ông dựng đảng Cần Lao Nhân Vị.

 

Cái tinh thần độc tôn này được biểu lộ rơ rệt trong cách đối phó với các đảng phái quốc gia, tuy không hoàn toàn ủng hộ ông Diệm và chịu sát nhập vào phong trào Cách mạng Quốc gia của ông. Tôi c̣n nhớ một hôm tôi đang ở trong dinh, h́nh như khoảng đầu năm 1955 th́ có một đoàn biểu t́nh kéo đến trước dinh. Đoàn biểu t́nh này do các cán bộ một đảng khá quan trọng lúc bấy giờ tổ chức, đó là pḥng trào Tranh Thủ Tự Do của các ông Vũ Quốc Thúc, Bùi Văn Thinh.

 

Tôi tưởng rằng thế nào ông Diệm cũng ra trước dinh tiếp đại diện của đoàn biểu t́nh, nhưng chuyện xảy ra trái với ư nghĩ của tôi. Ông Diệm đă ra lệnh đơn vị pḥng vệ phủ Thủ tướng canh gác nghiêm mật rồi ông vẫn b́nh tĩnh ở trong dinh, cho đến lúc đoàn biểu t́nh chán nản tự giải tán. Sau đó ít lâu, Bùi Văn Thinh đang làm bộ trưởng Tư pháp được cho đi làm đại sứ tại Nhật Bản.

 

Cũng trong thời gian này, phía bên Công giáo có một lực lượng chính trị khá quan trọng, là Tập đoàn công dân tôn giáo. Ông Diệm và ông Nhu không bằng ḷng cho lực lượng này hoạt động, nhưng cũng hơi kẹt. Ông không muốn dùng các phương thức áp lực hay đàn áp. Một hôm ông Diệm nói chuyện với tôi:

 

- Nước ḿnh đang có quá nhiều mầm mống hỗn loạn. Theo ư tôi chỉ nên có một phong trào Cách mạng Quốc gia, và một đảng chính trị duy nhất là Cần Lao. Bây giờ có phong trào Tập Đoàn Công Dân do Đức cha Phạm Ngọc Chi lănh đạo, tôi sợ rằng như thế không ích lợi ǵ. Tôi muốn nhờ cha nói với Đức cha Chi cho Tập đoàn công dân sát nhập vào phong trào Cách mạng Quốc gia, cha nghĩ sao?

 

Tôi ngần ngại, thưa ông:

 

- Tôi không biết chắc Tập Đoàn Công Dân có thực sự do Đức cha Chi lănh đạo hay không, bởi v́ về mặt công khai chúng ta không thể nói chắc Đức cha Chi lănh đạo Tập Đoàn Công Dân. Trên danh nghĩa, Đức cha Chi không có chức vụ quan trọng ǵ trong tổ chức này cả. Hơn nữa tôi là một linh mục, lănh việc đi thu xếp chuyện đảng phái cho cụ e không tiện. Chi bằng nhân dịp nào đó, cụ gặp Đức cha Chi thử nói chuyện này với ngài xem sao? Tôi nghĩ rằng nếu Đức cha Chi nhận thấy t́nh h́nh chính trị nước ta không nên có nhiều đảng, th́ có thể ngài bằng ḷng.

 

Tôi được biết ít lâu sau, ông Nhu mời Đức cha Chi vào trong dinh nói chuyện, nhân một dịp Đức cha Chi vào Sài G̣n. Phong trào Tập Đoàn Công Dân bị giải tán và người ta thấy phần lớn các cán bộ cao cấp và các tổ chức hạ tầng của phong trào này gia nhập vào phong trào Cách mạng Quốc gia và đảng Cần Lao.

 

V́ các đảng phái có thể trở thành đối lập bị thanh toán ngay từ đầu, và lại bị thanh toán bằng sức mạnh của chính quyền, chớ không bằng một cuộc đấu tranh chính trị nào, cho nên phong trào Cách mạng Quốc gia và đảng Cần Lao không có cơ hội thử thách để trưởng thành và trở thành một đảng chính trị đúng nghĩa của nó. Hai tổ chức này, xét kỹ chỉ là một bộ phận lệ thuộc của chính quyền ông Diệm. Nếu ông Diệm được coi là lănh tụ đảng th́ cũng chỉ v́ ông đang là lănh tụ quốc gia, chớ không phải v́ ông được đảng bầu lên. Lề lối sinh hoạt đảng cũng được đồng hóa vào lề lối sinh hoạt của guồng máy chính quyền. Những cơ sở huấn luyện đảng, là những cơ sở chính quyền. Trong hầu hết các trường hợp, viên chức cao cấp nhất của chính quyền, tại một địa phương, hay một cơ quan nào đồng thời cũng là lănh tụ địa phương của đảng. Như thế tổ chức đảng trở thành thừa và vô ích, cùng lắm nó chỉ có cái ích lợi là nắm chắc được guồng máy chính quyền, đặt để hay ép buộc những người của chính quyền và của ông Diệm vào các địa vị then chốt trong quốc gia mà không gây được cơ sở hạ tầng vững mạnh bền bỉ trong quần chúng.

 

Theo lề lối tổ chức và sinh hoạt như thế, bao giờ ông Diệm c̣n nắm chính quyền, th́ đảng của ông có vẻ mạnh, nhưng chỉ là cái sức mạnh bề ngoài, sức mạnh ḷe được kẻ non dạ, mù quáng, mà không bịp ai được. Lư thuyết nhân vị được dùng làm nền móng tinh thần cho Đảng và Phong Trào cũng vấp vào nhiều khuyết điểm không có sức sinh động mạnh để thu hút quần chúng, những căn bản triết lư của nó cũng c̣n quá mập mờ, vá víu, và không bắt nguồn từ những truyền thống sâu xa của dân tộc Việt Nam. Tôi không dám nói nhiều về chuyện này, và ngay lúc bấy giờ tôi cũng đă không có ư kiến ǵ về cái lư thuyết nhân vị, mặc dù khi du học tôi đă chọn ban triết và cũng đă nghiên cứu đôi chút về triết học. Đôi lúc ông Nhu có đề cập đến cái lư thuyết nhân vị với tôi, nhưng tôi cố tránh để khỏi có ư kiến. Riêng ông Diệm th́ tôi thấy ông không quan tâm nhiều đến phần lư thuyết chính trị. Tôi cũng không được nghe ông bàn với tôi một lần nào về lư thuyết nhân vị. Ông chỉ nói đến những việc làm, những thực hiện cụ thể. Có một điều mà tôi có thể đồng ư, là một phong trào chính trị muốn vững bền cần phải có một nền móng tinh thần, và nền móng tinh thần đó nếu được đúc kết lại mạch lạc có thể thành một lư thuyết chính trị. Cho nên trong lúc tôi không thấy có ǵ hơn, tôi nghĩ rằng cái lư thuyết nhân vị, dù sao th́ có vẫn hơn không. Ít ra nó giúp cho người hành động một vài tiêu chuẩn hướng dẫn và một vài cách thức biện hộ. Tôi cố tránh b́nh luận, chỉ trích là v́ nghĩ như thế.

 

Tôi muốn nhắc đến một trường hợp điển h́nh thứ hai chứng minh tính cách độc tôn của ông Diệm trong việc dàn xếp với các đảng phái, hoặc trong quan niệm của ông về sinh hoạt chính trị dân chủ. Trong khoảng thời gian sau 1954, tại Huế nhóm Lê Trọng Quát muốn thành lập một đảng chính trị lấy tên là đảng Cộng Ḥa Xă Hội. Lê Trọng Quát có nói chuyện với tôi. Chủ ư của Quát là muốn đem đến sinh hoạt chính trị một sự hào hứng phấn khởi bằng cách tạo ra thế lưỡng đảng và như thế trong lúc đảng Cần Lao và phong trào Cách mạng Quốc gia đóng vai đảng nắm quyền th́ đảng Cộng Ḥa Xă Hội của Quát đóng vai đảng đối lập.

 

Tôi nhận thấy chủ trương như vậy chẳng những rất hay mà c̣n cần thiết để xây dựng những lề lối và truyền thống dân chủ trong sinh hoạt chính trị quốc gia, cho nên tôi thấy có thiện cảm với chủ trương đó. Khi Quát tŕnh bày với tôi, và nhờ tôi nói với ông Cẩn và ông Diệm cho phép Quát lập đảng và hoạt động công khai, mặc dù tôi ngại sẽ không được ông Cẩn, ông Diệm đồng ư, nhưng tôi cũng đến tŕnh bày ư định của Quát cho ông Cẩn trước.

 

Ông Cẩn chăm chú nghe, rồi cho tôi biết rằng về vấn đề này, ông Diệm và ông Nhu đă ra chỉ thị rơ ràng không cho phép bất cứ ai lập thêm đảng phái chính trị.

 

Ông Cẩn cũng giải thích rằng chẳng phải là gia đ́nh họ Ngô chủ trương độc tài chuyên chế, nhưng v́ nhận thấy quan niệm đối lập của người Việt Nam ḿnh thật là thô sơ và sai lạc, khi nói đến đối lập họ chỉ nghĩ đến việc cướp chính quyền bằng mọi cách, bất chấp hiến pháp luật lệ và những thủ tục dân chủ hợp pháp. Ông Cẩn đơn cử những trường hợp hoạt động đối lập của Đại Việt, Quốc Dân Đảng. Hai tổ chức này đă có lúc chống đối bằng vơ lực, gây khó khăn cho chính quyền, chẳng ích lợi ǵ cho quốc gia dân tộc.

 

Lúc bấy giờ tôi nhận thấy những lời giải thích này có phần đúng, v́ tŕnh độ ư thức chính trị của người Việt Nam c̣n thiếu sót nhiều lắm, các tổ chức chính trị lại đă quen hoạt động bí mật dưới thời chống Pháp, nên về chủ trương, đường lối cơ cấu tổ chức đều không thích ứng được với sinh hoạt chính trị công khai. Ông Diệm cũng c̣n nghĩ rằng lúc đó phải đối phó với cộng sản là một kẻ thù mạnh và nguy hiểm, ông không thể nào chịu thêm những hỗn loạn và xáo trộn chính trị trong nội bộ quốc gia.

 

Ông Cẩn có nói với tôi về dùng lời khéo léo tŕnh bày cho Quát, và khuyến khích các anh em đó nếu muốn tham dự vào sinh hoạt chính trị th́ hăy gia nhập đảng Cần Lao và phong trào Cách mạng Quốc gia. Về sau h́nh như một số các anh em trong nhóm này đă theo lời khuyên đó.

 

Những ǵ đúng cho lúc này không hẳn đúng vĩnh viễn. Cái chủ trương độc đảng của ông Diệm trong giai đoạn đầu có thể chấp nhận được, nhưng về sau khi đă củng cố được quyền hành tôi mong ông Diệm mềm dẻo hơn đối với các tổ chức chính trị, cho phép hoạt động đối lập chính trị công khai và hợp pháp, nhưng đă không có dịp nào đề cập đến vấn đề này với ông Diệm. Vả lại càng về sau th́ quyền hành thực sự của ông Nhu càng lớn lên mà ông Diệm th́ ít chú ư đến, chỉ lưu tâm đến các vấn đề thiết thực, và một trong vấn đề thiết thực đó là vấn đề văn hóa, giáo dục.

 

 

36  Thời thịnh đạt nhất của chế độ Diệm

 

Trong năm 1956, lúc t́nh h́nh chính trị tương đối ổn định và công cuộc định cư đă tiến hành đều đặn, tốt đẹp, tôi thu xếp công việc dạy học để đi Mỹ. Trước lúc đi tôi có vào gặp ông Diệm. Lúc này ông Diệm rất vui vẻ v́ mọi việc thành công ngoài hy vọng của ông. Pháp và Bảo Đại cùng bọn Tâm Hinh, B́nh Xuyên và các giáo phái vừa bị dẹp xong một cách dễ dàng.

 

Các đảng phái cũng đă thuần phục hay rút vào bóng tôi, và trước mặt ông Diệm tưởng như không c̣n một trở ngại nào.

 

Ông Diệm dặn ḍ tôi:

 

- Qua các nơi, cha nhớ coi các ṭa đại sứ ḿnh làm việc ra sao. Nhân tiện cha ḍ xem phản ứng của các nước đối với nước ḿnh như thế nào?

 

Chuyến đi này tôi không có mục đích nào nhất định và rơ rệt ngoài việc thăm viếng các sinh viên mà tôi gửi đi du học. Tôi cũng có ư định t́m hiểu dư luận các quốc gia đối với Việt Nam bây giờ như thế nào, và nếu có thể được, th́ vận động các nước giúp đỡ công cuộc định cư được thuận tiện hơn.

 

Ở Mỹ, dư luận quần chúng, cũng như nhận định của chính giới rất thuận lợi cho Việt Nam và Tổng thống Diệm.

 

Ông Diệm được coi là một lănh tụ tài giỏi bậc nhất ở Đông Nam Á, và t́nh h́nh Việt Nam được coi như sáng sủa nhất từ trước đến nay. Quốc hội Mỹ sẵn sàng phê chuẩn những yêu cầu của chính phủ nhằm giúp đỡ Việt Nam, cũng như v́ dư luận Mỹ thiện cảm nhiều với Việt Nam và ông Diệm, báo chí Mỹ không chỉ trích chế độ ông Diệm, hay bôi đen t́nh h́nh chính trị Việt Nam như chúng ta thấy những lúc sau này.

 

Nguyên nhân của sự kiện này, không phải nhờ ở hoạt động thông tin quốc ngoại hay nhờ ở Ṭa Đại sứ Việt Nam ở Mỹ mà phần lớn nhờ phong trào di cư. Phong trào di cư làm xúc động quần chúng và dư luận Mỹ. Lúc bấy giờ tinh thần chống cộng ở Mỹ lên cao và tôi nhớ h́nh như đang có một phong trào tố cáo một dân biểu cộng sản, hay thân cộng sản.

 

Những phái đoàn báo chí, tôn giáo, chuyên viên Mỹ sang Việt Nam giúp đỡ phong trào di cư, lúc trở về đă tường thuật những nỗ lực lớn lao của ông Diệm và chính phủ để định cư hàng triệu đồng bào di cư, làm cho người Mỹ hết sức thán phục và thiện cảm.

 

Nhắc đến ṭa Đại sứ Việt Nam ở Mỹ, tôi phải buồn ḷng mà nói rằng ở đây họ không có một hoạt động nào xứng đáng với sự mong đợi của ông Diệm. Họ chỉ làm những công việc giấy tờ nghi lễ và cũng không có một hoạt động nào gọi là thông tin quốc ngoại cả.

 

Sau khi đi một ṿng nhiều quốc gia trở về, tôi được nhân viên phủ Thủ Tướng đón tiếp tại Tân Sơn Nhất, và hẹn vào gặp ông Diệm ngay. Tôi chỉ kịp ghé nơi trọ một lúc rồi theo xe của phủ Thủ tướng đă đón sẵn, vào gặp ông Diệm. Ông Diệm có vẻ nóng nảy muốn biết những nhận xét của tôi về dư luận các nước và về hoạt động của các ṭa Đại sứ Việt Nam tại các nước.

 

Tôi tŕnh bày những nhận xét của tôi về dư luận các nước tôi ghé qua, và ông Diệm có vẻ vui mừng khi nghe tôi nói rằng dư luận Mỹ và các nước đều hết sức thuận lợi cho Việt Nam. Nhưng khi tôi nói đến những nhận xét của tôi về toà Đại sứ Việt Nam, th́ ông Diệm từ từ cau mày. Tôi thưa:

 

- Thưa cụ, các ṭa Đại sứ Việt Nam tại các nước chẳng có nơi nào làm việc như ư cụ mong muốn. Nơi nào cũng chỉ làm việc một cách uể oải lấy lệ. Tôi cho rằng sở dĩ có t́nh trạng đó là v́ hai lẽ. Thứ nhất đa số nhân viên các sứ quán Việt Nam đều là người của thời Bảo Đại c̣n lại, họ chẳng có tinh thần làm việc, cũng không thông hiểu đường lối của cụ và của chính phủ. Họ không phải là những cán bộ ngoại giao mà là những công chức ngoại giao. Họ không hiểu ǵ về ngoại giao cả. Thứ hai là cách bổ nhiệm đại sứ của cụ làm cho những kẻ đi làm ngoại giao trở thành những kẻ bất măn, chống lại cụ một cách tiêu cực.

 

Ông Diệm có vẻ không hiểu cái lư do thứ hai, cau mày hỏi lại:

 

- Tại làm sao?

 

- Thưa cụ, cụ đă cử một số người đi làm đại sứ, sau khi cụ không c̣n dùng họ làm bộ trưởng nữa. Cụ xem trường hợp của hai ông Bùi Văn Thịnh và Nguyễn Đôn Duyến, mà suy ra th́ cụ có thể hiểu ngay. Ông Thịnh trước được cụ cho làm bộ trưởng bộ Tư pháp, đến lúc cụ cất chức bộ trưởng Tư pháp của ông rồi, cho ông đi làm đại sứ Tokyo th́ chắc chắn là ông ta buồn lắm. Coi như ông ta bị mất sủng ái, bị đi đày vậy, làm sao ông có thể hăng hái làm việc được. Lại như ông Duyến, trước làm thủ hiến Trung Việt, rồi cụ lại cất chức thủ hiến Trung Việt mà cho đi làm đại sứ Vạn Tượng, th́ ông ta cũng nghĩ là ông bị giáng cấp, bị dùng vào một chỗ không xứng tài ông ta, như vậy chắc chắn ông không cách chi làm hết trách nhiệm đại sứ.

 

Ông Diệm h́nh như vẫn chưa chịu hiểu:

 

- Như ông Thịnh, chỉ là một thẩm phán, nay được làm đại sứ th́ cũng là làm to lắm rồi c̣n bất măn cái nỗi ǵ?

 

- Thưa cụ, trước kia ông làm thẩm phán, nhưng chính cụ cất lên làm bộ trưởng Tư pháp. Người ta thường chỉ nhớ đến cái địa vị cao nhất, mới nhất mà quên ngày xưa ḿnh chỉ là bạch diện thư sinh, hay chỉ là thẩm phán.

 

Lúc bấy giờ ông Diệm mới có vẻ hơi đồng ư với tôi, gật gù:

 

- Như vậy cha tính sao?

 

Tôi cũng trầm ngâm một lúc rồi nói:

 

- Thưa cụ, hiện nay nước ḿnh chỉ liên quan nhiều đến một số quốc gia. Tại những nơi đó, cụ cần phải chọn lựa được những cán bộ ngoại giao xứng đáng thông hiểu tinh thần và đường lối của cụ, đồng thời có tài năng, giỏi tháo vát, hăng say làm việc. Những nơi đó, theo ư tôi, gần th́ có Thái Lan, Cao Miên, Lào. Đó là những nơi số Việt kiều rầt đông, từ vài trăm ngàn ở Lào và Thái Lan, đến gần nửa triệu ở Cao Miên. Các đại sứ ở ba quốc gia này phải kiêm nhiệm cả công việc tuyên truyền, tổ chức Việt kiều để lôi cuốn số Việt kiều đông đảo này về với chính phủ ḿnh, và đừng để cho họ chạy theo cộng sản.

 

C̣n ở một vài nước xa hiện đang chú ư đến nước ḿnh và có khả năng giúp đỡ nước ḿnh như Mỹ, Pháp, Anh, Gia Nă Đại, Tây Đức, th́ cụ cần phải chọn những đại sứ và các nhân viên thật giỏi trong việc vận động dư luận để các nước này có thiện cảm với nước ḿnh mà sẵn ḷng giúp đỡ ḿnh.

 

Tôi tin rằng ông Diệm rất lưu tâm đến vấn đề ngoại giao, nhưng về sau tôi đi ngoại quốc không thấy có thay đổi ǵ nhiều, có lẽ ông không chọn ra người tài, hoặc là v́ cái tinh thần chọn người của ông không được đúng cách.

 

Về sau tôi vẫn thấy nhiều người làm bộ trưởng hay làm tướng, làm đại diện chính phủ Miền rồi khi thôi làm th́ lại được ông Diệm cho đi làm đại sứ. Do đó dân chúng lúc bấy giờ đă có câu: được làm vua thua làm đại sứ.

 

Trong mấy năm sau 1956, thỉnh thoảng tôi vô dinh, nhiều khi làm lễ trong dinh, dùng sáng với ông Diệm, soạn hoặc sửa các diễn văn cho ông Diệm. Có khi ông Diệm trao cho tôi một diễn văn bằng tiếng Pháp do ông Nhu soạn rồi nhờ tôi dịch ra tiếng Việt.

 

Tôi c̣n nhớ một chi tiết quanh một diễn văn của ông Diệm. Nhân dịp lễ Trung Thu năm 1956, tôi vào dinh một hai hôm trước. Ông Diệm đang cầm trên tay một diễn văn đă đánh máy, trao cho tôi đọc, càu nhàu:

 

- Cha coi, cái diễn văn này 15 thằng làm mà không ra ǵ cả.

 

Vơ Văn Hải lúc đó đứng khúm núm bên cạnh,có vẻ lo sợ lắm.

 

Ông Diệm gọi Vơ Văn Hải:

 

- Nè, ḿnh lại lạy cha Luận đi, rồi nhờ ngài sửa cho.

 

Quay qua tôi, ông Diệm nói:

 

- Nhờ cha qua bên pḥng Vơ Văn Hải, đọc lại cái diễn văn này, thấy có ǵ đáng sửa, đáng thêm bớt th́ cha sửa và thêm bớt giúp.

 

Tôi sang pḥng Vơ Văn Hải, đọc lại diễn văn Trung Thu, thấy cũng chẳng đến nỗi tệ ǵ lắm. Tuy nhiên tôi có sửa đổi vài ba câu, thêm bớt mấy chỗ rồi giao cho Vơ Văn Hải cho người đánh máy lại. Ông Diệm chỉ liếc sơ rồi hôm sau lên đọc.

 

Trong thời gian này, tôi không nhớ rơ vào lúc nào bà Nhu có đưa ra dự luật gia đ́nh, và sắp vận động quốc hội biểu quyết.

 

Điều chính yếu trong dự luật này là luật một vợ một chồng cấm ly dị. Tôi nhân có dịp gặp ông Diệm trước khi dự luật được biểu quyết, có thưa với ông Diệm.

 

- Thưa cụ tôi thiết nghĩ là cụ không nên để bà Nhu đưa ra quốc hội cái dự luật gia đ́nh đó, v́ nước ḿnh không cần phải làm luật cấm đa thê và cấm ly dị. Những biến chuyển kinh tế, văn hóa dần dà sẽ dẫn xă hội đến t́nh trạng một vợ một chồng chớ ḿnh không cần làm luật cấm đoán người ta làm ǵ, vả chăng luật lệ chỉ hợp pháp hóa phong tục trong xă hội, mà không tạo ra phong tục. C̣n về cái điều cấm ly dị th́ tôi cũng cho rằng không ích lợi ǵ mà có thể tạo nên nhiều phản ứng chống đối bất lợi cho chính phủ. Khi vợ chồng thương yêu nhau th́ bắt buộc họ cũng không ly dị, c̣n khi họ ghét nhau th́ dù luật pháp có bắt buộc họ sống chung cũng chẳng được. Hơn nữa nước Việt Nam là một nước đa số theo Thiên chúa giáo, cho nên luật cấm đa thê và cấm ly dị không thích hợp lắm. Các nước Tây phưong, trừ nước Ư dù đa số theo Thiên Chúa giáo vẫn cho phép ly dị. Cụ c̣n nắm quyền th́ luật này c̣n giá trị, nhưng về sau họ không thích th́ họ lại thay đổi ngay.

 

Ông Diệm có vẻ đă nuôi sẵn nhiều định kiến về vấn đề này, nên không để ư đến những lập luận của tôi, ông giải thích:

 

- Nước Việt Nam ḿnh phải đóng vai lănh tụ Á đông, nhưng lại không thể, hay chưa thể làm lănh tụ về các phương diện quân sự, kinh tế, khoa học kỹ nghệ được, vậy th́ phải đóng vai lănh tụ trong địa hạt gia đ́nh, v́ như thế ḿnh chứng minh và nêu gương tinh thần đạo đức của Việt Nam đối với thế giới Á đông.

 

Tôi hoàn toàn không đồng ư về cái cách làm lănh tụ Á đông của ông Diệm. Tôi biện bác:

 

- Thưa cụ, nói đến Á đông th́ rộng quá, nhưng nói đến Đông Nam Á th́ Việt Nam có thể đóng vai lănh tụ đúng như ư cụ muốn. Nhưng có điều là luật gia đ́nh không thể giúp Việt Nam làm việc đó được, cấm đa thê và cấm ly dị đối với xă hội Á đông không phải là một điểm đạo đức lớn, và vi phạm các luật cấm đó không phải là những tội nặng đối với phong tục và luật pháp các quốc gia Á đông. Việt Nam ḿnh có thể làm lănh tụ Đông Nam Á ở địa hạt khác, chẳng hạn địa hạt văn hóa, giáo dục.

 

Lúc bấy giờ tôi đă lưu tâm đến các công cuộc phát triển văn hóa giáo dục, và nuôi trong đầu óc một vài ư kiến, nhưng chưa được rơ ràng, nên chưa thể tŕnh bày với ông Diệm. Đại khái ư kiến của tôi là mở rộng Viện Đại học Sài G̣n, lập thêm một vài Đại học khác ở những nơi đông dân cư như Huế, Đà Lạt v.v…

 

Tôi cũng đă nghĩ đến việc trao đổi văn hóa, trao đổi các sinh viên với các quốc gia Đông Nam Á, cách riêng đối với Cao Miên và Lào, v́ tôi nghĩ đến Việt Nam cấp cho họ một số học bổng chắc chắn là họ sẽ vui mừng mà nhận. Tôi định tŕnh bày nhiều hơn với ông Diệm về vấn đề này trong một dịp khác, nhưng lúc này thấy ông Diệm đă có chủ trương cứng rắn đối với luật gia đ́nh, tôi nghĩ dù có nói ǵ cũng chẳng ích lợi chi nữa nên thôi.

 

Ít lâu sau, luật gia đ́nh của bà Nhu được đưa ra trước quốc hội, được biểu quyết nguyên văn, và được ban hành. Ông Diệm, bà Nhu coi luật này như một tiến bộ lớn về mặt đạo đức. Trong dân chúng, nhất là ở Huế, tôi nghe được nhiều nguồn dư luận bất măn chống đối luật gia đ́nh, nhưng v́ mọi người sợ ông Diệm nên chẳng ai dám nói ra, vả lại trên thực tế luật này chỉ ảnh hưởng đến một thiểu số giàu sang, phong kiến, c̣n đa số dân chúng th́ chẳng chịu ảnh hưởng ǵ nhiều.

 

 

37  Ông Diệm và văn hóa giáo dục

 

Từ một quốc gia vừa thoát cảnh chiến tranh, các trường trung tiểu học c̣n thiếu thốn, ông Diệm đă nỗ lực giải quyết vấn đề giáo dục, và trong thời gian từ 1955 đến 1958 người ta thấy các trường trung tiểu học công tư mọc lên khắp nơi. Đại học Sài G̣n phát triển mạnh mẽ, và đặc biệt ông Diệm đă hoàn toàn đồng ư và tích cực nhúng tay vào việc thành lập Đại học Huế.

 

Tại Sài G̣n, ngay từ đầu, nghĩa là từ 1959, khi đă ổn định t́nh h́nh chính trị, ông Diệm đă nghĩ đến việc đưa Đại học Sài G̣n lên khu Đại học Thủ Đức. Ông cũng nghĩ đến việc thành lập Đại học Huế, và trong những câu chuyện giữa ông Diệm và tôi nhiều lúc ông có nhắc đến sự cần thiết phải thành lập một Đại học Huế.

 

Vào ngày mồng 3 Tết năm 1957, h́nh như cuối tháng giêng năm 1957, theo thường lệ ông Diệm ra Huế dự lễ giỗ cụ Khả. Tôi đến chào ông tại nhà ông Cẩn, và ngay đầu câu chuyện ông Diệm nói:

 

- Này cha, tôi thấy cần phải thành lập tại Huế một viện Đại học lớn, v́ hai lư do chính. Thứ nhất là Huế từ trước đă là một trung tâm văn hóa của nước ta. Ở Huế đă có những truyền thống văn hóa sâu đậm, có những cơ sở văn hóa lâu đời, như trường Quốc Tử Giám, các cuộc thi cử Hán học. Dân miền Trung lại hiếu học mà nghèo, có bao nhiêu thanh niên ưu tú muốn lên Đại học mà không thể vào Sài G̣n học tiếp. Thứ hai là hiện nay dân chúng xôn xao đồn đại rằng chính phủ một ngày nào đó có thể bỏ Huế, v́ hiện nay Huế không quan trọng lắm về phương diện chính trị, kinh tế. Vậy lập Viện Đại học Huế là chứng minh cách cụ thể với dân chúng, với quốc tế cũng như với bên kia rằng chính phủ nhất định bảo vệ Huế. Huế chỉ cách vĩ tuyến 17 khoảng 100 cây số, lập ở đây một Đại học lớn chẳng khác nào thách đố với bọn cộng sản. Nếu bây giờ tôi quyết định lập Đại học Huế, cha có bằng ḷng giúp tôi không?

 

Tôi vui mừng thật t́nh. Tôi cũng đă từng nghĩ như ông Diệm, nhưng tôi lưu ư đến vấn đề văn hóa và t́nh trạng của dân miền Trung hơn là về các lư do chính trị.

 

- Thưa cụ, nếu tôi có thể làm được việc ǵ để góp công vào việc thành lập một Đại học ở Huế, th́ cụ có thể tin rằng tôi không ngần ngại chút nào.

 

Ông Diệm thấy tôi nhận lời th́ có vẻ mừng, gật gù:

 

- Vậy th́ ít hôm nữa tôi sẽ sai một phái đoàn ra đây để gặp cha, để thảo luận và nghiên cứu các chi tiết cụ thể. Hôm đó câu chuyện tại nhà ông Cẩn xoay quanh việc thành lập Đại học Huế. Trước mặt ông Diệm những người có mặt tỏ vẻ đồng ư phải thành lập gấp một Đại học tại Huế.

 

Tin này đồn ra ngoài, nhất là trong giới học sinh trung học các năm cuối và giới trí thức, chính trị ở Huế. Ai cũng tỏ vẻ hân hoan chờ đợi. Nhiều người đến gặp tôi và thúc giục tôi xúc tiến việc đó nhanh chóng để làm sao cho đầu niên khóa tới con em họ có thể vào Đại học ngay tại Huế. Tôi cũng bị lôi cuốn trong bầu không khí phấn khởi đó.

 

Khoảng một tháng sau, h́nh như vào cuối tháng giêng, một phái đoàn từ Sài G̣n ra gặp tôi có các ông Ngô Đ́nh Nhu, Bộ trưởng giáo dục Nguyễn Dương Đôn, Viện trưởng Đại học Sài G̣n Nguyễn Quang Tŕnh và những giáo sư, chuyên viên khác.

 

Một cuộc họp được tổ chức tại ṭa tỉnh Thừa Thiên có tỉnh trưởng và một số trí thức thân hào nhân sĩ địa phương tham dự. Tôi tŕnh bày với mọi người những lư do mà ông Diệm đă đưa ra kèm thêm những lư do thực tế của tôi. Hội nghị thảo luận và đi đến quyết định là v́ những hoàn cảnh đặc biệt, những khó khăn trong ngành giáo dục, chưa nên làm việc vội vàng hấp tấp quá. Họ nói rằng ở Huế chỉ nên lập một chi nhánh của Viện Đại học Sài G̣n tùy thuộc hoàn cảnh vào Viện Đại học Sài G̣n và Bộ Quốc gia giáo dục. Như vậy Đại học Huế sẽ không thành một đơn vị độc lập mà chỉ là một số các phân khoa đặt dưới quyền Viện Đại học Sài G̣n mà thôi. Tôi được cử làm đại diện cho ông Viện trưởng Viện Đại học Sài G̣n Nguyễn Quang Tŕnh để tổ chức. Tôi không đồng ư nhưng đành khuất phục trước quyết định của đa số.

 

Mấy hôm lưu lại Huế, phái đoàn đi xem những cơ sở đất đai có thể dùng làm Đại học Huế, như ṭa Đại biểu chính phủ, khách sạn Morin, ngân hàng Đông dương vừa được chính phủ mua lại. Phái đoàn về Sài G̣n được mấy hôm th́ có nghị định thành lập Đại học Huế, nhưng với các điều khoản đặt Đại học Huế lệ thuộc Viện Đại học Sài G̣n.

 

Sau hai tháng hoạt động mỗi ngày tôi thấy thêm nhiều khó khăn chỉ v́ Huế th́ xa Sài G̣n, tôi lại không có đủ thẩm quyền quyết định bất cứ việc ǵ mà phải phúc tŕnh về Viện trưởng Đại học Sài G̣n, về Bộ Quốc gia giáo dục, rồi lên ông Nhu, ông Diệm. Các thủ tục đó làm cho công việc chậm trễ, làm cả tôi và những người góp sức lúc đầu chán nản dần. Tôi vào Sài G̣n tŕnh bày các khó khăn đó thẳng cho ông Diệm. Tôi nói với ông Diệm rằng ư kiến đầu của ông Diệm là muốn có một Đại học Huế độc lập, lớn, quan trọng để thành một chứng minh và thách đố với thế giới và bên kia, nếu cứ phải chạy quấn trong những thủ tục giấy tờ rắc rối và những hành lang của giới giáo dục Sài G̣n, th́ không thể đi đến kết quả tốt được. Tôi yêu cầu ông Diệm cho Đại học Huế qui chế riêng biệt và độc lập, và tôi có quyền quyết định mọi việc trong phạm vi ích lợi cho Đại học Huế. Tôi ngỏ ư nếu không được như vậy th́ xin ông Diệm chọn người khác, và tôi nhận thấy không thể làm việc trong các điều kiện quá rắc rối như vậy được. Tôi không phải là người có thể đi ṿng vo qua bao nhiêu hành lang các bộ sở được măi.

 

Ông Diệm đồng ư:

 

- Cha yên tâm. Tôi đồng ư với cha về những điều đó, và sẽ có nghị định thành lập Viện Đại học Huế tự trị ngay cho cha, và tôi xin mời cha làm Viện trưởng đầu tiên Viện Đại học Huế.

 

Tôi trở về Huế ít hôm th́ có nghị định thành lập Viện Đại học Huế, đồng thời với sắc lệnh cử tôi làm Viện trưởng.

 

Bấy giờ tôi xúc tiến nhanh việc t́m trụ sở, lớp học, địa điểm, đồng thời mời các giáo sư ở Huế, Sài G̣n và ngoại quốc về hợp tác. Trong giai đoạn đầu ban giáo sư gồm có mấy người tôi c̣n nhớ là Lê Tuyên, Lê Khắc Pḥ, Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Văn Trường. Vài tháng sau thêm Lê Thanh Minh Châu và vợ là Tăng Thị Thành Trai.

 

Ngay niên khóa 1957, Đại học Huế mở các chứng chỉ dự bị như Năng lực Luật khoa, Văn khoa, Khoa học. Ngoài ra nhận thấy việc đào tạo giáo sư trung học và giáo viên tiểu học rất cần thiết cho t́nh trạng phát triển giáo dục mạnh mẽ hiện nay và tương lai, tôi chú trọng đặc biệt vào Đại học Sư phạm.

 

Thấy công việc tạm yên, sau khi các lớp đầu mở được một vài tháng cuối năm 1957, tôi và Lê Thanh Minh Châu đi ngoại quốc, với chủ ư nghiên cứu cách thức tổ chức Đại học đồng thời vận động sự giúp đỡ của các quốc gia Đồng minh. Trước hết tôi đến Âu châu, rồi sang Mỹ và Gia Nă Đại.

 

Tại Mỹ tôi nhận được nhiều sự giúp đỡ thiết thực và tích cực của một vài tổ chức. Tổ chức IRC (Intallectual Rescue Commity) giúp đỡ đầu tiên và nhiều nhất bằng cách cấp cho Đại học Huế một khoảng tiền mặt đủ để tăng thêm lương cho mỗi giáo sư 5.000 đồng mỗi tháng. Nhờ đó công việc mời giáo sư giảng dạy tại Đại học Huế được dễ dàng hơn. Tôi đánh điện về nước báo tin vui, và nói với các anh em ở nhà dựa theo tiêu chuẩn lương bổng mới mà mời thêm giáo sư.

 

Cơ quan thứ hai giúp đỡ quan trọng cho Đại học Huế là Asia Foundation.

 

Ngoài những ngân khoản dùng để xây cất cư xá sinh viên, tổ chức thể thao, cơ quan này c̣n cấp nhiều học bổng cho các sinh viên Đại học Huế, và nhờ đó khuyến khích các sinh viên cũng như tăng uy tín cho Đại học Huế.

 

Một tổ chức thứ ba tuy nhỏ nhưng tích cực giúp đỡ Viện Đại học Huế, là tổ chức New Land Foundation, do giáo sư Burtinguer làm chủ tịch. Ngay trong lần gặp gỡ đầu, giáo sư đă tỏ ra sốt sắng giúp đỡ, và hứa giúp mỗi năm 5.000 Mỹ kim tiền mặt, và sau hai năm tổ chức này tăng lên 7.000 Mỹ kim mỗi năm.

 

Tôi cũng đến thăm vài Viện Đại học Hoa Kỳ và ở đây tôi cũng nhận được những sự khuyến khích nồng hậu của họ. Hầu hết đều hứa hẹn dành cho Đại học Huế một vài học bổng, và nếu cần ǵ trong khả năng và quyền hạn của họ th́ tôi cứ liên lạc sau, họ sẽ cố gắng giúp đỡ.

 

Tôi trở về Sài G̣n và vào gặp Tổng thống Diệm tŕnh bày kết quả chuyến đi. Tổng thống rất lưu ư đến Đại học Huế cho nên khi hay tin thêm nhiều tổ chức có thiện cảm và giúp đỡ cụ thể Đại học Huế ông mừng lắm. Riêng ông rất tích cực trong việc mở mang Đại học Huế.

 

Cần đến điều ǵ, tôi thường vào Sài G̣n tŕnh bày thẳng với ông và trong hầu hết các trường hợp đều được ông chấp thuận, đôi khi quá mức hy vọng của tôi. Lúc đầu một vài người đưa ư kiến t́m một khu đất rộng ở ngoại ô để lập một khu Đại học Huế thật rộng răi xứng đáng. Tôi thấy ư kiến này có điều hay, nhưng chỉ ngại t́nh h́nh an ninh không được bảo đảm, sẽ làm hỏng tất cả mọi việc, nên đề nghị chọn một vài khu đất rộng c̣n trống trong thành phố th́ hơn. Do đó các cơ sở mới của Đại học Huế được xây cất trên khu đất trống của ṭa Khâm sứ cũ, hoặc trên đất Hồ Đắc Trung trước ṭa Đại biểu cũ.

 

Các họa đồ đều do Ngô Viết Thu vẽ rồi tŕnh thẳng lên ông Diệm duyệt. Tôi nhớ một hôm tôi về Sài G̣n, ông Diệm đưa tôi xem họa đồ khu cư xá giáo sư do Ngô Viết Thu vẽ vừa đưa lên. Ngô Viết Thu khi đó cũng có mặt trong pḥng. Ông Diệm chăm chú nh́n vào họa đồ, rồi hỏi Ngô Viết Thu:

 

- Phải có chỗ để phơi quần áo chớ. Chẳng lẽ bắt người ta phơi quần áo đầu giường sao?

 

Tôi và Ngô Viết Thu đều có vẻ ngạc nhiên, v́ không nghĩ ra ông Diệm có thể chú ư đến những việc nhỏ bé như vậy. Điều này chứng tỏ ông Diệm lưu tâm đến đại học Huế chừng nào, và cũng chứng tỏ rằng trong nhiều vấn đề, ông Diệm rất hết sức tỉ mỉ, không hàm hồ như nhiều người chê trách sau này. Ngô Viết Thu phải sửa sơ lại họa đồ, và thêm pḥng phơi quần áo cho cư xá giáo sư.

 

Mỗi lần ra Huế, ông Diệm đều đến thăm đại học Huế, và bàn thêm với tôi về những cách thức củng cố và mở mang đại học Huế. Điều này có lúc gây ra đôi chút đố kỵ từ giới Đại học và giáo dục ở Sài G̣n thời bấy giờ, mà tôi sẽ tŕnh bày trong việc thành lập đại học Y khoa Huế.

 

Hết năm 1958, Viện đại học Huế có thể gọi là đă trưởng thành về mọi mặt. Các phân khoa hoạt động đều đặn. Bấy giờ tôi bắt đầu nghĩ đến việc mở thêm đại học Y khoa, tôi cho rằng đại học Huế có Y khoa th́ mới gọi là đầy đủ được. Tôi từng đọc những bản thống kê về con số bác sĩ trên thế giới, th́ thấy rằng tính theo dân số, tỉ lệ các bác sĩ Việt Nam c̣n kém hơn Phi châu. Ở Việt Nam cứ 30.000 người dân một bác sĩ, trong lúc ở Phi châu, chỉ trên 20.000 dân đă có một bác sĩ.

 

Một t́nh trạng khan hiếm bác sĩ trong một quốc gia đang mở mang tai hại đến nhiều thế hệ về sau. Tại nông thôn t́nh trạng khan hiếm bác sĩ càng rơ rệt. Ở Huế những quận lớn và đông dân cư như Hương Thủy, Cầu Hai không có được một bác sĩ dân sự nào, mặc dầu có những người địa phương tốt nghiệp bác sĩ. Các bác sĩ quy tụ cả vào Sài G̣n và những thành phố lớn. Riêng trong thành phố Huế, con số bác sĩ dân y và những bác sĩ quân y mở pḥng mạch riêng ngoài phố cũng không đủ so với dân số Huế.

 

Tôi đă lưu tâm đến vấn đề khan hiếm bác sĩ, cán sự y tế từ khi về nước. Tôi c̣n nhớ lúc làm cha xứ Đan Sa ở Quảng B́nh tôi đă chứng kiến sự khốn khổ của người dân thiếu hiểu biết y tế, thiếu bác sĩ là như thế nào, v́ đó ngay từ khi mới mở Đại học Huế, tôi đă cố gắng thêm những khóa cán sự điều dưỡng và nữ hộ sinh quốc gia.

 

Nhưng không ai có thể thay thế được những bác sĩ có khả năng, giàu lương tâm chức nghiệp.

 

Với tất cả những ưu tư đó, vào cuối năm 1958, tôi vào Sài G̣n gặp ông Diệm để tŕnh bày về sự cần thiết phải mở đại học Y khoa Huế. Tôi đưa ra mọi lư lẽ để thuyết phục ông Diệm.

 

- Thưa cụ, giữa thời đại văn minh này, nhiều làng mạc, thôn xóm Việt Nam, nhiều người Việt Nam vẫn chữa bệnh theo lối đồng bóng phù thủy, cầu thánh. Người ta đă chỉ trích cái tinh thần mê tín dị đoan của dân Việt Nam, nhưng không ai chịu bứng cái gốc của sự mê tín dị đoan đó, là v́ Việt Nam thiếu hiểu biết về vệ sinh y tế, và thiếu bác sĩ ở nông thôn. Miền Trung vừa nghèo vừa đông dân cư, t́nh trạng thiếu bác sĩ càng trầm trọng hơn bất cứ nơi nào khác. Tôi thấy cần phải mở đại học Y khoa Huế để đào tạo những sinh viên Huế có khả năng và ham thích Y khoa trở thành những bác sĩ. Hẳn cụ cũng biết hằng năm đại học Y khoa Sài G̣n chỉ đào tạo được vài chục bác sĩ, trong số đó một phần đă phải vào ngành quân y. Hằng năm có đến hàng ngàn sinh viên thi vào Y khoa, nhưng đều bị loại không phải v́ họ thiếu khả năng, không đúng tiêu chuẩn nhưng chỉ v́ mức thu nhận của đại học Y khoa Sài G̣n quá ít ỏi. Bây giờ dù có mở thêm đại học Y khoa Huế chúng ta cũng không sợ thiếu sinh viên, hay ứ đọng bác sĩ…

 

Cụ Diệm có vẻ hết sức lưu tâm đến vấn đề. Cụ đồng ư với những lập luận của tôi, gật gù hứa hẹn:

 

- Cha nói đúng. Nước ḿnh thiếu bác sĩ một cách trầm trọng. Tôi đă lưu ư đến t́nh trạng này từ lâu, nhưng vấn đề hết sức quan trọng, lại nặng tính cách chuyên môn quá nhiều nên tôi không thể đơn phương quyết định được. Tôi hứa với cha sẽ đưa vấn đề ra thảo luận trong một hội đồng nội các gần nhất. Riêng tôi, hoàn toàn ủng hộ đề nghị của cha.

 

Tôi ra về, có vài phần tin tưởng.

 

Ba tuần sau chẳng thấy tin tức ǵ, tôi lại vào Sài G̣n và đến gặp Tổng thống. Tổng thống cho biết rằng vấn đề đă được đưa ra một hội đồng nội các cách đây 10 hôm, nhưng các ông bộ trưởng đều bác bỏ, sau khi tham khảo giới đại học Y khoa Sài G̣n.

 

- Thưa cụ, họ viện ra những lư do ǵ để bác bỏ?

 

- Tôi cũng thấy những lư do họ đưa ra không vững vàng chi lắm, nhưng nó chứng tỏ rằng họ không muốn có thêm một đại học Y khoa. Họ nói rằng cả nước Việt Nam chỉ cần có một đại học Y khoa là đủ lắm rồi.

 

Tôi bực tức hết sức:

 

- Thế nào gọi là đủ được, thưa cụ. Phi châu cứ 20.000 dân đă có một bác sĩ, trong lúc Việt Nam tự hào có bốn ngàn năm văn hiến, cụ lại đương có dự tính làm cho nước Việt Nam đóng vai lănh tụ Đông Nam Á mà trên 30.000 dân mới có được một bác sĩ, th́ gọi là đủ làm sao được. Hơn nữa như cụ hiểu hơn ai hết, các bác sĩ phần lớn đều quy tụ vào các thành phố lớn, c̣n ở nông thôn có khi cách hàng chục cây số chưa t́m ra được một bác sĩ. Ngày xưa dân chúng c̣n chữa trị bằng thuốc bắc, thuốc nam được là nhờ các cụ đồ nho tham khảo sách Tàu được, nay lớp người đó đă quy tiên, lớp trẻ lớn lên không hiểu chữ Nho, những thầy thuốc Bắc ngày nay càng ngày càng suy đồi về nghề nghiệp, chỉ c̣n giữ được vài phương thuốc gia truyền. Nhiều khi họ chữa trị bậy bạ, làm hại cho sức khỏe của dân chúng hơn là làm lợi.

 

Ông Diệm có vẻ thông cảm với sự bực tức của tôi, b́nh tĩnh giải thích:

 

- Ngoài lư do trên đây, họ c̣n viện lẽ rằng hiện nay số bác sĩ giảng viên Y khoa của Việt Nam rất thiếu, may lắm vừa đủ cung ứng cho đại học Y khoa Sài G̣n, mà không thể nào cung ứng thêm cho một đại học Y khoa thứ hai nào khác. Nếu mở đại học Y khoa Huế, chả lấy đâu ra bác sĩ giáo sư.

 

- Thưa cụ, tôi đồng ư là chúng ta thiếu giáo sư, không những về Y khoa, mà về mọi ngành đại học khác . Nhưng không lẽ v́ thấy thiếu rồi chúng ta không làm ǵ cả, không mở đại học kỹ thuật, đại học khoa học v.v…? Chúng ta phải t́m cách để giải quyết những khó khăn đó. Chẳng hạn chúng ta có thể yêu cầu những quốc gia Đồng minh giúp cho chúng ta một số giáo sư Y khoa…

 

Ông Diệm có vẻ đồng ư hơn với tôi:

 

- Cha ngồi chờ một lát tôi gọi ông Bộ trưởng Quốc gia giáo dục và hỏi qua ư kiến một chút.

 

Ông Diệm nhấc điện thoại gọi ông Trần Hữu Thế, lúc bấy giờ vừa thay Nguyễn Dương Đôn làm Bộ trưởng giáo dục. Chỉ vài phút sau th́ ông Thế vào.

 

Ông Thế không có thêm ư kiến mới lạ nào, ngoài những điều đă đưa ra trong hội đồng nội các mười hôm trước nhằm bác bỏ việc thành lập đại học Y khoa Huế. Ông Diệm nói:

 

- Sau khi bàn với cha Luận, tôi thấy có thể mở đại học Y khoa Huế, và đă quyết định thành lập đại học Y khoa. Ông Bộ trưởng cho thảo sắc lệnh mai đem lên tôi kư.

 

Ba người ngồi lại thảo luận thêm một chút. Ông Diệm hỏi tôi:

 

- Bây giờ cha đă có sắc lệnh rồi, cha làm cách nào mở được đại học Y khoa Huế?

 

Ông Thế có vẻ cũng muốn hiểu điều đó. Tôi đă có chủ ư rồi.

 

- Thưa cụ, hôm nay có sắc lệnh, không phải là ngày mai có liền một đại học Y khoa. Nhưng sắc lệnh đó cho tôi một căn bản để hoạt động, kêu gọi các ṭa Đại sứ, các nước Đồng minh, các Viện đại học Y khoa lớn trên thế giới giúp đỡ ḿnh, cũng như để có căn bản mời những bác sĩ giáo sư Việt Nam ở ngoại quốc về nước. Có thể là hôm nay có sắc lệnh, nhưng năm sau hay lâu hơn nữa mới có thể mở được. Nhưng nếu hôm nay không có sắc lệnh c̣n nói chi đến chuyện có một Viện đại học Y khoa Huế.

 

Ông Diệm và Trần Hữu Thế có vẻ đồng ư điều đó. Ông Diệm gật đầu:

 

- Được rồi ngày mai cha sẽ có sắc lệnh.

 

Quả thực ngày mai vào pḥng ông Diệm, tôi đă thấy sắc lệnh thành lập đại học Y khoa Huế để trên bàn làm việc của ông Diệm. Ông Diệm trịnh trọng cầm sắc lệnh trao cho tôi, nh́n tôi một lúc lâu:

 

- Tôi đặt hết tin tưởng vào nơi cha, nhưng tôi lo sợ cha làm không thành th́ bọn trí thức Sài G̣n, nhất là giới Y khoa ở đây, chẳng những cười cha mà c̣n chê tôi nữa. Cầu chúc cha thành công.

 

- Tôi sẽ cố gắng hết sức ḿnh, và tin rằng sẽ thành công, nhưng mọi việc c̣n nhờ cụ nhiều lắm.

 

Tiễn tôi ra cửa, ông Diệm c̣n căn dặn:

 

Những ǵ trong phạm vi khả năng của tôi, chắc chắn là tôi không từ chối đâu, nhưng tôi thấy công việc thật là khó khăn.

 

Đă có sắc lệnh trong tay, tôi đi gặp các ṭa Đại sứ, phần nhiều được các tham vụ văn hóa các ṭa Đại sứ này đón tiếp nồng hậu, ghi nhận sự thông báo và yêu cầu của tôi, và nơi nào cũng hứa sẽ nghiên cứu rồi t́m cách giúp đỡ sau. Người thứ nhất mà tôi đến t́m gặp là ông Costler, Phó Giám đốc cơ quan Viện trợ Hoa Kỳ. Ông tỏ vẻ hiểu biết, cho tôi biết rằng Hoa Kỳ có thể giúp đỡ Việt Nam rất nhiều về mặt khoa học kỹ thuật nhưng không thể giúp ǵ cho Y khoa được. Từ ba năm nay Hoa Kỳ cũng rất muốn giúp đỡ Y khoa Việt Nam phát triển nhưng v́ sự cạnh tranh giữa hai khuynh hướng Pháp và Mỹ nên đành bó tay.

 

Tôi hứa với ông là trong đại học Y khoa Huế tương lai vấn đề cạnh tranh ảnh hưởng giữa Pháp và Mỹ sẽ không được đặt thành. Ông hứa sẽ nghiên cứu sự yêu cầu giúp đỡ của tôi và sẽ thông báo kết quả cho tôi sau.

 

Nơi thứ hai mà tôi t́m đến là ṭa Đại sứ Pháp.

 

Ông tham vụ văn hóa ṭa Đại sứ Pháp trả lời cho tôi biết rằng Pháp hiện đă dốc các nỗ lực giúp cho đại học Y khoa Sài G̣n, và thấy khó có thể giúp thêm cho đại học Y khoa Huế, v́ vậy không thể hứa điều ǵ ngay lúc này, nhưng sẽ nghiên cứu và cho biết sau.

 

Tôi đến ṭa Đại sứ Tây Đức, và được ông Đại sứ là ông Von Wenland tiếp cách nồng hậu, niềm nở. Ông Đại sứ cho biết rằng vấn đề khó khăn, tế nhị v́ ở Đức quyền các tiểu bang khá lớn, và quy chế tự trị đại học có tính cách gần như tuyệt đối. Chính phủ liên bang dù muốn làm việc ǵ cũng phải được sự đồng ư của tiểu bang và của các Đại học.

 

Tuy nhiên ông hứa sẽ t́m mọi cách giúp đỡ tôi trong việc thành lập đại học Y khoa Huế. Ông cho biết tuần sau ông sẽ cử một cố vấn văn hóa ra Huế xem xét và nghiên cứu.

 

Tôi về Huế được một tuần th́ ông bác sĩ Jacob cố vấn văn hóa ṭa Đại sứ Đức ra thăm tôi và thảo luận về những chi tiết thành lập đại học Y khoa. Ngoài ra tôi cũng dẫn ông đến quan sát bệnh viện trung ương Huế.

 

Lúc tôi trở vào Sài G̣n, ông hỏi tôi:

 

- Tôi rất thiện cảm với chương tŕnh của cha nhưng xin cha cho biết việc đầu tiên mà nước tôi có thể giúp cha là việc ǵ?

 

- Tôi đă có sắc lệnh, nhưng chính tôi cũng chưa biết phải làm ǵ, bắt đầu từ chỗ nào. Vậy việc đầu tiên và dễ dàng mà tôi yêu cầu ṭa Đại sứ Đức giúp cho là phái sang đây một giáo sư đứng tuổi, nhiều kinh nghiệm giảng dạy và tổ chức đại học Y khoa. Ông sẽ sống ở đây với tôi vài tháng, để quan sát và nghiên cứu rồi phúc tŕnh về ṭa Đại sứ và về nước Đức, đồng thời ông có thể làm cố vấn cho tôi.

 

Bác sĩ Jacob đồng ư, và cho rằng việc đó có lẽ không khó khăn lắm và sẽ được chấp thuận dễ dàng.

 

Hai tháng sau, bác sĩ Krainick, giáo sư thạc sĩ đứng tuổi, từng giảng dạy tại đại học đường Y khoa Freiburg, được chính phủ và Bộ ngoại giao Đức phái đến Huế. Ông lưu lại Huế 2 tháng hơn, làm việc tại bệnh viện Trung ương Huế và nhận định rằng bệnh viện này đủ điều kiện cung cấp những phương tiện nghiên cứu cho một đại học Y khoa.

 

Ông làm phúc tŕnh lên ṭa Đại sứ Đức, với đề nghị là Đức nên giúp đỡ Việt Nam thành lập đại học Y khoa Huế. Các nhận định của ông trong bản phúc tŕnh hết sức thuận lợi. Ông đề nghị với tôi là sau khi ông về nước Đức vài tháng, tôi nên sang Đức, đi vận động các tiểu bang và các Đại học, v́ ông cho tôi biết như Đại sứ Đức đă nói, quyền các tiểu bang và các đại học ở Đức rất lớn.

 

Tôi vào Sài G̣n tŕnh bày những kết quả và đề nghị là có thể xúc tiến ngay công việc xây cất trường sở. Tôi xin một ngân khoản 5, hay 6 triệu đồng để mở những cơ sở đầu tiên, chuẩn bị mở lớp thứ nhất vào năm học tới. Ông Diệm đồng ư nhưng nói rằng hiện nay không c̣n một ngân khoản nào có thể rút ra được để bỏ vào đại học Y khoa Huế. Tôi đề nghị cho tôi lấy tiền lời xổ số kiến thiết liên tiếp 8 kỳ. Ông Diệm đồng ư và số lời 8 kỳ xổ số kiến thiết được khoảng 6 triệu. Tôi có thể bắt đầu xây cất những cơ sở đầu tiên ngay.

 

Công việc được giao cho nhà thầu, xây theo họa đồ của Ngô Viết Thụ. Tôi và Lê Khắc Quyến đi Đức rồi sang Ba-Lê sau. Đại sứ Việt Nam tại Bonn là Hà Vĩnh Phương hết sức hăng hái giúp đỡ tôi, đích thân trông nom việc tổ chức thăm viếng các nơi. Trước hết tôi đến gặp ông Giám đốc viện trợ hải ngoại, nằm trong Bộ ngoại giao Đức. Bộ này phụ trách mọi công việc viện trợ ngoại quốc. Ông này cho biết Bộ ngoại giao và chính phủ Đức đă nhận được phúc tŕnh của giáo sư Krainick, và hết sức sẵn ḷng giúp đỡ tôi trong việc thành lập đại học Y khoa Huế, nhưng cho tôi biết rằng chính phủ liên bang không thể bổ nhiệm các giáo sư y khoa, v́ các giáo sư Y khoa nằm trong quyền điều động của các đại học tự trị. Ông khuyên tôi đến thăm các đại học lớn ở Đức, và thuyết phục các đại học này bảo trợ cho đại học Y khoa Huế. Ông c̣n cho biết rằng bất cứ giáo sư Y khoa nào đồng ư sang giảng dạy ở Huế, sẽ được chính phủ trung ương đài thọ lương bổng và mọi đề nghị của họ về việc trang bị dụng cụ y khoa sẽ được chính phủ thỏa măn.

 

Trước hết tôi đi thăm Cologne và đại học Y khoa ở đó. Tôi được Viện trưởng tiếp đăi niềm nở, nhưng cho biết rằng đại học Cologne nhỏ bé, lại đă bảo trợ cho một đại học ở Phi châu, v́ nơi đó là cựu thuộc địa của Đức, nên chỉ có thể giúp đỡ một cách khiêm tốn là cấp học bổng cho các bác sĩ Việt Nam nào muốn làm giáo sư.

 

Tôi sang thăm đại học Tự Do Bá Linh ở Tây Bá Linh, gặp Viện trưởng và Khoa trưởng Y khoa, nhưng ở đây họ cũng tŕnh bày các lư do tương tự như ở Cologne và cũng đề nghị cách giúp đỡ tương tự. Tại Heidenburg, Stugrat người ta cũng nói tương tự như vậy. Tôi chỉ c̣n trông cậy vào đại học Freiburg, là nơi giáo sư Krainick làm giáo sư.

 

Ở đây tôi được đón tiếp đặc biệt, v́ đă được giáo sư Krainick về trước mấy tháng vận động cho. Tôi được hướng dẫn đến gặp Thủ tướng tiểu bang là ông Keisinger (sau này làm Thủ tướng Tây Đức). Freiburg thuộc tiểu bang Baden Baden. Ông Keisinger hứa sẽ giúp đỡ Đại học Y khoa Huế.

 

Có một chi tiết đáng nhớ là trong cuộc tiếp xúc chúng tôi nói chuyện qua một thông ngôn, nhưng sau, trong một buổi tiệc, ông Keisinger nói chuyện bằng tiếng Pháp và nói rất giỏi. Tôi hỏi lư do th́ được biết rằng sở dĩ trong cuộc tiếp xúc chính thức, ông sử dụng thông ngôn là v́ vấn đề nghi lễ, thủ tục.

 

Tôi đến gặp Tổng Giám Mục Freiburg, v́ biết rằng ở đây Đức Tổng Giám Mục có ảnh hưởng lớn trong giới đại học. Tại đại học đường Freiburg có phân khoa thần học, đều do các linh mục dạy và các linh mục này đều được Tổng Giám Mục đề cử. Viện trưởng vừa từ chức là một linh mục, và hiện vẫn c̣n có nhiều ảnh hưởng trong giới đại học.

 

Đức Tổng Giám Mục rất thiện cảm với những nỗ lực của tôi và hứa sẽ hết sức giúp đỡ trong phạm vị khả năng và ảnh hưởng của ngài.

 

Riêng đại học Y khoa Freiburg th́ Viện trưởng và Khoa trưởng đồng ư để đại học Y khoa Freiburg bảo trợ cho đại học Y khoa Huế, trong năm đầu sẽ cung cấp 3 giáo sư, và để khích lệ giáo sư, những năm giảng dạy ở Huế cũng vẫn được tính vào thâm niên công vụ như là dạy ở Freiburg vậy. Ngoài ra đại học Freiburg sẵn sàng huấn luyện cho các bác sĩ trở thành giáo sư Y khoa.

 

Tôi có ghé Thụy Sĩ và thăm đại học Công giáo nhưng không được sự giúp đỡ nào đáng kể.

 

Như thế chuyến thăm Đức của tôi có thể coi như thành công. Tôi đi Ba-Lê với ư đĩnh t́m một bác sĩ giáo sư người Việt Nam có tiếng, có tài để về làm khoa trưởng Y khoa đầu tiên của đại học Y khoa Huế. Tôi có biết bác sĩ Lê Tấn Vĩnh, một giáo sư thạc sĩ nổi tiếng hiện làm trong pḥng nghiên cứu của giáo sư Lelong tại đại học Y khoa Ba-Lê. Tôi tŕnh bày với ông mọi dự tính của tôi và cố gắng thuyết phục ông. Ông Vĩnh đồng ư nhưng cho biết rằng ông bận những công việc nghiên cứu quan trọng ở Pháp và không thể mất cơ hội hiện có này, nên chỉ có thể về Việt Nam mỗi năm 6 tháng mà thôi.

 

Ông Vĩnh nói rằng muốn cho ông có thể về nước được th́ tôi phải gặp và thuyết phục giáo sư Lelong.

 

Tôi đến gặp giáo sư Lelong, tŕnh bày mọi việc khẩn khoản mời giáo sư Vĩnh, ông Lelong tỏ ra hết sức quư mến ông Vĩnh, và cho tôi biết rằng Việt Nam có một người như ông Vĩnh, nhưng nếu ông Vĩnh từ bỏ những công cuộc nghiên cứu hiện ông đang theo đuổi th́ chẳng những thiệt hại cho Việt Nam mà thiệt hại cả cho thế giới. Tuy nhiên ông cũng đồng ư để cho ông Vĩnh về Việt Nam mỗi năm sáu tháng.

 

Tôi về Việt Nam, và vẫn tiếp tục liên lạc thường xuyên với đại học Freiburg và bác sĩ Lê Tấn Vĩnh. Vài tháng sau bác sĩ Vĩnh về Huế và giữ chức khoa trưởng Y khoa đầu tiên. Ngày nay sở dĩ ít ai nhớ đến ông Vĩnh là v́ ông làm khoa trưởng Y khoa được vài tháng th́ bị bệnh, phải trở sang Pháp để chữa trị. Thực ra bên trong c̣n nhiều uẩn khúc, mà tôi ngần ngại không muốn nói ra, sợ làm mất ḷng một số người. Nhưng tôi thiết nghĩ cần phải nói lên, để lưu ư những người có trách nhiệm về sau. Quả thực ông Vĩnh bị bệnh, nhưng đó không phải là nguyên nhân chính buộc ông từ bỏ đại học Y khoa Huế vĩnh viễn.

 

Sau mấy tháng làm khoa trưởng, ông Vĩnh cố gắng hết sức, nhưng gặp phải sự đố kỵ của giới Y khoa Sài G̣n, làm cho ông buồn bực, chán nản. Ông tưởng rằng về nước với tất cả thiện chí, ông có thể giúp ích cho nước nhà, và ít nhất cũng được các đồng nghiệp hiểu cho điều đó, không ngờ chỉ gặp sự đố kỵ, ghen ghét, tị hiềm. Tính ông không muốn rơi vào những mưu mô, những vận động đen tối, nên nhân có bệnh, ông rời Huế và về sau báo tin cho tôi biết ông quyết định từ chức, yêu cầu tôi chọn người thay thế.

 

Niên khóa 1959 lớp dự bị Y khoa đầu tiên của đại học Y khoa Huế khai giảng. Các giáo sư đă tạm đủ để phụ trách lớp này nhưng trường sở c̣n thiếu nhiều lắm. 6 triệu đồng tiền lời xổ số kiến thiết chưa đủ vào đâu. Tôi vào Sài G̣n tŕnh bày cho ông Diệm, và được cấp thêm 10 triệu, nhưng khi tính vào các khoản vẫn thấy thiếu.

 

Tôi đến gặp ông Seabern, đại sứ trưởng phái bộ Gia Nă Đại trong Ủy hội kiểm soát đ́nh chiến. Ông Seabern mừng rỡ cho tôi biết rằng tôi đến thật đúng dịp may, Gia Nă Đại vừa cấp 30 triệu đồng Việt Nam trong khoản thặng dư tiền bán lúa mỳ năm nay nhưng chưa sử dụng vào việc ǵ. Ông cho biết thêm rằng Đức cha Ngô Đ́nh Thục có xin được cấp ngân khoản đó để dùng vào đại học Đà Lạt, nhưng chính phủ Gia Nă Đại cho rằng đại học Đà Lạt là một đại học tư thục Công giáo, nước ông lại là nước vừa Công giáo, vừa Tin lành, cho nên chính phủ không muốn mắc tiếng là thiên vị tôn giáo nào. Ông sẵn sàng cấp 25 triệu cho đại học Y khoa Huế và 6 triệu cho đại học Khoa học để xây một giảng đường lớn. Tôi cũng muốn nhắc lại là mặc dù từ lúc đầu phái bộ viện trợ Mỹ hứa giúp đỡ, nhưng trên thực tế măi hai năm sau khi đại học Y khoa hoạt động, Mỹ mới bắt đầu giúp đỡ, trang bị các pḥng thí nghiệm và cấp 60 triệu xây cất thêm trường đại học Sư phạm và trường trung học kiểu mẫu.

 

Kết thúc phần tŕnh bày sự thành lập đại học Huế tôi nhận định rằng trong những năm 1957-1962, đại học Huế đă phát triển mạnh và ổn định chính trị ở Việt Nam làm cho các nước Đồng minh tin tưởng vào tương lai Việt Nam, nên sẵn sàng giúp đỡ cho Việt Nam mà không sợ phí.

 

Yếu tố thứ hai, là ông Diệm đặc biệt chú ư đến việc thành lập củng cố và phát triển đại học Huế. Trong phạm vị phương tiện và khả năng của ông, tôi nhận thấy ông Diệm đă không ngần ngại một việc ǵ để giúp cho đại học Huế lớn mạnh. Ông có thể sai lầm về chính trị, nhưng những nỗ lực phát triển văn hóa, điển h́nh là thành lập và mở mang đại học Huế, th́ tôi thấy cần phải công tâm và nhận định rằng ông Diệm đă có công đáng kể. Biết bao nhiêu người quyền hành trong tay đă không làm được như ông Diệm.

 

Những năm 1956-1961 là những năm cực thịnh của chế độ Ngô Đ́nh Diệm. Lúc bấy giờ Việt cộng chỉ bắt đầu khuấy phá một vài nơi, và phần lớn chỉ là những sự phá hoại, giật ḿn, đánh lén những đồn bót hẻo lánh. Tuy nhiên lúc này ông Diệm đă chú ư đến mối đe dọa của cộng sản, cho nên một mặt ông tung ra phong trào tố cộng, mặt khác bắt đầu thực hiện kế hoạch ấp chiến lược.

 

Uy quyền ông Diệm quá lớn nhưng thuộc hạ chẳng mấy ai là người tài giỏi hay có tư cách vững chăi, cho nên mọi quyết định ông Diệm đưa ra chẳng bao giờ có ai cản trở hay can gián.

 

Chung quanh chiến dịch tố cộng thời bấy giờ, tôi nhận thấy nhiều lạm dụng, lộng quyền, vu khống, oan ức.

 

Nhưng bởi v́ tôi không nắm đầy đủ mọi sự kiện, lại không có thẩm quyền ǵ, nên không thể đưa ra ư kiến trái ngược nào với ông Diệm hoặc ông Nhu. Tôi nghe nói lại một vài nơi ở thôn quê, cách thức tố cộng đă học đ̣i lối tố khổ, đấu tố của cộng sản.

 

Các giáo sư trong Viện đại học Huế, cũng được phân phát những tài liệu học tập tố cộng, nhưng v́ tôi không đặc biệt quan tâm, cho nên họ cũng hội họp bàn bạc lấy lệ, không có tính cách bắt buộc ai cả.

 

 

(c̣n tiếp)

 

 

 

Tin Tức - B́nh Luận     Vinh Danh QLVNCH     Audio Files     Tham Khảo     Văn Học Nghệ Thuật     Trang Chính